Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới hiện nay đang không ngừng phát triển, hòa mình vào đó, mỗi quốc
gia đều có những chiến lược phát triển của đất nước mình, hầu hết mọi quốc gia
đều đi theo con đường công nghiệp hóa, tăng tỉ trọng đóng góp của ngành công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp vào thu nhập
của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên ngành nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất
vật chất cơ bản giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mọi quốc gia, đặc
biệt là các nước đang phát triển. Mặt khác, xã hội đang ngày càng phát triển, đời
sống của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về
lương thực, thực phẩm cũng không ngừng tăng cả về số lượng, chất lượng và
chủng loại. Vì vậy, bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế một
cách nhanh chóng thì quốc gia đó phải đảm bảo được an ninh lương thực.
Cũng như mọi quốc gia khác, Việt Nam cũng không thể vượt ra khỏi quy
luật này. Dù đang trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước nhưng Việt Nam vẫn rất chú trọng vào việc đảm bảo an ninh lương thực cho
toàn quốc gia, từ một nước phải đi xin viện trợ lương thực, thực phẩm ở quốc gia
khác, ngày nay, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu lúa gạo đứng nhất nhì trên
thế giới.
Trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới, nền nông nghiệp Việt Nam
luôn tăng trưởng cao và liên tục đã căn bản giải quyết được vấn đề lương thực
cho đất nước. Góp phần tạo nên thành tựu ấy là chính nhờ nỗ lực sản xuất nông
nghiệp ở các tỉnh, địa phương, trong đó có tỉnh Thanh Hóa. Là một trong những
tỉnh lớn nhất cả nước về dân số lẫn diện tích nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ,
thêm vào đó là điều kiện tự nhiên vô cùng phong phú và đa dạng ... đã thúc đẩy
cho Thanh Hóa phát triển nông nghiệp vô cùng mạnh mẽ, đặc biệt là xã Hà Lâm,
huyện Hà Trung.
SVTH: Lê Thị Quỳnh
1
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
Tuy nhiên, sản xuất lúa nói riêng, sản xuất nông nghiệp nói chung vẫn còn
gặp một số trở ngại, khó khăn nhất định bởi trong khi giá vật tư biến động, chi
phí dành cho các dịch vụ thuê ngoài tăng cao thì giá lúa lại không ổn định và có
xu hướng giảm, đồng thời, vốn sản xuất còn thiếu, trình độ lao động nông
nghiệp vẫn còn hạn chế, số lượng lao động nông nghiệp đang giảm dần do
chuyển sang các ngành nghề, lĩnh vực khác, bên cạnh đó, đất sản xuất nông
nghiệp đang bị Nhà nước thu hồi nhằm xây dựng nhà ở, các khu quy hoạch và
các công trình khác và một số khó khăn khác như sức khỏe, tuổi tác…của lao
động nông nghiệp.
Chính vì lẽ đó, chúng tôi đã chọn đề tài: “ Đánh giá hiệu quả kinh tế sản
xuất lúa ở xã Hà Lâm – huyện Hà Trung – Tỉnh Thanh Hóa” nhằm đánh giá
hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở xã và tìm hiểu những khó khăn, nguyên nhân gây
ra khó khăn nhằm đưa ra một số giải pháp chủ yếu khắc phục góp phần nâng cao
năng suất lúa cũng như nâng cao thu nhập cho người dân nơi đây.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông
nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng.
Đánh giá hiệu quả sản xuất lúa ở các nông hộ trên địa bàn xã Hà Lâm,
huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các nông hộ.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp luận:
Phương pháp này nhằm xây dựng tiền đề lý luận cho đề tài. Trên cơ sở đó,
xem xét các sự vật hiện tượng, sự vận động và biến đổi của nó trong mối quan
hệ và liên hệ chặt chẽ với nhau. Thông qua cách nhìn nhận vấn đề đó để có cơ
SVTH: Lê Thị Quỳnh
2
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
sở đánh giá bản chất các sự vật, hiện tượng trong điều kiện cụ thể tại xã xã Hà
Lâm, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
Phương pháp điều tra thu thập số liệu:
Chọn địa điểm điều tra: căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, tôi
đã chọn điều tra ở các xóm 1, xóm 4, xóm 8 của xã Hà Lâm, huyện Hà Trung,
tỉnh Thanh Hóa.
Chọn mẫu điều tra: Tổng số mẫu điều tra là 60 hộ. Tất cả các hộ được
chọn theo phương pháp ngẫu nhiên không lặp.
Thu thập số liệu:
o Sơ cấp: Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc thiết kế phiếu điều
tra phỏng vấn và tiến hành phỏng vấn trực tiếp 60 hộ được lựa chọn ngẫu nhiên.
o Thứ cấp: Số liệu thứ cấp được thu thập từ Ủy ban nhân dân xã Hà Lâm,
sách, báo, internet....
Phương pháp phân tổ: Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau như mức đầu
tư chi phí, quy mô đất đai, …của các hộ điều tra mà tiến hành phân tổ có tính
chất khác nhau.
