Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đặc điểm tiểu thuyết của nguyễn đình tú....

Tài liệu đặc điểm tiểu thuyết của nguyễn đình tú.

.PDF
135
123
91

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------- DƯƠNG THỊ HƯƠNG ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN ĐÌNH TÚ LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Hà Nội – Năm 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------- DƯƠNG THỊ HƯƠNG ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN ĐÌNH TÚ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:PGS.TS Nguyễn Bích Thu Hà Nội – Năm 2013 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 1.Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 6 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 7 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 12 4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 12 5. Mục đích của luận văn ......................................................................................... 13 6. Cấu trúc luận văn ................................................................................................. 13 NỘI DUNG ............................................................................................................. 14 Chƣơng 1. SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN ĐÌNH TÚ TRONG SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI .............................................. 14 1.1.Khái quát chung về tiểu thuyết và tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại ........... 14 1.1.1 Khái niệm tiểu thuyết ...................................................................................... 14 1.1.2 Tiểu thuyết Việt Nam đương đại..................................................................... 14 1.2. Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú trong sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại ................................................................................................................ 21 1.2.1. Con người và sự nghiệp ................................................................................. 21 1.2.2. Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú ................................................................... 23 Chƣơng 2. CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN ĐÌNH TÚ .............................................................................................. 29 2.1.Những mảng sáng trong cuộc sống đời thƣờng ............................................. 29 2.1.1. Vẻ đẹp tình người ........................................................................................... 30 2.1.2. Khẳng định quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của con người ........ 35 2.1.3. Sex- khát vọng tình yêu mãnh liệt ................................................................. 41 2.1.4. Tôn giáo- điểm tựa tinh thần trong đời sống con người ................................ 50 2.1.5. Truy tìm nguyên nhân sa ngã phía sau bản án ............................................... 57 2.2. Những góc khuất của cuộc sống đời thƣờng................................................. 66 2.2.1. Nền kinh tế thị trường và sự xuống cấp của giá trị đạo đức. ......................... 67 2.2.2.Thế hệ trẻ và nỗi hoang mang trong việc xác lập bảng giá trị ........................ 74 4 2.2.3.Sự hoành hành của thế giới tội phạm .............................................................. 80 2.2.4.Sự tha hóa của nhu cầu bản năng, dục vọng ................................................... 88 2.2.5.Sự lụi tàn niềm tin vào cuộc sống ................................................................... 91 Chương 3. PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH TÚ ................................................................................................................. 96 3.1. Nghệ thuật kết cấu .......................................................................................... 96 3.1.1.Kết cấu song song ........................................................................................... 97 3.1.2.Kết cấu đa tuyến ............................................................................................ 100 3.1.3.Kết cấu dòng ý thức ...................................................................................... 102 3.2.Các kiểu tổ chức cốt truyện ........................................................................... 105 3.2.1.Tổ chức cốt truyện phân mảnh ...................................................................... 106 3.2.2. Tổ chức cốt truyện: truyện lồng trong truyện .............................................. 109 3.3. Điểm nhìn trần thuật .................................................................................... 112 3.3.1. Điểm nhìn theo không- thời gian ................................................................. 113 3.3.2. Điểm nhìn nhân vật ...................................................................................... 115 3.4.Các thủ pháp nghệ thuật ............................................................................... 119 3.4.1.Tạo dựng giấc mơ.......................................................................................... 119 3.4.2.Sử dụng yếu tố kỳ ảo ..................................................................................... 121 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 129 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 133 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ năm 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới kéo theo nhiều thay đổi trong đời sống con người. Đó cũng là lúc người ta “không tìm được sự tĩnh lặng của cuộc sống và tâm hồn trong mỗi âm thanh tích tắc của chiếc đồng hồ thời đại” [28, 61]. Trước sự thay đổi ấy, văn học cũng tìm cho mình khúc ngoặt mới để có thể bắt nhịp, chuyển tải được cái phức tạp đó. Không ít nhà văn đã lựa chọn tiểu thuyết làm phương tiện “thám hiểm cuộc sống”. Điều này không phải ngẫu nhiên, bởi tiểu thuyết bản thân nó đã là “hiện thân của cái phức tạp, cái đa dạng và phong phú” [46, tr. 103]. Tiểu thuyết đương đại đánh dấu bằng một loạt các tên tuổi như: Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Dương Hướng, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh… Với các tiểu thuyết xuất sắc của mình, họ đã làm nên những bước chuyển mạnh mẽ trong đời sống tiểu thuyết Việt Nam. Tiếp bước thế hệ đi trước, các cây bút tiểu thuyết hàng ngày vẫn không ngừng thể nghiệm, khám phá, tìm tòi những hướng đi mới cho tiểu thuyết. Và người yêu văn học không khỏi băn khoăn: sau thế hệ “vàng” ấy là sự hiện diện của những tác gia nào? Sự xuất hiện của họ sẽ đưa tiểu thuyết đi đến đâu? Năm 2002, văn đàn Việt Nam chứng kiến sự ra mắt của cây bút trẻ Nguyễn Đình Tú với tiểu thuyết đầu tay Hồ sơ một tử tù gây được không ít tiếng vang. Lúc đó Nguyễn Đình Tú 28 tuổi và đây mới chỉ là bước mở đầu cho sự thể nghiệm toàn diện của anh. Những tiểu thuyết tiếp theo như Bên dòng Sầu Diện (2005), đặc biệt là qua ba cuốn tiểu thuyết được trình làng liên tiếp trong ba năm: Nháp (2008), Phiên bản (2009), Kín (2010), người đọc thực sự thấy được khả năng sáng tác tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Nhà văn trẻ dường như đang cố gắng viết tên tuổi của mình vào làng tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Sau ba cuốn tiểu thuyết, với những tiếng vang không nhỏ, tác giả đã từng bước khẳng định được chỗ đứng của mình. 6 Ma Văn Kháng- “nhà tiểu thuyết lực lưỡng” đã không kiệm lời khi nói rằng: “cây bút Nguyễn Đình Tú, một triển vọng đầy hứa hẹn của văn xuôi hiện nay” [17, tr.9]. Có thể nói, sự xuất hiện và những đóng góp trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú trong thời gian qua là điều không thể phủ nhận nhưng thực tế tiểu thuyết của nhà văn vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Xung quanh việc nghiên cứu Nguyễn Đình Tú luôn có những dòng đánh giá trái chiều, những nhận xét khen chê mang đậm chất cảm tính, chủ quan. Chọn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú làm đối tượng của đề tài nghiên cứu, trước hết xuất phát từ mối quan tâm với tiểu thuyết đương đại. Từ mối quan tâm này, chúng tôi muốn chú ý đến một đối tượng tiêu biểu với hy vọng thông qua đó để có thể hiểu biết sâu sắc hơn về nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam nói chung. Với đề tài Đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, chúng tôi mong muốn tìm ra những nét mới trong nội dung và nghệ thuật sáng tác tiểu thuyết của nhà văn về tất cả các mặt như: Từ phương diện thể hiện con người ở những mảng sáng và góc tối của cuộc sống đời thường đến nghệ thuật kết cấu, tổ chức cốt truyện, điểm nhìn trần thuật và các thủ pháp nghệ thuật…, để từ đó ghi nhận vị trí cũng như những nỗ lực đóng góp của tác giả trong đời sống thể loại nói riêng và văn học đương đại nói chung. 