Phương pháp phân tích thống kê: Từ các số liệu thu thập được, vận dụng
các phương pháp số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân, phương pháp so sánh
để phân tích sự khác biệt giữa mức đầu tư, năng suất lúa thu được các vụ sản
xuất
Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo: Để có thể thực hiện và hoàn
thành đề tài này tôi đã trao đổi, tham khảo ý kiến, kinh nghiệm của các cán bộ
UBND xã.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Do khả năng và thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ
tập trung nghiên cứu kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất lúa và các nhân tố ảnh
SVTH: Lê Thị Quỳnh
3
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
hưởng đến kết quả và hiệu quả sản xuất lúa của một số nông hộ ở các xóm thuộc
xã Hà Lâm, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: đề tài tập trung nghiên cứu một số nông hộ sản xuất lúa
trên địa bàn xã Hà Lâm
Thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu tình hình sản xuất lúa trên địa bàn
xã Hà Lâm ở hai vụ Chiêm Xuân, vụ Mùa năm 2010
Thời gian nghiên cứu từ 30-01 đến 05-05-2012
SVTH: Lê Thị Quỳnh
4
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lý luận chung về hiệu quả kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế - một phạm trù có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận và
thực tiễn, là chỉ tiêu hàng đầu đánh giá chất lượng hoạt động kinh tế - xã hội. Mọi
lĩnh vực sản xuất đều lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn đánh giá hoạt động sản
xuất của mình bởi với họ, hiệu quả kinh tế là thước đo chính xác và khách quan nhất.
Bàn về hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp, có rất nhiều tác giả đã đưa ra
quan điểm thống nhất với nhau, đó là các tác giả Farrell (1957), Schultz (1964),
Rizzo (1979) và Ellis (1993). Các tác giả cho rằng: “Hiệu quả kinh tế được xác
định bởi việc so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra (các nguồn nhân
lực, tài lực, vật lực, tiền vốn...) để đạt được kết quả đó”. Các tác giả cho rằng,
cần phân biệt rõ 3 khái niệm về hiệu quả: Hiệu quả kỹ thuật, Hiệu quả phân bổ
các nguồn lực và Hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kỹ thuật: là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi
phí hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong điều kiện cụ thể về kỹ thuật hay công
nghệ áp dụng. Hiệu quả kỹ thuật của việc sử dụng các nguồn lực thể hiện thông qua
các mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, giữa các đầu vào với nhau và giữa các loại
sản phẩm.
Hiệu quả phân bổ: là chỉ tiêu hiệu quả trong các yếu tố sản phẩm và giá đầu
vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí thêm
về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất của hiệu quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật
có tính đến yếu tố về giá đầu vào và giá của đầu ra, vì thế, nó còn được gọi là
hiệu quả giá. Xác định hiệu quả này giống như việc xác định các điều kiện về lý
SVTH: Lê Thị Quỳnh
5
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
thuyết biên để tối đa hóa lợi nhuận, điều này có nghĩa là giá trị biên của sản
phẩm phải bằng giá trị chi phí biên của nguồn lực sử dụng vào sản xuất.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế trong đó đạt cả hiệu quả kỹ thuật và
hiệu quả phân bổ. Tức là cả 2 yếu tố hiện vật và giá trị đều tính đến khi xem xét
việc sử dụng các nguồn lực sản xuất đạt được.
Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể hiểu
rằng hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
lực (nhân lực, tài lực, vật lực, tiền vốn) nhằm đạt được mục tiêu đã xác định.
1.1.1.2. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Các nguyên tắc:
Nguyên tắc về mối quan hệ về mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả, tiêu chuẩn
hiệu quả được tính trên cơ sở mục tiêu hiệu quả. Phân tích hiệu quả của một
phương án nào đó luôn luôn dựa trên phát triển mục tiêu. Phương án có hiệu quả
cao nhất khi nó đóng góp nhiều nhất cho việc thực hiện các mục tiêu đặt ra với
chi phí thấp nhất.
Nguyên tắc tính chính xác, tính khoa học: Để đánh giá hiệu quả của
phương án cần được trên các hệ thống chỉ tiêu có thể lượng hoá được hoặc
không lượng hoá được tức là phân tích định lượng chưa đủ đảm bảo tính chính
xác, chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí mà chủ thể
quan tâm.
Nguyên tắc về tính giản đơn và tính thực tế: Theo nguyên tắc này, những
phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả kinh tế phải được dựa trên cơ sở của
các số liệu thông tin thực, đơn giản, dễ hiểu.
Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả được tính toán dựa trên cơ sở yếu tố đầu vào
và yếu tố đầu ra.