2. Lịch sử vấn đề Nói đến tiểu thuyết là nói đến một thể loại bám sát cuộc sống ở thì hiện tại của nó. Trong thời đại ngày nay sự nóng hổi của các sự kiện cuộc sống và tính kịp thời của những điều được miêu tả trong tiểu thuyết là vấn đề quan trọng hàng đầu. Chính sự nhanh nhạy trong việc nắm bắt qui luật phản ánh hiện thực này, các tác phẩm của Nguyễn Đình Tú ngay từ khi ra đời đã thu hút được sự quan tâm chú ý của bạn đọc và giới phê bình văn học. Khuất Quang Thụy trong Một khái niệm mới về tiểu thuyết từ Hồ sơ một tử tù đã nhận định: “Nguyễn Đình Tú đã thành công khi tạo ra được cho mình một 7 cách tiếp cận hiện thực khá mới mẻ và một lối kể chuyện có sức cuốn hút. Ít nhất khi đọc cuốn sách này, chúng ta cũng bị lay động và buộc phải suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn, ít phiến diện hơn về một số vấn đề đặt ra trong cuộc sống hôm nay. Đó chính là sự khởi đầu tốt đối với một nhà tiểu thuyết. Và sau 8 năm ra đời, Hồ sơ một tử tù cũng đã khẳng định được sức sống riêng của nó với bốn lần tái bản, một lần làm phim, hai lần vinh danh giải thưởng lớn của Bộ Công an. 8 năm ấy Nguyễn Đình Tú cũng đã chứng tỏ khả năng tiểu thuyết của mình” [36, tr. 3]. Chu Lai nói về tiểu thuyết Nháp : “Đó là một bút pháp táo tợn và dịu dàng. Và hơi giật mình. Mới ngày nào giọng văn hơi văn còn hiền hòa, nền nã, lãng mạn dường kia mà giờ đây đã dám phá phách, đáo để, không né tránh bất cứ thứ gì mà cuộc sống khuất lấp và ngổn ngang đang phô bày ra kia. Nói gọn lại là một bút pháp táo tợn và dịu dàng… Tiểu thuyết sử dụng ngôi thứ nhất như một dòng tâm tình nhưng càng vào sâu càng xuất hiện những ngôi khác như thể không sử dụng thì nó tràn nó ứa ra mất. Với cuốn sách, Nguyễn Đình Tú hoàn toàn đã có thể ngẩng cao đầu bước tiếp trên con đường tiểu thuyết mênh mang nắng gió nhưng cũng quá đỗi chông gai nhọc nhằn” [20, tr. 10]. Lê Quốc Hiếu trong bài Nguyễn Đình Tú và những ám ảnh mang tên Nháp có viết: “Khác với những cuốn sách khai thác đề tài đồng tính xuất hiện trong thời gian gần đây, Nguyễn Đình Tú còn cho ta một loại người dù bẩm sinh không có xu hướng tình dục đồng tính nhưng vì những tò mò cá nhân, những suy nghĩ nông cạn và cả những đam mê nhất thời đã tự biến mình thành một cái tôi khác. Qua cuốn sách này, chúng ta có thể hiểu hơn về thế giới thứ ba, và còn hơn tất thảy hiểu hơn về một thế hệ không dám sống đúng với bản thân mình, không dám đối diện với những ẩn ức khó giãi bày” [56]. Đoàn Minh Tâm trong Từ Hồ sơ một tử tù đến Nháp- một chặng đường tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú có nhận xét: “Đọc Nháp trong so sánh liên văn bản với hai tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù và Bên dòng Sầu Diện chúng tôi cho rằng đây là tác phẩm đánh dấu một chặng đường sáng tác của anh. Sau Nháp, chúng ta sẽ gặp một 8 Nguyễn Đình Tú với phong cách sáng tác hoàn khác trước. Ngôn ngữ trong Nháp có tiết tấu nhanh, thẳng băng, nhiều trường đoạn tạo cho người đọc “ảo giáo” tác giả đang trong quá trình phôi thai đứa con tinh thần chứ đây chưa phải là sản phẩm hoàn chỉnh. Nhưng thực tế, đây là những ngôn từ được sử dụng đầy dụng công nhằm hướng độc giả đến cái đích là hòa nhịp cùng âm hưởng chủ đạo của tác phẩm thông qua nhan đề có sức biểu trưng cao” [37, tr.2]. Ma Văn Kháng trong bài Phiên Bản- một mệnh đề mang tính tường luận lý thú đã có những nhận xét: “Thế giới tội phạm, một lát cắt của đời sống hiện thực! Xa lạ chăng chỉ là, ở nơi đây không có cái thường quy, cái phổ biến. Thống trị ở nơi đây là cái hỗn mang chi sơ, là những bản năng kinh thiên động địa, là cái ác độc, là thói bạo tàn thâm căn. Thế giới tội phạm! Một bước lùi của lịch sử nhân loại! Tôi đã hơn một lần rất có cảm tình và thật sự khâm phục năng lực hiểu biết thấu đáo cái lĩnh vực đời sống, cái đối tượng nghệ thuật mà cây bút Nguyễn Đình Tú, một triển vọng đầy hứa hẹn của văn xuôi hôm nay, đã cày xới trong tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù và mới đây, trong cuốn sách có tên rất lạ tai là Phiên bản của anh” [43, tr.7]. Nguyễn Thị Minh Thái trong bài viết Kín- một dòng tiểu thuyết miên man đã nhấn mạnh: “Cuộc sống nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú phải chăng như đóa sen đầu mùa hạ còn phong kín nhụy hương? Hay là viết về cuốn tiểu thuyết của Tú, phải chăng đến cuốn thứ năm, vẫn là một dòng chảy mải miết miên man nhằm xâm nhập thám hiểm vào tận ngóc ngách thế giới bên trong đầy hoang vu rợn ngợp, đầy khắc khoải đan cài vô số chuyển động ngược chiều: các nhân vật trẻ của Tú vừa tự đập nát mình vỡ vụn, vừa ráng chịu đau đớn, tự tay “ khâu vá” lại những mảnh giấy vụn ấy cho lành lặn?” [44, tr. 427]. Thủy Ana khi đọc Kín của Nguyễn Đình Tú đã viết: “Kín hấp dẫn nhưng không phải là cuốn sách dễ đọc, lại càng không phải là câu chuyện đọc xong sẽ có một cảm giác nhẹ nhõm, thơi thới. Lần đầu tiên một cây bút tiểu thuyết 7X đã đề cập đạo Mẫu như một đại diện kết tinh của văn hóa dân gian trong tác phẩm nhưng lại là một đạo Mẫu mang tính phản biện cho văn hóa sống của lớp trẻ hôm nay. 9 Tính phiêu lưu kinh dị cũng được dụng công để người đọc không dễ dàng thoát ra khỏi những ám ảnh rợn ngợp của chi tiết. Những trang nhật ký như một ám hiện của nam phóng viên chết trẻ là những cảm xúc tinh khôi, thuần khiết, nhân văn nhưng thấm đẫm xa xót và phản tỉnh. Sẽ có nhiều người đặt câu hỏi: Kín là gì? Đó chính là những điều kín đáo, sâu kín không chỉ ở bản thể cá nhân mà còn ở bản thể dân tộc. Kín là những điều sâu kín trong tâm tư tình cảm của con người, của một cộng đồng người” [57]. Trần Tố Loan trong bài viết Điểm nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú có nói đại ý: “Đọc các tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú từ Hồ sơ một tử tù, Bên dòng Sầu Diện, Nháp đến Phiên bản, chúng ta nhận thấy bên cạnh việc xây dựng một kết cấu hoàn chỉnh, sử dụng ngôn từ phù hợp, nhà văn đã dụng công trong việc tổ chức kết cấu tác phẩm một cách sinh động và hấp dẫn” [42, tr.248]. Bên cạnh đó, còn một số bài viết như: Nguyễn Thanh Tú với Hồ sơ một tử tù dưới góc nhìn thi pháp tiểu thuyết; Hoài Hương với Nháp hay sự yếm thế trong tâm hồn con người; Hoàng Anh với Nháp hay là một sự xới xáo đáng ghi nhận; Lương Nguyên với Nháp với nỗi cô đơn và sex; Phạm Thùy Linh với Phiên bảngóc tiếp cận nhân văn; Nguyễn Tuấn Anh với Phiên bản những mảng tối của cuộc đời; Nga Sơn với Phiên bản hay một cuộc vượt thoát để tìm về với bản ngã; Hương Giang với Phiên bản của bạo lực và tình người; Phong Lan với Nguyễn Đình Tú và hé lộ Kín, Lãm Nguyên với Kín – cuộc tìm lối của người trẻ, Tiểu Quyên với KínNhững vòng tròn mồ côi, Dương Tử với Kín và nỗi hoang mang thời đại… Ngoài ra còn có một số luận văn Thạc sĩ như: Hiện thực trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú của Phạm Anh Hào đã chỉ ra một số vấn đề hiện thực được phản ánh trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Tiếp đó còn có luận văn Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú của Nguyễn Thị Bình, Tuy nhiên luận văn mới chỉ khảo sát ba cuốn tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù, Nháp, Phiên bản nên chưa có được cái nhìn toàn diện hệ thống tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Với luận văn có nhan đề: Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú: sự dung hợp văn học đặc tuyển và văn học đại chúng của Tiết 10 Tuấn Anh đã làm rõ được sự tương tác, chuyển dịch, dung hợp, giao thoa giữa cái đặc tuyển và cái bình dân, đại chúng như một quy luật vận động phổ quát của văn chương ở mọi thời, trong đó nền văn học Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đồng thời, đi sâu khẳng định tài năng của nhà văn trong việc dung hợp hai bộ phận đó. Song hành cùng những luận văn còn có một số khóa luận và báo cáo khoa học nghiên cứu về tác giả này…Tuy chỉ nghiên cứu trên quy mô nhỏ nhưng cũng ít nhiều đề cập đến một khía cạnh nào đó trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú như: Tạ Thị Lan Phương với đề tài: Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú; Nhóm ngành khoa học xã hội với: Vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Thông qua những công trình lớn nhỏ như nêu trên, chúng tôi rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, mỗi bài viết đề cập đến các khía cạnh khác nhau và cũng có không ít ý kiến trái chiều nhau nhưng các bài viết đều có chung một đặc điểm là thừa nhận những cách tân mới mẻ ở cả phương diện nội dung lẫn hình thức trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Thứ hai, mỗi bài viết đều đi sâu vào một vấn đề nhỏ để khai thác hoặc chỉ tìm hiểu một cuốn tiểu thuyết nhất định của Nguyễn Đình Tú. Thứ ba, những bài viết đó chỉ đưa ra những luận cứ chứ chưa phải những bài phê bình chuyên sâu về một tác giả. Thứ tư, chính sự nghiên cứu trên phạm vi đề tài còn nhỏ hẹp khiến cho những bài nghiên cứu chưa có cái nhìn toàn diện về đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Điều đó tạo tiền đề để chúng tôi tiếp tục khai thác sâu hơn về đặc điểm tiểu thuyết của nhà văn này. 11 Thứ năm, nhìn chung những bài nghiên cứu đó chủ yếu tìm ra được những điểm mới, những cách tân cả về phương diện nội dung và hình thức mà chưa đưa ra những hạn chế, những hạt sạn trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Cuối cùng, những ý kiến đánh giá của giới nghiên cứu, phê bình đối với các tác phẩm của nhà văn có ý nghĩa gợi mở đối với chúng tôi khi thực hiện đề tài luận văn. Chúng tôi đi vào tìm hiểu những đặc điểm trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú đồng thời đặt tiểu thuyết của nhà văn trong sự vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, nhằm khẳng định những đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào 5 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Đình Tú:  Hồ sơ một tử tù (Nxb Công an Nhân dân, 2002)  Bên dòng Sầu Diện ( Nxb Quân đội nhân dân, 2005)  Nháp ( Nxb Thanh niên, 2008)  Phiên bản ( Nxb Văn học, 2009)  Kín (Nxb Văn học, 2010) Và một số tiểu thuyết của các nhà văn cùng thời để đối chiếu so sánh. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn áp dụng những phương pháp sau: - Phương pháp thống kê - Phương pháp phân tích nhân vật 12 - Phương pháp so sánh - Phương pháp tổng hợp - Phương pháp loại hình Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ như : - Phương pháp tiếp cận thi pháp học - Phương pháp cấu trúc 5. Mục đích của luận văn Đi sâu tìm hiểu những đặc điểm độc đáo, những cách tân nổi bật nổi bật trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú. Trên cơ sở đó khẳng định những đóng góp của tác giả trong đời sống văn học đương đại nói chung và thể loại tiểu thuyết nói riêng. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Sáng tác của Nguyễn Đình Tú trong sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Chương 2: Cuộc sống và con người trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Chương 3: Phương thức biểu hiện trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. 13 NỘI DUNG Chƣơng 1 SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN ĐÌNH TÚ TRONG SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 1.1.Khái quát chung về tiểu thuyết và tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại 1.1.1 Khái niệm tiểu thuyết Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì tiểu thuyết là một thể loại tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng. Bên cạnh đó, ta còn nhận thấy trong thể loại này luôn xuất hiện sự trần thuật tập trung vào số phận của một hoặc nhiều cá nhân trong quá trình hình thành của nó, sự trần thuật ở đây được khai thác theo không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt “cơ cấu” của nhân cách. Thật đúng như Bielinski gọi tiểu thuyết là “sử thi của đời tư” bởi nó “miêu tả những tình cảm, dục vọng và những biến cố thuộc đời sống riêng tư và đời sống nội tâm của con người” [2, tr.187]. Tiểu thuyết giống như một cơ thể sống, nó cũng biến động theo sự phát triển của thời gian. Hay nói cách khác, diện mạo của tiểu thuyết không ngừng vận động và thay đổi. Tiểu thuyết một thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác. Chính hiện thực tổng hợp này làm cho thể loại tiểu thuyết cũng đang trên đà vận động, không đứng yên. Nhà nghiên cứu M. Bakhtin cho rằng: “tiểu thuyết là một thể loại duy nhất đang hình thành và chưa xong xuôi” [4, tr.224]. 1.1.2 Tiểu thuyết Việt Nam đương đại 14 Tiểu thuyết được xem là “cỗ máy cái” chiếm vị trí trung tâm “xương sống” của văn học vì nó là nghệ thuật khám phá đời sống, có khả năng chứa đựng lịch sử nhiều cuộc đời. Nói về vị trí quan trọng của thể loại này trong văn học, nhà văn Nguyễn Quang Thân cho rằng: “Nếu cả nền văn học là một hơi thở thổi suốt từ quá khứ đến tương lai thì tiểu thuyết là dòng cảm xúc chủ đạo mãnh liệt nhất, liên tục nhất của hơi thở ấy” [22, tr.163]. Tiểu thuyết là loại hình “công nghiệp nặng” đòi hỏi sự dũng cảm thử sức, đòi hỏi tài năng, vốn sống và độ tập trung cao đối với người cầm bút. Thế giới từ lâu đã nói đến “cái chết của tiểu thuyết” nhưng thực tế tiểu thuyết vẫn không ngừng được sáng tạo. Ở Việt Nam thực tại và tương lai của thể loại này đã trở thành nội dung quan trọng trong hàng loạt hội thảo, tranh luận: “Tiểu thuyết Việt Nam đang đi về đâu? Tiểu thuyết Việt Nam thừa lượng nhưng thiếu chất? Đang có một sự chuyển động không nhỏ trong tiểu thuyết Việt Nam, sự già hóa của đội ngũ nhà văn viết tiểu thuyết của Việt Nam” [9, tr.17]. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng ta cần đi sâu tìm hiểu về bối cảnh chung của tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Có thể nói, cùng với bước đi của lịch sử văn học nhân loại, nền văn học của dân tộc ta đã có những bước chuyển biến góp phần tạo nên một diện mạo mới cho nền văn chương nhân loại thế kỷ XXI. Tiểu thuyết Việt Nam trong nhiều thập niên đã trải qua những bước thăng trầm, chuyển biến. Sự xuất hiện những cây bút trẻ cùng với cách viết mới đã tạo nên bầu không khí khá sôi động trên văn đàn. Sự phong phú đa dạng của tiểu thuyết được thể hiện trong cảm hứng, khuynh hướng, phong cách, cũng như lối viết. Dường như các nhà tiểu thuyết luôn ngầm lựa chọn một trong hai hướng: truyền thống hay cách tân. Bên cạnh đó, xu hướng tiểu thuyết mạng, tiểu thuyết thương mại cũng đang dần có một vị trí khá ổn định trong lòng độc giả. Một trong 15 những đề tài chiếm được sự quan tâm của nhiều cây bút trong giai đoạn này là đề tài lịch sử: những nhìn nhận đánh giá lại quá khứ ở những góc cạnh khác nhau. Các tiểu thuyết nay có tham vọng đi dọc chiều dài thời gian, khái quát những thời kỳ đã qua, theo sát từng các sự kiện, những cuộc cách mạng song hành với việc lý giải những bức xúc của hiện tại. Những hiện thực rộng lớn đã được soi chiếu từ nhiều góc nhìn khác nhau, tạo nên một cốt truyện đa tầng và một bầu không khí lịch sử cho các tác phẩm. Điều này đã được in đậm ở những tác phẩm như: Thăng Long Ký (Nguyễn Khắc Phục), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Hồ Qúy Ly (Nguyễn Xuân Khánh)…Mỗi tác phẩm là một phong cách riêng, hướng độc giả tới một cái nhìn mới về tiểu thuyết lịch sử. Nói đúng hơn, các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này tiến sâu vào những đặc điểm mang tính chất của thể loại tiểu thuyết. Nghĩa là chúng ta được thưởng thức các tác phẩm tiểu thuyết thực sự chứ không phải là tiếp xúc với các sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử sau khi tiểu thuyết hóa. Nếu trước đây, sự thật lịch sử luôn là yếu tố quan trọng mà các nhà tiểu thuyết lịch sử phải bám sát thì giờ đây nó chỉ là “cái đinh” để các nhà văn treo các “bức tranh” của mình lên. Các biến cố lịch sử được dựng lên từ những góc nhìn khác nhau, các nhân vật lịch sử tái hiện một cách sống động với đầy đủ đời sống nội tâm và các cung bậc tình cảm của con người. Nhân vật lịch sử không còn được thần thánh hóa để trở thành những hình tượng phi phàm, cao siêu với những chiến công oanh liệt mà còn hiện diện trong cả cuộc sống đời thường. Về phương thức biểu hiện, các tác phẩm tiểu thuyết giai đoạn này không còn lệ thuộc vào tiểu thuyết cổ điển chương hồi, câu văn biền ngẫu…nó tạo cho mình một kết cấu lạ, tạo tính hấp dẫn chuyên chở ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Ngôn ngữ linh hoạt vừa mang màu sắc văn hóa của thời đại lịch sử mà nó xâm nhập vừa mang màu sắc hiện đại. Bên cạnh đó nghệ thuật hư cấu giúp cho các hiện tượng sự kiện, nhân vật lịch sử không còn một hằng số đứng yên mà tiếp tục vận động cùng cuộc sống muôn hình. Song hành cùng tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết Việt Nam cũng đi theo một ngã rẽ mới đó là tiểu thuyết thế sự, đời tư. Bước sang thời kỳ đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đứng trước nhu cầu “đổi mới về tư duy, bắt đầu có những vận động nhất 16 định về cả đề tài, chủ đề lẫn phương thức biểu hiện” [21, tr.58]. Những dư âm của đề tài chiến tranh còn kéo dài cuối thế kỷ XX, những tác phẩm mang chủ đề lịch sử (tự sự lịch sử) vẫn chiếm một số lượng đáng kể. Mặc dù, tiểu thuyết ở giai đoạn này vẫn khai thác về đề tài chiến tranh nhưng không còn mang cảm hứng sử thi, với những chiến thắng oai hùng, những nhân vật mang tính huyền thoại mà thay vào đó là một cái nhìn trầm lắng sâu sắc hơn về thân phận con người trong chiến tranh và sau chiến tranh. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Thời xa vắng của Lê Lựu là những tác phẩm ít nhiều đã chạm tới những cách tân về nội dung biểu hiện cũng như hình thức trần thuật. Chúng ta dễ nhận ra việc đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới cách nhìn là cơ sở quan trọng để có được sự đa dạng về phong cách và giọng điệu với nhiều phương thức biểu hiện mới mà trước đó chưa có, như sử dụng hiện thực tâm linh, yếu tố kì ảo, dòng ý thức. Trong không khí hội nhập, với nhiều luồng văn hóa, ý thức cách tân của nhà văn cũng trở nên phù hợp với sự phát triển của chính bản thân văn học và phù hợp với nhu cầu đổi mới, khát vọng dân chủ trong xã hội. Các quy luật, các sự kiện của lịch sử, của xã hội bắt đầu được nhìn qua lăng kính cá nhân mang màu sắc riêng của mỗi cá tính sáng tạo, của mỗi nhân vật. Bên cạnh những tiểu thuyết về đề tài chiến tranh thành công, tiểu thuyết về thế sự đời tư ngày càng chiếm tỉ lệ lớn. Những tác phẩm như: Nước mắt đỏ (Trần Huy Quang), Gặp gỡ cuối năm, Cha và con và…(Nguyễn Khải), Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Bến không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Tường Thành (Võ Thị Xuân Hà), Trăm năm thoáng chốc (Vũ Huy Thanh), Ngụ cư (Thùy Dương), Người Sông Mê (Châu Diên), Dòng sông Mía (Đào Thắng)…. nghiêng về khai thác những cảnh ngộ, số phận con người cả trong chiều thuận và nghịch của nó, một hướng tiếp cận và khai thác sâu hơn vào cái đời thường của cuộc sống cá nhân. Về mô hình tính cách, bên cạnh những con người anh hùng- con người cộng đồng, đã xuất hiện con người thân phận, cá thể, con người mang bi kịch cá nhân. Vấn đề tình dục là vấn đề rất đỗi bình thường của con người nhưng đó cũng là một 17 vấn đề vô cùng nhạy cảm. Ở giai đoạn trước vấn đề này ít được đề cập đến, nếu có thì cũng rất tế nhị. Sang giai đoạn sau, nó đó được khai thác nhiều hơn và phong phú hơn. Các tác giả Hồ Anh Thái ( Mười lẻ một đêm), Thuận (Chinatown, Pari 11 tháng)… đã không ngần ngại miêu tả chất sắc dục, tình yêu nhục thể, một lĩnh vực rất riêng của đời sống cá nhân. Miêu tả con người với những yếu tố tích cực của con người tự nhiên cũng là một khía cạnh nhân bản của văn học. Tiểu thuyết gần đây xuất hiện tiểu thuyết tự truyện đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả với những tác phẩm như: Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Chuyện của thiên tài (Nguyễn Thế Hoàng Linh), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân). Tìm đến tự truyện, các nhà văn trở về với chính mình. Tiểu thuyết thường có cốt truyện được xây dựng trên cơ sở của sự kiện chính về cuộc đời, về con người tác giả. Tất nhiên trí nhớ không hoàn toàn là máy quay phim có thể chụp lại một cách chính xác, cho nên việc có mặt của yếu tố hư cấu là tất yếu không thể đòi hỏi tự truyện giống y như thật. Với loại tiểu thuyết này, cốt truyện có chức năng tái tạo lại một đoạn đời của người viết. Đây là một dạng truyện viết theo cách hồi ức tự nghiệm, thấm đẫm những cảm quan cá nhân của từng nhân vật. Ở đây không có cái gọi là “tự sự hoàn chỉnh”, công việc của mỗi người đọc là sự chắp nối các mảnh hồi ức rời rạc trong dòng suy tưởng của cá nhân để tự tạo nên một hình dung tổng thể cho mình. Song hành cùng thể loại tự truyện, tiểu thuyết đương đại Việt Nam ngày càng có nhiều gương mặt trẻ và cũng có những đóng góp về mặt nội dung cũng như nghệ thuật cho nền văn học nước nhà như Nguyễn Bình Phương với Thoạt kỳ thủy, Ngồi, Nguyễn Việt Hà với Cơ hội của Chúa, Nguyễn Đình Tú với Hồ sơ một tử tù, Nháp, Phiên bản…Những tác giả đó đã ít nhiều đóng góp cho nền tiểu thuyết thời kỳ đổi mới tiếng nói đa diện, nhiều chiều, những cái nhìn khác nhau về cuộc sống đương đại. Với những nỗ lực cách tân khiến người đọc nhận ra dấu hiệu của cảm quan hậu hiện đại trong tiểu thuyết. Bởi các tác giả thường lấy tâm trạng của con người trong cuộc sống hiện đại làm đối tượng phản ánh đó là những linh hồn 18 cô đơn, lạc loài, những trái tim đầy tổn thương hoang dại, những nỗi niềm không cất lên thành tiếng, không chia sẻ thành lời. Cứ như thế độc giả như bước vào một thế giới của những cung bậc tình cảm khác nhau, đầy phức tạp và cũng đầy mâu thuẫn. Dường như đó là bức tranh đời sống tinh thần của con người trong cuộc sống hiện tại. Các nhà tiểu thuyết muốn đi tìm một lối thoát và lời giải cho những bế tắc trong nội tâm của con người. Dấu hiệu cách tân mà chúng ta dễ nhận thấy ở những cuốn tiểu thuyết theo khuynh hướng này là sự đổi mới trong nghệ thuật viết: kết cấu phân mảnh, tính đa âm, sự va chạm các loại ngôn ngữ… Tất cả đều thể hiện sự tìm tòi trong lối viết và khát vọng đổi mới của một thế hệ mới nhiệt tình, năng nổ. Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống. Nhưng sự phản ánh đó lại phụ thuộc vào nhãn quan của mỗi nhà văn và quan niệm của từng thời đại. Có người cho rằng văn học hôm nay có cái nhìn bi quan về con người và cuộc sống, con người và cuộc sống vốn rất phức tạp nên không thể dùng một tiêu chí cố định để mà áp đặt cho nó, mọi sự lí tưởng hóa đều làm cho nó trở nên giả dối và không thật. Tuy nhiên, thể hiện những mặt trái của xã hội và con người không phải là cái nhìn bi quan, mà bên cạnh đó là tiếng nói thẳng thắn, tạo niềm tin vào thiên lương, vào những hạt mầm tốt đẹp ở đời, đấy mới là điều cao cả mà nhà văn hướng tới, để mỗi nhà văn tự hoàn thiện mình, hoàn thiện ngòi bút của mình đóng góp hơn nữa cho nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại, đưa tiểu thuyết đạt đến một trình độ nghệ thuật cao hơn để hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng của mình: “Tiểu thuyết đang là một nhu cầu cấp bách, khẩn cấp của đời sống văn học và bạn đọc. Tiểu thuyết sẽ tồn tại mãi mãi với tầm cao văn hóa, nghệ thuật, cho con người, với tư cách là đại biểu lương tri và ngôn ngữ dân tộc” [9, tr. 58]. M.Bakhtin