Dựa trên kết quả thu được và chi phí bỏ ra, hiệu quả kinh tế được xác định
bằng các phương pháp sau:
SVTH: Lê Thị Quỳnh
6
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
Dạng thuận : Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa kết quả thu
được và chi phí bỏ ra:
Trong đó:
H: Hiệu quả kinh tế
Q: Kết quả thu được
C: Chi phí bỏ ra
Công thức này cho biết nếu bỏ ra một đơn vị chi phí sẽ tạo ra được bao
nhiêu đơn vị kết quả, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực.
Dạng nghịch : Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa chi phí bỏ ra
và kết quả thu được.
Trong đó:
h: Hiệu quả kinh tế
Q: Kết quả thu được
C: Chi phí bỏ ra
Công thức này cho biết để đạt được một đơn vị kết quả cần tiêu tốn bao
nhiêu đơn vị chi phí.
Hai loại chỉ tiêu này mang ý nghĩa khác nhau nhưng có mối liên hệ mật
thiết với nhau, cùng được sử dụng để phản ánh hiệu quả kinh tế. Các chỉ tiêu
trên còn được gọi là chỉ tiêu toàn phần.
1.1.1.3. Ý nghĩa của việc đánh giá hiệu quả kinh tế
- Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả kinh tế không chỉ là mối quan tâm
hàng đầu của các nhà sản xuất, mỗi danh nghiệp mà còn là mối quan tâm của
toàn xã hội.
SVTH: Lê Thị Quỳnh
7
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
- Nâng cao hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội có ý nghĩa quan trọng đối
với yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển của xã
hội nói chung. Nâng cao hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội là cơ sở vật chất để
không ngừng nâng cao mức sống dân cư. Như vậy tăng hiệu quả kinh tế là một
trong những yêu cầu khách quan trong tất cả các hình thái kinh tế xã hội. Nâng
cao hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội càng có ý nghĩa đặc biệt trong một số
điều kiện nhất định: khi khả năng phát triển nền sản xuất theo chiều rộng (tăng
vốn, nguồn lao động, tài nguyên thiên nhiên….) bị hạn chế khi chuyển sang kinh
tế thi trường. Tăng hiệu quả kinh tế là một trong những yếu tố làm tăng sức
mạnh cạnh tranh, cho phép giành lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thâm canh sản xuất lúa
1.1.4.1. Yếu tố về tự nhiên
- Đất đai:
Đất đai là nhân tố chính trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất
lúa nói riêng, đất đai cung cấp chất dinh dưỡng cho cây lúa để cây lúa có thể
thực hiện những quá trình biến đổi sinh, lý, hóa. Quá trình thâm canh sản xuất
ảnh hưởng rất lớn đến độ màu mỡ của đất đai, nếu thực hiện chế độ canh phù
hợp với tính chất của đất thì không những đạt được năng suất cao mà còn cải
tạo và nâng cao độ phì nhiêu của đất, ngược lại, sẽ làm cho độ màu mỡ đất đai
ngày càng giảm và năng suất thu được rất thấp. Do đó, tùy vào tính chất đất đai
mà hộ nông dân có biện pháp canh tác hợp lý.
- Ánh sáng:
Ánh sáng ảnh hưởng đến cây lúa trên 2 mặt:
Cường độ ánh sáng ảnh hưởng đến quang hợp. Cường độ ánh sáng thuận
lợi cho lúa từ 250-400 calo/cm2/ngày.
Số giờ chiếu sáng trong ngày ảnh hưởng đến sự phát triển, ra hoa, kết quả
của lúa sớm hay muộn.
- Nhiệt độ:
SVTH: Lê Thị Quỳnh
8
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
Nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến cây lúa, đặc biệt là tốc độ sinh trưởng nhanh
hay chậm của lúa. Với mỗi mức nhiệt độ, lúa lại sinh trưởng với tốc độ khác nhau:
Nếu nhiệt độ thấp hơn 130 C thì lúa ngừng sinh trưởng, nếu nhiệt độ thấp kéo dài
nhiều ngày lúa có thể chết. Nhiệt độ cao hơn 400C, cây lúa sinh trưởng nhanh nhưng
tình trạng sinh trưởng xấu, nếu kéo theo gió lào, ẩm độ không khí thấp thì cây chết.
- Lượng mưa:
Nước rất quan trọng đối với cây lúa vì vậy lúa cần nhiều nước hơn các cây
trồng khác, ở từng giai đoạn sinh trưởng khác nhau, lúa cần những lượng nước
khác nhau. Trong mùa mưa, lượng mưa cần thiết cho cây lúa trung bình từ 67mm/ngày, trong mùa khô, lượng nước mà cây lúa cần nhiều hơn, khoảng 89mm/ngày. Một tháng cây lúa cần khoảng 200 mm nước. Lượng nước rất quan
trọng đối với cây lúa, sự thiếu hụt hay thừa nước đều ảnh hưởng đến sinh
trưởng, phát triển của cây lúa.
1.1.4.2. Yếu tố về kinh tế - xã hội
Yếu tố về kinh tế
- Mức độ đầu tư cho sản xuất lúa
Đây là yếu tố có thể coi là quan trọng nhất ảnh hưởng đến năng suất và sản
lượng lúa. Việc đầu tư hợp lý sẽ tạo ra năng suất và cây trồng cao và ngược lại.
Nếu đầu tư không hợp lý, không đúng quy trình sẽ làm cho năng suất giảm và
hiệu quả sản xuất cũng giảm. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng
bao gồm: Giống, các loại phân bón, bảo vệ thực vật, thuỷ lợi...
- Điều kiện về chủ trương, chính sách của Nhà Nước
Chính sách của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thâm canh sản
xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng:
+ Chính sách thuế: Thuế là khoản chi phí đối với sản xuất, làm giảm thu
nhập của người sản xuất. Từ đó, thúc đẩy người sản xuất sử dụng có hiêụ quả
chú ý đến đầu tư thâm canh để thu được địa tô chênh lệch 2, đồng thời giảm
SVTH: Lê Thị Quỳnh
9
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
được diện tích bỏ hoang hoá, tăng diện tích đất canh tác và quy mô sản lượng
qua các năm.
+ Chính sách khuyến nông: Để thúc đẩy, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp phát
triển, Nhà nước đã ban hành chính sách khuyến nông, đây là một trong những
chính sách quan trọng giúp nhân dân lao động nâng cao năng suất và phẩm chất
cây trồng. Trong nhiều năm qua, Nhà Nước đã thực hiện tốt vai trò của người
hướng dẫn, đem đến cho hộ nông dân những kiến thức mới.
Yếu tố về xã hội
- Lao động
Lao động là yếu tố rất cần thiết, không thể thiếu được trong bất cứ ngành
sản xuất nào. Quy mô của một ngành lớn hay nhỏ được biểu hiện một phần bởi
số lượng và tỷ lệ lao động tham gia sản xuất trong ngành đó. Tuy nhiên, chất
lượng lao động ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và hiệu quả của ngành sản
xuất đó. Ở nước ta lực lượng lao động rất đông nhưng trình độ lao động còn
thấp, lao động chủ yếu là thủ công đơn giản, đặc biệt là lao động nông nghiệp
nên đã ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu tư thâm canh
sản xuất.
- Tập quán canh tác
Người dân Việt Nam đã gắn bó lâu đời với nghề trồng lúa, mỗi địa phương
có những tập quán canh tác khác nhau. Đây là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến
năng suất và sản lượng lúa. Nếu tập quán canh tác lạc hậu sẽ hạn chế tái sản xuất
mở rộng, hạn chế mức đầu tư thâm canh và áp dụng tiến bộ khoa học mới vào
sản xuất, khuyến khích người dân đổi mới tập quán canh tác, đồng thời tăng
cường công tác khuyến nông giúp người dân thấy được tầm quan trọng của việc
áp dụng tiến bộ khoa hoc kỹ thuật vào sản xuất là điều kiện cần thiết.
Sự phát triển của khoa học công nghệ đã và đang tác động rất lớn đến tập
quán người sản xuất nói chung và sản xuất lúa nói riêng. Tiến bộ về giống, khâu
làm đất, khâu chăm sóc...giúp người dân được giải phóng. Điều đó đòi hỏi các
SVTH: Lê Thị Quỳnh
10
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
ban ngành làm tốt công tác dồn điền đổi thửa, đảm bảo ruộng đất tập trung liền
khoảnh đủ lớn có thể đưa máy móc đến ruộng đồng.
- Thị trường tiêu thụ và giá cả
Trong sản xuất hàng hoá, thị trường là cầu nối giữa người mua và người
bán. Việc xác định thị trường cho ngành sản xuất lúa có tác dụng quan trọng
nhằm xác định đúng phương hướng, mục tiêu để có thể xây dựng các vùng sản
xuất tập trung đáp ứng nhu cầu của xã hội. Ngày nay, nhu cầu về các sản phẩm
lại rất phong phú và đa dạng. Vì vậy, cần có sự kết hợp giữa các ban ngành và
nhân dân là hết sức cấp bách để xác định diện tích cây trồng, giống hợp lý.
Ngoài giá cả sản phẩm lúa, giá cả các yếu tố đầu vào cũng là một trong những
yếu tố tác động đến sản xuất, chúng là chi phí sản xuất. Do vậy, sự tăng lên hay
giảm xuống của chúng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đầu tư thâm canh sản
xuất của hộ nông dân.
1.1.5. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa
1.1.5.1. Chỉ tiêu đánh giá đặc điểm chung của nông hộ
Tuổi: Tuổi tác gắn liền với sức khỏe, kinh nghiệm, năng lực sản xuất, khả
năng đưa ra quyết định… của mỗi hộ nông dân.
Giới tính: Quyết định đến chất lượng, thời gian công việc được hoàn
thành, cũng như cơ sở cho sự phân công lao động trong nông nghiệp.
Trình độ văn hóa: Trình độ văn hóa là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
khả năng nhận thức, lối sống, khả năng tiếp thu và ứng dụng những đổi mới về
phương pháp, về kỹ thuật sản xuất.
Tổng số nhân khẩu: Nhân khẩu là một khái niệm để đề cập đến số người
trong một gia đình. Mức nhân khẩu là điều kiện cho việc huy động lực lượng lao
động vào hoạt động sản xuất nông nghiệp.
SVTH: Lê Thị Quỳnh
11
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
Tổng số lao động: Lao động là nhân tố hàng đầu đối với việc tiến hành các hoạt
động sản xuất. Lao động càng nhiêu thì gia đình càng chủ động hơn trong quá trình
sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên nó cũng tạo gánh nặng trong giải quyết việc làm.
1.1.5.2. Chỉ tiêu đánh giá mức độ đầu tư các yếu tố sản xuất
Chi phí đầu tư ban đầu/sào.
Chi phí đầu tư giống/sào.
Chi phí đầu tư phân bón/sào.
Chi phí đầu tư thuốc bảo vệ thực vật/sào.
Chi phí lao động/sào.
Chi phí đầu tư thủy lợi/sào.
Chi phí thuê máy móc/sào.
Chi phí khác/sào.
1.1.5.3. Chỉ tiêu đánh giá nguồn lực của nông hộ
Quy mô đất đai.
Quy mô vốn.
Quy mô trang bị tư liệu sản xuất.
1.1.5.4. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất lúa
GO (Giá trị sản xuất): Là toàn bộ giá trị của cải vật chất do lao động sáng
tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Nó bao gồm thu nhập của người dân từ sản
phẩm chính và sản phẩm phụ của cây lúa
GO thường tính theo công thức sau:
GO =
Trong đó:
Qi là lượng sản phẩm i sản xuất ra
Pi là giá sản phẩm loại i
IC (Chi phí trung gian): Bao gồm những khoản chi phí vật chất và dịch
vụ thuê ngoài được sử dụng trong quá trình sản xuất nông nghiệp.
SVTH: Lê Thị Quỳnh
12
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
Cụ thể gồm chi phí mua giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí
thuê lao động ( làm đất, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch), các khoản thủy lợi
phí, thuê máy móc, thuê đất và thuê khác.
VA (Giá trị gia tăng): Là kết quả cuối cùng thu được sau khi trừ đi chi
phí trung gian một hoạt động sản xuất kinh doanh.
VA = GO - IC
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam
Là một đất nước gắn liền với nền văn minh lúa nước, người dân Việt Nam
đã gắng liền với cây lúa qua hằng thế kỷ. Tuy đang trong quá trình công nghiệp
hóa-hiện đại hóa đất nước, Việt Nam vẫn tiến hành sản xuất nông nghiệp một
cách có hiệu quả, tình trạng thiếu lương thực đã không còn tồn tại mà thay vào
đó Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Mặc dầu diện tích giảm dần qua các năm nhưng với những áp dụng khoa
học kỹ thuật kết hợp những biện pháp canh tác hợp lý, đồng thời đưa những
giống lúa mới năng suất tăng đáng kể và làm cho sản lượng cũng tăng theo qua
các năm. Diễn biến thay đổi về diện tích, năng suất và sản lượng được thể hiện
qua bảng sau:
Bảng 1: Kết quả sản xuất lúa của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2010
2009/2008
Chỉ
Tiêu
ĐVT
2008
2009
2010
Diện
tích
1000
ha
7.400,2
7.437,2
Năng
suất
Tạ/ha
52,3
52,4
Sản
lượng
1000
tấn
2010/2009
SL
TL
(%)
SL
TL
(%)
7.513,7
37
0,49
76,5
1,03
53,2
0,1
0,19
0,8
1,53
38.729,8 38.950,2 39.988,9 220,4 0,56 1038,7 2,67
(Nguồn:Tổng cục thống kê)
SVTH: Lê Thị Quỳnh
13
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
Diện tích gieo trồng có xu hướng tăng nhưng không đáng kể do chuyển đổi
diện tích nuôi trồng thủy sản kém hiệu quả sang trồng lúa, khai hoang… Diện
tích tích lúa cả năm giai đoạn 2005 – 2010 đã tăng 184,5 nghìn ha (từ 7.329,2 ha
lên 7.513,7 ha). Năng suất lúa trung bình cả nước tăng 4,3 tạ/ha, từ 48,9 tạ/ha
lên 53,2 tạ/ha. Có thể thấy năm 2010 là năm cho sản lượng và năng suất cao
nhất: Sản lượng đạt 39.988,9 nghìn tấn và năng suất là 53,2 tạ/ha. Càng ngày,
sản lượng lúa gạo Việt Nam càng tăng. Sản lượng lúa cả nước tăng gần 4156
nghìn tấn (từ trên 35832,9 nghìn tấn lên 39.988,9 nghìn tấn). Điều này có được
là nhờ sự nỗ lực của người dân, sự quan tâm của Đảng và nhà nước, các tỉnh
Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế áp dụng những giống lúa mới...
Nhìn chung ngành sản xuất nông nghiệp Việt Nam có được kết quả như
vậy là nhờ việc thực hiện các chủ trương chính sách, đường lối của Đảng và Nhà
nước, thực hiện việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mà đặc biệt là khoa
học về di truyền giống lúa có vai trò rất to lớn. Bộ giống lúa thường xuyên được
chọn lọc lai tạo, giữ gìn và bỗ sung, thay thế nhằm để bảo tồn những giống quý,
có năng suất cao, phẩm chất tốt và phù hợp với từng điều kiện tự nhiên khác
nhau bởi những giống lúa khác nhau, loại bỏ những giống kém chất lượng, hiệu
quả kinh tế thấp, đồng thời tích lũy và tái tạo, phát triển những bộ giống có năng
suất cao, phẩm chất tốt, chống chịu được với từng điều kiện bất lợi của môi
trường. Trên cơ sở đó dự báo Việt Nam có khả năng xuất khẩu đến 4,5 triệu tấn
gạo năm 2020.
SVTH: Lê Thị Quỳnh
14
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
Bảng 2: Diện tích và năng suất lúa của các vùng ở Việt Nam
giai đoạn 2008 - 2010
2008
2009
2010
DT
NS
DT
NS
DT
NS
(nghìn
ha)
(tạ/ha)
(nghìn
ha)
(tạ/ha)
(nghìn
ha)
(tạ/ha)
Tổng
7422,6
52,3
7437,2
52,4
7513,7
53,2
ĐBSH
1155,4
58,9
1155,5
58,8
1150,1
59,2
TD & MNPB
669,9
44,1
670,4
45,5
664,2
46,4
BTB&DHMT
1219,4
50,5
1221,0
51,1
1214,6
50,7
Tây Nguyên
211,3
44,3
215,6
46,3
217,1
48,2
ĐNB
307,7
42,8
304,7
43,8
297,2
44,9
ĐBSCL
3858,9
53,6
3870,0
53,0
3970,5
54,3
Vùng
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Qua bảng trên chúng ta thấy, diện tích trồng lúa ở nước ta tăng qua các
năm. Năm 2010 so với 2008 tăng 91,10 nghìn ha do nhà nước có chính sách
khai hoang mở rộng diện tích và chuyển đổi một số diện tích từ 2 vụ lên 3 vụ
trong năm. Bên cạnh diện tích gieo trồng thì năng suất cũng tăng lên rõ rệt, vùng
có năng suất đạt cao nhất là Đồng bằng Sông Hồng 59.2 tạ/ha, tiếp đến là đồng
bằng sông Cửu Long 54.3 tạ/ha. Sở dĩ năng suất 2 vùng này cao hơn các vùng
khác là do lượng phù sa của 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long bồi
đắp, đất đai màu mỡ kết hợp với người dân áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống có năng suất cao, khả
năng chống chịu bệnh tốt đem lại hiệu quả kinh tế cao.
SVTH: Lê Thị Quỳnh
15
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất cả nước. Nhờ có điều kiện
tự nhiên thuận lợi, trình độ thâm canh cao, người dân áp dụng giống ngắn ngày
có năng suất cao nên ở đây có thể sản xuất 3 vụ/năm trong khi các vùng khác
chỉ sản xuất được 2 vụ/năm. Sản xuất lúa ở đây ở đây chủ yếu phục vụ cho xuất
khẩu trong khi đó ở các vùng khác chỉ để tiêu dùng trong vùng. Ngoài việc đảm
bảo an ninh lương thực quốc gia thì trong những năm qua, Việt nam đã đạt được
những thành tựu trong xuất khẩu gạo. Cụ thể, trong năm 2010, nước ta đã xuất
khẩu được 6.75 triệu tấn gạo, cao nhất từ trước đến nay.
Bảng 3: Sản lượng lúa của các vùng ở Việt Nam giai đoạn 2008 - 2010
2008
2009
2010
SL
(1000
tấn)
TL
(%)
SL
(1000
tấn)
Tổng
38729,8
100
38950,2
100
39988,9
100
ĐBSH
6790,2
17,53
6796,8
17,45
6803,4
17,01
TD & MNPB
2903,9
7,5
3053,6
7,84
3081,0
7,7
BTB&DHMT
6114,9
15,79
6243,2
16,03
6154,1
15,4
Tây Nguyên
935,2
2,4
999,1
2,57
1047,3
2,62
ĐNB
1316,1
3,4
1334,3
3,43
1333,3
3,33
ĐBSCL
20669,5
53,37
20523,3
52,7
21569,8
53,94
Vùng
TL
(%)
SL
(1000
tấn)
TL
(%)
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Nhìn vào bảng sản lượng lúa của các vùng của Việt Nam giai đoạn 20082010 nhìn chung sản lượng lúa có tăng (2009/2008 tăng 220,4 ngàn
tấn,2010/2009 tăng 1038,7 ngàn tấn).Đồng bằng sông cửu long vẫn chiếm tỷ
trọng sản lượng cao nhất cả nước(trên 50%) liên tục trong nhiều năm liền,sau là
đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ.
SVTH: Lê Thị Quỳnh
16
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
Trong năm qua do thời tiết diễn biến phức tạp,khô hạn diễn ra ở hầu hết các
địa phương,cùng với hạn hán,lũ lụt và sâu bệnh đã ảnh hưởng lớn đến diện tích
gieo trồng và sản lượng lúa nhiều địa phương trên cả nước như vùng Bắc Trung
Bộ và Duyên Hải Miền Trung sản lượng lúa 2010/2009 giảm 0,63%.
Tuy nhiên do có nhiều biện pháp đối phó với hạn hán,sâu bệnh,việc áp dụng
nhiều loại giống lúa mới nên sản lượng lúa vẫn tăng liên tục trong 3 năm liền.
1.2.2. Tình hình sản xuất lúa trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh cực Bắc miền Trung Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội
khoảng 150 km về phía Nam và cách thành phố Hồ Chí Minh 1.560 km về
hướng Bắc. Đây là một tỉnh lớn của Việt Nam đứng thứ 5 về diện tích và thứ 3
về dân số trong các đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, cũng là một trong
những địa điểm sinh sống đầu tiên của người việt. Là tỉnh chuyển tiếp giữa miền
Bắc và miền Trung Việt Nam trên nhiều phương diện. Về hành chính Thanh
Hóa là tỉnh cực Bắc Trung Bộ. Về địa chất miền núi Thanh Hóa là sự nối dài của
Tây Bắc Bộ trong khi đồng bằng Thanh Hóa là đồng bằng lớn nhất Trung Bộ.
Tỉnh Thanh Hóa trung bình hằng năm có gần 254 nghìn ha gieo cấy lúa, với
hơn 75% số lao động là nông dân gắn bó với nghề trồng trọt. Nhằm tăng nhanh năng
suất, sản lượng thu hoạch, bảo đảm an ninh lương thực, Thanh Hóa đã chú trọng ứng
dụng công nghệ sinh học vào sản xuất. Vụ xuân năm 2008, Thanh Hóa gieo cấy
được 117 ngàn ha (kế hoạch là 115 ngàn ha). Trước và trong đợt rét hại, toàn tỉnh
gieo cấy được 102 ngàn ha nhưng do rét nên đã có 66.303ha lúa bị chết. Tuy nhiên
không chùn bước trước những khắc nghiệt của thiên nhiên vào vụ Xuân 2008, năng
suất lúa tại Thanh Hóa vẫn đạt bình quân 60 tạ/ha, có huyện đạt 72 tạ/ha. Vụ Mùa
2010, tỉnh Thanh tiếp tục được mùa toàn diện với năng suất đạt 55 tạ/ha.
Thành tựu nổi bật ở Thanh Hóa là chương trình sản xuất giống lúa lai F1
góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, mở rộng diện tích lúa lai từ 20%
lên hơn 44% diện tích chuyên canh lúa nên năng suất, sản lượng tăng nhanh.
Nếu như cuối thế kỷ trước năng suất lúa chỉ đạt 40 tạ/ha, sản lượng chưa năm
SVTH: Lê Thị Quỳnh
17
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
nào vượt ngưỡng một triệu tấn lương thực thì nay mặc dù diện tích chuyên canh
lúa không tăng nhưng riêng niên vụ vừa qua năng suất lúa trung bình đạt 56,4
tạ/ha, sản lượng lúa đạt hơn 1,66 triệu tấn, tăng 1,5 lần so với năm 2000. Qua
khảo sát, tính toán, Thanh Hóa đã dư thừa lương thực. Cùng với tiếp tục vững
chốt an ninh lương thực, những năm trở lại đây Thanh Hóa tập trung xây dựng
vùng lúa thâm canh năng suất, chất lượng hiệu quả cao, thúc đẩy ngành trồng
trọt phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Năm 2010 Thanh Hóa tiếp tục xây
dựng thêm 12.000 ha lúa năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, dần chuyển một
phần diện tích chuyên canh cây lương thực sang trồng các loại cây nông sản,
thực phẩm hàng hóa. Để thực hiện thắng lợi chương trình này, Thanh Hóa tiếp
tục đẩy mạnh chương trình sản xuất lúa lai F1, định hình 770 ha sản xuất giống
lúa lai F1 vào năm 2015, đưa lúa lai vào gieo cấy đại trà hơn 49% diện tích.
Mặt khác, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, từ năm 2008 tỉnh
Thanh Hóa đã tiến hành việc cấp bù thủy lợi phí (TLP) cho bà con nông dân, tạo
được niềm phấn khởi cho bà con yên tâm sản xuất. Thế nhưng, một số HTX và
UBND các xã đã dựa vào chính sách đó để khai man diện tích nhằm trục lợi cá
nhân hàng tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước
Từ năm 2008 đến nay Ngân sách Nhà nước đã cấp bù kinh phí miễn TLP
cho nông dân, tạo điều kiện cho hộ nông dân giảm chi phí, phát triển sản xuất,
nâng cao mức sống và các HTX dịch vụ hoạt động tưới tiêu phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản trên địa bàn Thanh Hóa ngày một tốt hơn.
Tuy nhiên, vừa qua Thanh tra tỉnh Thanh Hóa mới "sờ" vào 3 huyện: Hà Trung,
Như Thanh và Cẩm Thủy thì cả ba huyện này đều sai phạm do khai tăng diện
tích tưới tiêu cho lúa năm 2009 và 2010 để "ăn" ngân sách Nhà nước.
Điển hình tại huyện Hà Trung, ngày 24/11/2011 Thanh tra tỉnh Thanh Hóa
đã có Kết luận số 636/KL-TTTH về việc thanh tra 16 HTX/14 xã trên địa bàn,
thì hầu hết các xã đã khai man diện tích để " ăn cắp" tiền TLP, các HTX có lập
danh sách các hộ nhưng chỉ có một người ký cho nhiều hộ; HTX không thực
SVTH: Lê Thị Quỳnh
18
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
hiện việc ký hợp đồng, nghiệm thu, thanh lý hợp đồng xác nhận diện tích tưới
tiêu đến từng hộ sử dụng nước theo quy định. Thậm chí nhiều UBND xã sau khi
lấy tiền không chuyển cho HTX theo quy định mà lập phiếu chi cho HTX quyết
toán... Ví như: HTX dịch vụ NN Hà Bình, năm 2009, 2010 đã quyết toán tăng
diện tưới tiêu nuôi trồng thủy sản là 4,88ha, với số tiền là 12.200.000đ. HTX
dịch vụ nông nghiệp Hà Giang, năm 2009 được cấp 498.054.000đ, UBND xã
chi 464.620.000đ bằng 3 phiếu chi, ba phiếu chi được chuyển cho THX quyết
toán; Năm 2010 quyết toán tăng diện tích nuôi trồng thủy sản là 18,12 ha, số tiền
là 22.650.000đ. Xã Hà Long, năm 2009, 2010 UBND xã đã trực tiếp chi
1.322.036.566đ, nhưng đã chuyển chứng từ cho HTX… Tổng quyết toán cho
các HTX tăng diện tích là 282,43ha, để ra 240.731.680đ.
1.2.3. Tình hình sản xuất lúa trên địa bàn huyện Hà Trung
Dọc theo quốc lộ 1A, qua thị xã Bỉm Sơn, sẽ tới huyện Hà Trung. Nằm ở phía
Bắc tỉnh Thanh Hóa, Hà Trung giáp với thị xã Bỉm Sơn và tỉnh Ninh Bình ở phía
Bắc, giáp với huyện Hậu Lộc ở phía Nam, phía Tây giáp huyện Thạch Thành, Vĩnh
Lộc và phía Đông giáp với huyện Nga Sơn.
Huyện Hà Trung nằm ở phía Bắc tỉnh Thanh Hóa, giáp với thị xã Bỉm Sơn
và tỉnh Ninh Bình ở phía Bắc, giáp với huyện Hậu Lộc ở phía Nam, còn phía
Tây giáp huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc và phía Đông giáp với huyện Nga Sơn.
Huyện Hà Trung có địa hình nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía
Tây Bắc được bao bọc bởi nhiều dãy đồi núi cao, vì vậy tuy là huyện đồng bằng,
nhưng địa hình lại rất đa dạng, tạo thành nhiều tiểu vùng dạng lòng chảo, khi mùa
mưa đến thường hay làm ngập úng cục bộ, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống
nhân dân.
Mặc dù là một vùng đồng bằng chiêm trũng, chịu nhiều thiên tai, nhưng Hà
Trung đã nỗ lực vượt khó, khai thác tốt những lợi thế, tiềm năng tạo những bước
phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội. Trong nông nghiệp, để khắc phục khó khăn
SVTH: Lê Thị Quỳnh
19
Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Tôn Nữ Hải Âu
do ruộng đất sâu trững, huyện đã tập trung đầu tư hệ thống công trình thủy lợi.
Đồng thời mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu mùa vụ theo hướng tích cực tăng nhanh
diện tích Xuân muộn chiếm 56.4% và Mùa sớm chiếm 55% , điều chỉnh lịch thời
vụ, bố trí cơ cấu giống lúa có năng suất cao. Nhờ đó, tổng diện tích gieo trồng
hàng năm đạt trên 16.300 ha. Năm 2010 tổng sản lượng lương thực đạt 79.503
tấn. Huyện luôn đảm bảo mục tiêu ổn định và giữ vững an ninh lương thực. Nhiều
vùng đất trũng trồng lúa kém hiệu quả đã được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy
sản theo mô hình kết hợp lúa – cá, lúa – tôm, đem lại thu nhập cao gấp 2 lần so
với trồng lúa.
SVTH: Lê Thị Quỳnh
20