cũng từng nhận định tiểu thuyết: “Đó là thể loại duy nhất nảy sinh và nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới vì thế mà thân thuộc, sâu sắc với thời đại ấy, trong khi đó thì các thể loại lớn khác chỉ được kế thừa của thời đại mới ở dạng đã hoàn tất, do đó tiểu thuyết phản ánh sâu sắc, cơ bản hơn, nhạy bén 19 hơn về hiện thực. Chỉ kẻ biến đổi mới hiểu được sự biến đổi” [4, tr.25]. Nói ngắn gọn, có thể hiểu rằng tiểu thuyết là một thể loại năng động, thích ứng và biến đổi theo sự phát triển của từng thời đại. Tiểu thuyết biến đổi không có giới hạn, nên nhiều lúc kéo theo sự thâm nhập của mọi thể loại khác vào trong cấu trúc của mình. Sự phát triển của tiểu thuyết nhiều lúc khiến người tiếp nhận nghĩ rằng nó là một thể loại vô định hình, thậm chí mọi mô hình cấu trúc đều bị nó phá vỡ và tự nó cũng đang dần già hóa hoặc chết đi. Nhưng thực chất tiểu thuyết chưa bao giờ biến mất mà nó chỉ dừng lại để chuyển mình, thay đổi đổi nhằm hướng tới một sự cách tân độc đáo từ nội dung đến hình thức thể hiện. Và sự biến đổi và cách tân từ nội dung đến hình thức của tiểu thuyết đương đại cũng chính là quy luật vận động của tiến trình văn học dân tộc nói chung và của thể loại tiểu thuyết nói riêng. Trước hết, đó là nhu cầu đổi mới để khẳng định mình được đặt ra như một đòi hỏi của các tiểu thuyết gia thời hiện đại, đổi mới để không lặp lại chính mình, không đi theo lối mòn cũ. Tiếp đến phải kể tới sự đổi mới của văn chương hiện đại thế giới về phương diện cảm quan đời sống và thủ pháp xây dựng tác phẩm. Hơn nữa, sự thay đổi trong những quan niệm nhân sinh, cách nhìn nhân vật và đánh giá con người cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử- xã hội mới, sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về tiểu thuyết: “Tiểu thuyết là lãnh địa của những cuộc chơi” [4, tr.18] đã ảnh hưởng đến sự thay đổi, cách tân tiểu thuyết trong thời đại mới. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã có ý thức tìm tòi, đổi mới nghệ thuật và kỹ thuật tiểu thuyết gắn với nội dung nhân văn đã thúc đẩy thể loại phát triển, góp phần cách tân và hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam. Bằng tài năng, tâm huyết các nhà tiểu thuyết nỗ lực tìm tòi, đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết đưa tiểu thuyết Việt Nam hòa nhịp với văn học nhân loại, tạo nên diện mạo mới cho tiểu thuyết và cho văn học Việt Nam đương đại. 20 1.2. Tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú trong sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại 1.2.1. Con người và sự nghiệp Nguyễn Đình Tú sinh ngày 7 tháng 7 năm 1974 tại miền đất Kiến An, Hải Phòng, tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội năm 1996 và tu nghiệp sĩ quan tại trường Quân chính Quân khu 3 năm 1997. Từ năm 1997 đến năm 2001 Nguyễn Đình Tú công tác tại Viện Kiểm sát quân sự Quân khu 3. Từ năm 2001 anh về công tác tại Ban Văn- Tạp chí Văn nghệ quân đội. Hiện tác giả đang giữ các chức vụ: Phó ban Nhà văn trẻ - Hội Nhà văn. Phó Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Quân đội và Trưởng ban Văn xuôi - Tạp chí Văn nghệ quân đội. Các tác phẩm chính mà Nguyễn Đình Tú đã xuất bản: Bên bờ những dòng chảy (tập truyện ngắn, 2001), Không thể nào khác được (tập truyện ngắn, 2002), Nỗi ám ảnh khôn nguôi (tập truyện ngắn, 2003), Điệu Mambo hư ảo (tập truyện ngắn, 2006), Hồ sơ một tử tù (tiểu thuyết, 2002), Bên dòng Sầu Diện (tiểu thuyết, 2005), Nháp (tiểu thuyết, 2008), Phiên bản (tiểu thuyết, 2009), Kín (tiểu thuyết, 2010). Trong đó tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù đã được chuyển thể thành phim truyền hình dài tập có tựa đề Lời sám hối muộn màng trong seri phim Cảnh sát hình sự phát sóng trên VTV1 năm 2006. Trong quá trình hoạt động ở lĩnh vực văn chương, Nguyễn Đình Tú đã gặt hái được khá nhiều thành công. Ngoài sự yêu mến, đón đợi từ phía độc giả còn có thể kể đến một số giải thưởng như: Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn Văn nghệ quân đội 1999- 2000 với các phẩm Bên bờ những dòng chảy, Qua sông, Những chàng trai sống cùng hoa săng đắng, Giải thưởng tiểu thuyết Nhà xuất bản Công an nhân dân phối hợp với Hội nhà văn năm 2002 với tác phẩm Hồ sơ một tử tù, năm 2010 với tác phẩm Phiên bản. Giải thưởng 10 năm Bộ Công an với tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù. Giải thưởng 5 năm Bộ Quốc phòng với tiểu thuyết Bên dòng Sầu Diện. Gần đây nhất tiểu thuyết Kín của Nguyễn Đình Tú cũng đã lọt vào vòng chung khảo của hội Nhà văn Việt Nam năm 2011. 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan