1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOBỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN THÙY LINH
Đánh giá kết quả phẫu thuật nâng khungsụn - tạo hình rãnh sau tai trên
bệnh nhân thiểu sản vành tai cấy sụn tạo hình
Chuyên ngành : Tai mũi họng
Mã số
: 62725301
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ NỘI TRÚ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHẠM TUẤN CẢNH
2
HÀ NỘI – 2015
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiểu sản vành tai (microtia) (TSVT) là một khiếm khuyết bẩm sinh
của tai dao động trong mức độ từ bất thường nhẹ về cấu trúc của vành tai đến
hoàn toàn không có tai (anotia). Bệnh có thể biểu hiện như một dị tật bẩm
sinh đơn độc hoặc phối hợp với các dị tật khác [1].
Thiểu sản vành taichiếmtỷ lệ 1/7000 – 1/8000 trong dân số, tỉ lệ gặp
khác nhau ở từng vùng, trong đó tỷ lệ gặp ở trẻ sơ sinh từ 0,83 -17,4/10000 trẻ.
Bệnh thường gặp ở nam giới, có thể ở một bên hoặc cả hai bên, hay gặp ở tai
phải trong các trường hợp thiểu sản vành tai một bên. Ở người gốc Tây Ban
Nha và người châu Á, thiểu sản vành tai gặp nhiều hơn so với người da đen và
da trắng [2]. Nguyên nhân của thiểu sản vành tai cho tới nay chưa được hiểu rõ
nhưng người ta nhận thấy có mối liên quan mật thiết giữa yếu tố môi trường và
di truyền trên những bệnh nhân này [3].
Thiểu sản vành tai làm ảnh hưởng lớn đến vấn đề thẩm mỹ ở những
bệnh nhân này, thậm chí có thể dẫn đến sự mặc cảm do bị người xung quanh
kỳ thị, xa lánh. Bên cạnh đó, những bệnh nhân bị thiểu sản vành tai thường
phối hợp đến những bất thường tai giữa, tai trong nên thính lực bị suy giảm,
làm ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp và phát triển ở trẻ [1].Vì vậy trên
những trẻ này cần được chỉnh hình vành tai sớm và chỉnh sửa di tật tai giữa và
tai trong để phục hồi lại sức nghe và nâng cao chất lượng cuộc sống của trẻ.
Trên thế giới từ thế kỉ XIX đến nay, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về hình thái giải phẫu, chức năng, các phương pháp tạo hình tổn
3
thương khuyết vành tai do mắc phải cũng như các dị tật tai bẩm sinh, đã
thu được kết quả tốt.
Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị Minh (1995) đã ứng dụng hoàn thiện
phương pháp tạo hình tổn khuyết rộng và toàn bộ vành tai mới có sử dụng vạt
cân cơ thái dương [4]. Hay nghiên cứu của Nguyễn Thái Hưng (2006) đánh
giá kết quả tạo hình tổn khuyết vành tai không toàn bộ [5]. Mặc dù có rất
nhiều phương pháp điều trị cho bệnh nhân thiểu sản vành tai, nhưng các tác
giả đều thấy rằng chỉ có cấy ghép bằng sụn sườn là cho kết quả tốt nhất. Hiện
nay ở nước ta cũng như trên thế giới hay sử dụng hai phương pháp phẫu
thuậttheo tác giả Brent và Nagata để tạo hình vành tai. Trong đó kỹ thuật
chỉnh hình theo Brent gồm có 4 thì phẫu thuật, còn kỹ thuật của Nagata rút
gọn xuống còn 2 thì phẫu thuật, tùy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng. Tuy
nhiên chưa có nhiều đề tài đánh giá về đặc điểm hình thái và hiệu quả điều
trị của từng giai đoạn phẫu thuật của các kỹ thuật này. Ở Việt Nam mới chỉ
có nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Vân Bình (2012) nghiên cứu đặc điểm
hình thái của thiểu sản vành tai và đánh giá kết quả của thì phẫu thuật cấy
sụn tạo hình [6]. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá kết quả
phẫu thuật nâng khungsụn - tạo hình rãnh sau tai trên bệnh nhân thiểu
sản vành tai cấy sụn tạo hình” nhằm hai mục tiêu:
1.
Mô tả đặc điểm hình thái thiểu sản vành tai đã được cấy sụn tạo hình
thì một.
2.
Đánh giá kết quả phẫu thuật nâng khung sụn - tạo hình rãnh sau tai
trên bệnh nhân thiểu sản vành tai cấy sụn tạo hình.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Thiểu sản vành tai hay tật tai nhỏ – microtia là thuật ngữ xuất phát từ tiếng
Latin với micro-nhỏ và otia-tai. Tuy nhiên trên thực tế, không có sự đồng thuận
về các thuật ngữ được sử dụng cho những dị tật tai ngoài. Một số tác giả thích
sử dụng thuật ngữ "microtia" [7] trong khi những người khác sử dụng
"microtia-anotia" (tai nhỏ - không có tai) hoặc "microtia/anotia" (tai
nhỏ/không có tai) [8]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi dùng thuật ngữ
"microtia" bao gồm cả không có tai ngoài và“anotia” là biểu hiện nghiêm
trọng nhất của dị tật tai ngoài.
Các nghiên cứu đầu tiên về tạo hình lại vành tai được tìm thấy trong
Sushruta Samhita, một văn bản do Sushruta, một bác sĩ phẫu thuật cổ xưa
của Ấn Độ thực hiện. Những văn bản này từ thế kỷ thứ III, IV sau công
nguyên đề xuất sử dụng một vạtda má để tạo hình dái tai. Các nhà phẫu
thuật như Taggliacozzi trong thế kỷ XVI và Dieffenbach trong thế kỷ XIX
tập trung vào xây dựng lại các khuyết tật lỗ tai một phần do chấn thương sử
dụng vạt da tại chỗ [9].
Năm 1920, Gillies khởi đầu quan trọng trong chỉnh sửa dị vật vành tai bẩm
sinh bằng việc vùi một mảnh sụn sườn đã được khắc gọt vào dưới da ở vùng
xương chũm, sau đó tách rời mảnh ghép sụn này cùng với một vạt da cổ.
5
Sau đó, Youngvà Peer (1948) đã chuyển sang sử dụng mảnh ghép sụn
sườn tự thân mà họ khéo léo cắt nhỏ đặt vào trong một khuôn hình tai
vitallium dưới da bụng [10].
Năm 1959, một bước đột phá lớn khi Tanzer sử dụng sụn sườn tự thân,
khắc gọt thành một khối vững chắc và kết quả đạt được là mảnh ghép sụn tự
thân tồn tại được trong nhiều nămvới 6 thì phẫu thuật [11].
Đến năm 1966, để tránh những cuộc phẫu thuật phức tạp, Cronin đã sử
dụng silicone làm khung vành tai nhưng ông nhận thấy rằng, cũng giống như
các vật liệu cấy ghép vô cơ khác (như polyethylene, lưới nylon, Marlex,
polyester và Teflon) vành tai giả bằng sillicone có tỷ lệ thải loại cao [12].
Năm 1974, Brent đã hoàn thiện kỹ thuật tạo hình vành tai từ sụn
sườn với 4 giai đoạn. Giai đoạn 1: tạo khung vành tai từ mảnh ghép sụn
sườn. Giai đoạn 2: xoay dái tai sai vị trí về đúng vị trí. Giai đoạn 3: nâng
vành tai tái tạo hình mới và tạo rãnh sau tai. Giai đoạn 4: tạo hình hố
thuyền và bình tai [10],[12].
Đến năm 1985, Nagata- một nhà phẫu thuật người Nhật đã gộp giai
đoạn 1,2,4 của Brent thành 1 giai đoạn và nâng vành tai tái tạo hình mới,
tạo hình rãnh sau tai vào giai đoạn 2 để rút ngắn số lần và thời gian phẫu
thuật cho bệnh nhân, đồng thời giảm chi phí điều trị đáng kể [13].Sau đó,
kỹ thuật tạo hình vành tai từ sụn sườn tiếp tục được nhiều tác giả quan tâm
và phát triển.
Đến nay, vật liệu đáng tin cậy nhất cho kết quả tốt với biến chứng ít
nhất trong tạo hình vành tai vẫn là sụn sườn tự sinh.Và kết quả phẫu thuật cấy
sụn tạo hình vẫn đem lại kết quả đáng ghi nhận.
1.1.2. Ở Việt Nam
Các tổn khuyết vành tai đã được nghiên cứu từ những năm 1970.
6
Nguyễn Huy Phan (1979) đã nghiên cứu các phương pháp xử trí các
tổn thương khuyết vành tai do chấn thương.
Năm 1994, Nguyễn Thị Minh, Nguyễn Tài Sơn nghiên cứu vai trò của
vạt cân thái dương nông trong kỹ thuật tạo hình vành tai một thì.
Đến năm 1995, Nguyễn Thị Minh nghiên cứu điều trị các tổn thương
khuyết rộng và toàn bộ vành tai bằng phẫu thuật tạo hình trong đó bao gồm cả
các trường hợp tổn thương thiểu sản vành tai bẩm sinh và các trường hợp tổn
thương khuyết vành tai do nguyên nhân khác [4].
Năm 2006, Nguyễn Thái Hưng đã mô tả đặc điểm lâm sàng và đánh giá
kết quả tạo hình tổn khuyết vành tai không toàn bộ [5].
Năm 2012, Nguyễn Thị Vân Bình đã đưa ra nghiên cứu hình thái thiểu
sản vành tai và kết quả cấy sụn tạo hình vành tai [6].
Tuy nhiên, việc mô tả riêng về hình thái lâm sàng, phân loại tổn thương
thiểu sản vành tai và điều trị hiện nay, đặc biệt hiệu quả phẫu thuật thì
vẫnchưa được quan tâm tới nhiều.
1.2.Đặc điểm giải phẫu vành tai
1.2.1. Phôi thai học
- Tai ngoài bao gồm có vành tai và ống tai ngoài, phát triển từ khe
mang thứ nhất và những phần nằm kề khe này của cung hàm dưới và cung
xương móng. Vành tai bắt đầu phát triển muộn hơn các thành phần khác của
tai. Vành tai được hình thành từ 6 gò lồi (còn gọi là gò His) tụ tập ở khe mang
thứ nhất.Vào tuần lễ thứ 5 của thời kỳ bào thai, 3 gờ lồi phát sinh từ cung hàm
dưới (gờ lồi 1,2,3) và 3 gờ lồi còn lại từ cung xương móng (gờ lồi 4,5,6) ở
phần đối diện của khe mang thứ nhất [14],[15].
- Những gờ lồi này có mối liên quan đặc hiệu với những cấu trúc đặc
biệt của vành tai. Khoảng tuần lễ thứ 8 thì vành tai có cấu trúc xác định [8].
7
Ba gờ lồi thuộc cung hàm dưới góp phần tạo thành bình tai, rễ luân nhĩ
và loa tai.
Những gờ lồi thuộc cung xương móng thì góp phần hình thành hầu hết
các phần của vành tai người lớn, tức là những bộ phận còn lại không xuất phát
từ cung hàm dưới. Gờ lồi thứ nhất và thứ sáu thì giữ nguyên vị trí hằng định,
đánh dấu vị trí hình thành lần lượt của bình tai và gờ đối bình. Gờ lồi thứ 4 và
thứ 5 thì phát triển lan rộng và xoay ngang qua đầu sau của khe mang thứ 1,
từ đó phát sinh ra phần trước và trên của luân nhĩ và phần kế cận của thân
vành tai. Mặc dù được phần lớn các tác giả công nhận nhưng vẫn chưa có
những bằng chứng xác định về nguồn gốc của các trụ luân nhĩ và phần trên
luân nhĩ. Vành tai và ống tai ngoài thì ban đầu nằm ở phía trước(phía bụng)
của đầu, về sau mới di chuyển về phía sau(phía lưng) và phía trên.Di chuyển
xa hơn nữa thì ống tai ngoài và hòm nhĩ nguyên thủy sẽ tới gần mức mà vành
tai đã di chuyển đến, và các phần của tai ngoài, tai giữa và tai trong sẽ gắn
liền với nhau.Vì những gò lồi thuộc cung mang thứ 2 góp phần nhiều hơn vào
quá trình hình thành vành tai, nên những dị dạng của gờ đối luân, xoăn nhĩ,
gờ đối bình và dái tai là những dị dạng hay phải đề cập đếnvà cũng hay phải
chỉnh sửa nhất trong phẫu thuật tạo hình tai.Vành tai đạt được hình dạng
chính của ngườilớn vào khoảng tuần thứ 18 mặc dù nó vẫn tiếp tục phát triển
cho đến tuổitrưởng thành [15].
(A)(B)(C)
8
Hình 1.1. Sự phát triển của tai ngoài [16]
(A)Giai đoạn sớm của thời kỳ bào thai
(B)Giai đoạn sau của thời kỳ bào thai
(C) Vành tai khi mới sinh ra
Thiểu sản vành tai xảy rakhicó vấn đề bất thường trong quá trình phát
triển của tai ở thời kìphôi thai. Một số giả thiết về sự phát triển bất thường
này đã được đưa ra như[8],[14]:
Dobất thường các mạch máucung cấp chokhuvựcxung quanh tai
trong phôi thai.
Do sự chết bất thường của các tế bào của khe mang thứ 1 hay những
phần nằm kề khe này của cung hàm dưới và cung xương móng.
Do di cư bất thường của các tế bào mào thần kinh, hay do các gò lồi
hình thành nên vành tai không phát triển…
Tuy nhiên, tất cả những giả thiết này vẫn còn chưa được khẳng định
rõ ràng.
1.2.2. Vị trí vành tai
Hình 1.2.Vị trí, hướng và kích thước của vành tai [8]
9
- Vành tai nằm ngay sau khớp thái dương hàm và vùng tuyến mang tai, phía
trước xương chũm, phía dưới vùng thái dương [17].
- Vành tai được giới hạn bởi:
+ Phía trên: nằm trên đường thẳng kẻ ngang qua lông mày.
+ Phía dưới: nằm trên đường thẳng kẻ ngang qua chân mũi
+ Trục dọc của vành tai là đường thẳng qua đỉnh cao nhất của vành tai
và điểm thấp nhất của dái tai và song song với trục của sống mũi.
+ Trục phía trước của vành tai trùng với bờ sau của ngành lên xương hàm dưới.
+ Phần giữa vành tai kẻ ngang phải trùng với đường kẻ ngang của giữa mũi
- Vành tai là một mảnh mỏng đính với thành bên của đầu. Phần tự do của
vành tai mở ra phía sau, chéo với bề mặt xương sọ thành một góc gọi là góc
vành tai – xương chũm hay góc vành tai. Góc này khác nhau giữa nam và nữ.
Ở nam từ 10-30o, trong khi đó ở nữ là 2-20o. Góc vành tai – xương chũm
tương ứng khoảng cách giữa bờ sau của gờ luân và mặt ngoài xương chũm,
dài khoảng 15- 25 mm tại vị trí phần giữa gờ luân. Góc tạo bởi loa tai và bề
mặt ngoài xương sọ bình thường khoảng 90o. Góc tạo bởi hố thuyền – loa tai
bình thường từ 90o - 120o[18],[19]. Phẫu thuật tạo hình lại vành tai bắt đầu
bằng sự đánh giá tỉ mỉ của các góc, cấu trúc bị biến dạng. Nếu góc giữa loa tai
– bề mặt ngoài xương sọ lớn hơn 90 o hoặc góc giữa vành tai – xương chũm
lớn hơn 40o sẽ cho thấy sự vượt quá mức về kích thước của loa tai. Nếu góc
giữa loa tai – hố thuyền lớn hơn 120o cho thấy sự vắng mặt của gờ đối luân.
10
Nếu khoảng cách giữa gờ luân và hộp sọ lớn hơn 20 mm có thể là kết quả của
sự vượt quá mức về kích thước của loa tai hoặc sự vắng mặt của nếp gờ đối
luân. Góc vành tai hai bên chênh lệch nhau dưới 10º [20].
(A)
(B)
Hình 1.3. Các góc của vành tai [20]
(A). Góc giữa vành tai – xương chũm:20º - 30o và tương ứng với khoảng cách
giữa gờ luân và mặt ngoài xương chũm là 15 – 20 mm
(B).Góc giữa loa tai – bề mặt ngoài xương sọ và góc giữa loa tai – hố thuyền
đều tù và lớn hơn 120o. Bất thường góc giữa vành tai – xương chũm >40o và
tương ứngkhoảng cáchgiữa gờ luân và mặt ngoài xương chũm > 25 mm
- Vành tai trung bình dài 6,5cm và rộng 3,5cm, tỷ lệ chiều dài và chiều
rộng gần bằng 2/1, hay ở nam ≈ 6,35 cm và ở nữ ≈ 5,9 cm [21]. Theo Lê Gia
Vinh và cộng sự thì ở Việt Nam, chiều dài trung bình 6,2 ± 0,6 cm, rộng
3,3±0,3cm ở nam và ở nữ dài 5,7 ± 0,5 cm, rộng 3,1 ± 0,3 cm. Còn chiều dài
của dái tai ở nam 1,7 ± 0,2 cm, ở nữ 1,6 ± 0,2 cm [22].
1.2.3. Giải phẫu vành tai
11
1.Luân nhĩ; 2. Gờ đối luân; 3. Rễ trên của
gờ đối luân; 4. Rễ dưới của gờ đối luân; 5.
Hố thuyền; 6. Hố tam giác; 7. Bình tai;8.
Gờ đối bình;9. Khuyến gian bình; 10. Rễ
luân nhĩ; 11. Lòng thuyền vành tai; 12. Loa
tai; 13. Rễ dưới gờ luân;14. Dái tai
Hình 1.4. Mặt trước của tai ngoài bên trái [19]
Vành tai có 2 mặt: mặt trước và mặt sau (hoặc mặt ngoài và mặt trong)
* Mặt trước vành tai có những chỗ lồi và chỗ lõmmà cách gọi tên có
khác nhau chút ít tùy theo tác giả. Để thống nhất cách gọi chúng tôi dựa vào
cách gọi trong sách Atlas giải phẫu người của Nguyễn Quang Quyền (2000)
[23],[24].
Những chỗ lồi, tính từ chu vi về trung tâm là: gờ luân nhĩ, gờ đối luân
nhĩ, đối bình tai và bình tai.
- Gờ luân nhĩ: chiếm 2/3 trên bờ tự do của vành tai và xuất phát từ phía
trước và phía dưới, tiếp theo rễ của nó, rễ này từ ống tai ngoài kéo dài ra theo
hướng nằm ngang (phía ngoài và phía sau). Từ chỗxuất phát gờ luân nhĩ tiếp tục
đi lên phía trên rồi lại cong xuống phía dưới để tận cùng tiếp nối với dái tai.
- Gờ đối luân nằm phía trong, đồng tâm với gờ luân, xuất phát từ phía
trên bởi 2 rễ: rễ dưới (trước) và rễ trên (sau), hai rễ này hợp nhất thành một
tạo nên gờ đối luân. Gờ này nằm ngăn cách giữa gờ luân nhĩ ở phía sau và bờ
của loa tai ở phía trước.
- Đối bình tai là một gờ nhỏ ở phía trước dưới của gờ đối luân, đối diện
với bình tai.
12
- Bình tai có hình tam giác, nghiêng ra phía sau ngoài và tạo nên thành
trước của ống tai. Giữa bình tai và đối bình tai có một khuyết nhỏ - khuyết
gian bình.
Những chỗ lõm là hố thuyền, rãnh luân nhĩ, loa tai và cửa tai[24],[25].
- Hố thuyền: là một hố thấp, nông, nằm giữa rễ trước và rễ sau của
gờđối luân
- Rãnh luân nhĩ (Scapha): nằm giữa gờ luân nhĩ và gờ đối luân
- Loa tai: tiếp giáp với gờ đối luân ở phía trên sau, phía trước đáy của
loa tai nối liền với ống tai ngoài và liên quan với bình tai, phía sau dưới giới
hạn bởi gờ đối bình.
Dái tai thể hiện nhiều mức độ phát triển khác nhau với hình dáng thay
đổi ở từng người. Theo công trình nghiên cứu của MC Kinney dái tai dài
khoảng 2cm, chiếm 1/3 chiều dài của tai, có thể dài thêm khi tăng dần về độ
tuổi [22].
* Mặt sau vành tai gồm có hai bờ
- Bờ trước dính chặt với thành bên của đầu.
- Bờ sau là bờ tự do
Hai vành tai của người thường không hoàn toàn giống nhau.Các bộ
phận của vành tai cũng biến đổi theo tuổi tác và nghề nghiệp: vành tai trẻ em
da mịn, các chỗ lồi lõm không quá gồ ghề; vành tai người già có những nếp
nhăn, gập khúc, sụn cứng hơn và gồ lên rõ hơn, người lao động chân tay
nhiều vành tai cứng và gồ ghề hơn.
1.2.4. Cấu tạo của vành tai
Vành tai là một cái loa bằng sụn được bao bọc bên ngoài bởi da, trừ
phía dưới của vành tai không có sụn mà chỉ có mỡ và da được gọi là dái tai.
13
Da của vành tai rất mịn mỏng, thực tế không có mỡ dưới da mà dính
chặt vào bề mặt sụn. Mặt trước của vành tai lớp da phủ mỏng dính chắc vào
sụn, trong khi ở phía sau (mặt sau) thì da di động dễ dàng [15].
Sụn vành tai là sụn chun, sụn vành tai rất mỏng và khá đồng đều về độ
dày mỏng, dày từ 0,5 - 1 mm, bọc bởi màng sụn [26]. Sụn của vành tai có tính
chất rất đặc biệt, nó không giống với sụn ở bất cứ nơi nào khác trong cơ thể.
Nó không có mạch máu và chỉ gồm duy nhất một mảnh nguyên vẹn. Sụn của
xương sườn VII phần nào giống với sụn vành tai nhưng dày hơn, rắn hơn và
cũng dễ gẫy hơn. Hình dáng của vành tai lệ thuộc vào cốt sụn của vành tai.
Những đặc tính riêng biệt của sụn vành tai cộng với những gờ nổi, nếp gấp
tạo cho vành tai có hình dáng phức tạp [15].
Khung của vành tai gồm có ba tầng sụn, hình thành nên bốn mặt phẳng,
xoắn vặn một cách tinh tế, đó là các tầng sau: phức hợp loa tai, phức hợp gờ
đối luân- gờ bình tai và phức hợp gờ luân nhĩ. Tất cả những mặt phẳng này
nối tiếp với nhau lần lượt theo những góc vuông và hình thành một mặt trước
(phía lõm) với những thành phần lồi lõm phức tạp và một mặt sau (phía lồi)
bằng phẳng hơn [18]. Vì vậy, bất kỳ tổn thương nào của vành tai khi phục hồi
cần tuân theo đặc điểm cấu trúc này.
1. Sàn vành tai
2. Thành vành tai
3. Phức hợp hố thuyền – gờ đối luân
4. Gờ luân nhĩ
Hình 1.5. Quan niệm bốn mặt phẳng, ba tầng thiết kế vành tai [27]
1.2.5. Mạch máu và thần kinh vành tai
- Động mạch: Vành tai được cung cấp máu bởi hai nguồn: động mạch
thái dương nông hay động mạch tai trước và động mạch tai sau. Đó là những
nhánh bên của động mạch cảnh ngoài [23],[28].
14
Các động mạch tai trước: thường có 3 nhánh.
+ Nhánh dưới: phân chia cấp máu cho nửa trước của bình tai và dái tai
+ Nhánh giữa: đi vào nửa dưới của phần lên gờ luân và đi xuống cấp
máu cho loa tai theo rễ của gờ luân
+ Nhánh trên: cấp máu cho nửa trên phần lên của gờ luân.
Các động mạch tai sau: có 3 hoặc 4 nhánh tách ra từ thân động mạch tai
sau, một số nhánh đi ở dưới cơ tai sau, một số nhánh đi ở trên cơ này. Ngay
sau chỗ xuất phát các nhánh này đi tới mặt trong của vành tai và phân nhánh ở
mặt này theo hướng chếch lên trên và ra trước. Như vậy, các nhánh này đi từ
phần dính của vành tai ra bờ tự do.
Hình A: 1. Động mạch thái dương
nông; 2. Động mạch tai sau; 3. Các
nhánh của động mạch tai trước; 4.
Các nhánh xiên; 5. Cơ nhị thân, 6.
Góc hàm
Hình B: 1. Cơ sau tai, 2.Động mạch
tai sau, 3. Các nhánh xiên
Hình 1.6.Mạch máu của vành tai [19]
- Tĩnh mạch: Giống như động mạch. Các tĩnh mạch của vành tai phân
chia thành các tĩnh mạch tai trước và tai sau.
Các tĩnh mạch tai trước đổ vào tĩnh mạch thái dương nông và sau đó
vào tĩnh mạch cảnh ngoài. Các tĩnh mạch tai sau đổ vào tĩnh mạch cảnh
ngoài. Tuy nhiên, một số tĩnh mạch sau lại đổ vào tĩnh mạch liên lạc. Tĩnh
mạch này chui qua lỗ chũm để dổ vào xoang tĩnh mạch bên [23],[28].
-Thần kinh: Các dây thần kinh chi phối cho vành tai gồm hai loại:
+ Các nhánh vận động: xuất phát từ dây thần kinh mặt
15
+ Các nhánh cảm giác của vành tai là do những nhánh sau và nhánh
trước của dây thần kinh tai lớn chi phối, được tăng cường thêm bởi dây thần
kinh tai - thái dương [23],[28].
1.2.6. Chức năng của vành tai
Vành tai với vị trí và cấu trúc đặc biệt có tác dụng thu, hứng lấy các
sóng âm trong không khí vào ống tai ngoài. Ngoài ra,vành tai còn giúp chúng
ta định hướng âm, phân biệt được tiếng động ở bên phải hoặc bên trái, ở phía
trước hoặc phía sau [22],[25].
Ngày nay, người ta đã biết nghe rõ bằng hai tai có ưu thế hơn nghe
bằng một tai vì: nghe rõ hơn, khu trú được nguồn âm tốt hơn, phân biệt được
lời nói trong môi trường ồn ào.
Ngoài ra vành tai còn có chức năng thẩm mỹ tạo sự cân đối cho
khuôn mặt.
Dị tật không có vành tai gây ảnh hưởng nhiều đến tâm lý của bệnh nhân, nhất
làtrẻ em ở giai đoạnphát triển về ý thức, bắt đầu nhận thức về mình so với mọi
người xung quanh. Với những trẻ bị tật ở mắt như cận thị, viễn thị, nếu không
có vành tai sẽ không thể đeo được kính. Người không có vành tai cũng không
thể thực hiện việc đơn giản như đeo khẩu trang mỗi lần ra ngoài môi trường
bụi, gió rét…
Dái tai có một nguồn cung cấp máu lớn và có thể giúp làm ấm đôi tai
và duy trì sự cân bằng,dái tai có chứa rất nhiều đầu dây thần kinh, và đối
với một số người, dái tai được cho là một vùng nhạy cảm trong cơ thể.
Các chức năng này đều quan trọng nên khi xử trí cần đảm bảo cả về
giải phẫu, chức năng và thẩm mỹ.
1.3.Đặc điểmdị tật vành tai bẩm sinh
1.3.1. Đặc điểm hình thái học của thiểu sản vành tai.
16
Thiểu sản vành tai có nghĩa là vành tai nhỏ bẩm sinh, có thể có hoặc không
có các bất thường về cấu trúc khác. Anotia tức là hoàn toàn không có vành tai, là
trường hợp cực kì hiếm của TSVT.
Thiểu sản vành tai có thể xảy ra như một dị tật bẩm sinh đơn độc
chiếm60 – 70% hay là một phần của một hội chứng liên quan tới cấu trúc phát
triểnbất thường từ khe mang 1 và khe mang 2. Hầu hết các trường hợp thiểu
sản vành tai thường xuất hiện lẻ tẻ, dưới 15% bệnh nhân thiểu sản vành tai
có liên quan đến tiền sử gia đình. Thiểu sản vành tai một bên thường gặp
phổ biến hơn chiếm 70% các trường hợp, chủ yếu bên phải và gặp nhiều
hơn, ưu thế hơn ở nam giới. Thiểu sản vành tai hay gặp ở người gốc Tây
Ban Nha và người châu Á, gặp nhiều hơn so với người da đen và da trắng.
Nguyên nhân của thiểu sản vành tai cho tới nay chưa được hiểu rõ nhưng
người ta nhận thấy có mối liên quan mật thiết giữa yếu tố môi trường và di
truyền trên những bệnh nhân này [3].
1.3.2.Các hội chứng
Những bất thường trên bệnh nhân thiểu sản vành tai một bên thường liên
quan tới hệ thống mắt–tai–đốt sống (oculo-auriculo-vertebral spectrum) (OAVS)
với biểu hiện kinh điển nhất là hội chứng Goldenharhoặccác biến dạng KlippelFeil và hội chứng Treacher- Collins với thiểu sản vành tai 2 bên.
Tật nửa mặt nhỏ (hemifacial microsomia) hay Hội chứng Goldenhar
lần đầu tiên được MauriceGoldenharbáo cáovào năm 1952. Đólà một hội
chứng hiếm gặp, tỷ lệ ước tính 1/5,600 đến 1/26,550 trong số trẻ sinh ra. Hội
chứng Goldenhar được đặc trưng bởi một loạt các bất thường bao gồm [19]:
Các thường về mắt (tật mắt nhỏ, tật u nang trên bề mặt nhãn cầu, và
các dị tật u nang dạng mỡ).
Các bất thường về tai (thiểu sản vành tai, các tật ở tai, và các đường
rõ bẩm sinh).
Các bất thường về đốt sống.
17
Các bất thường về sọ mặt như sứt môi hở hàm ếch/hở vòm miệng,
khuôn mặt không đối xứng do thiểu sản xương hàm dưới hoặc xương gò má,
rối loạn phát triển của răng và chậm phát triển tâm thần.
Hình 1.7. Hội chứng Goldenhar [29]
Hội chứng Klippel-Feil (KFS) đặc trưng với các bất thường bẩm sinh
của các đốt sống cổ, biểu hiện như cổ ngắn, đường chân tóc thấp, quay cổ hạn
chế và nhiều loại bất thường về cả tai ngoài, tai giữa và tai trong (biến dạng
ống tai trong, cống tiền đình rộng ra) [19].
Hội chứng Treacher - Collins: đây là hội chứng điển hình của trường
hợp thiểu sản vành tai cả 2 bên. Hội chứng Treacher - Collins biểu hiện chủ
yếu là thiểu sản xương gò má hoặc ngành lên của xương hàm dưới, sàn hốc
mắt, biểu hiện ngược với hội chứng Down về mắt với tật thường ở khuyết mi
mắt dưới… Các tổn thương này thường xuất hiện hai bên và mang tính chất
đối xứng. Nó có thể kết hợp hở vòm miệng, hẹp cửa mũi sau. Về trí tuệ, trẻ
phát triển bình thường [19].
18
Hình 1.8. Hội chứng Treacher – Collins [29]
Ngoài ra thiểu sản vành tai đôi khi có thể gặp trong các hội chứng khác như
hội chứng Negar, Townes – Brocks, Crouzon, Potter Moebius [19]...
1.3.3.Yếu tố nguy cơ
Trong các nghiên cứu dân số, nhiều yếu tố nguy cơ thiểu sản vành tai đã
được đề xuất. Cả hai yếu tố môi trường và di truyền có thể ảnh hưởng đến sự
xuất hiện của thiểu sản vành tai.
Thuốc: Các thuốc như retinoids, thalidomide và mycophenolate
motefil (một loại thuốc ức chế miễn dịch) được biết đến là yếu tố nguy cơ
của TSVT [30].
Độ cao: Độ cao có thể là một yếu tố nguy cơ [31]. Ví dụ tại các thành phố
có độ cao như Quito (độ cao 2.800 m), La Paz (3250-4100 m) và Bogota (2600m)
tỷ lệthiểu sản vành tai là cao hơn đáng kể hơn so với các địa điểm khác.
Di truyền: Ước tính yếu tố gia đình trong các ca TSVTchiếm từ 3-34%
[32]. Thiểu sản vành tai được cho là liên quan đến cả gen trội và gen lặn [33].
Dân tộc: TSVT hay gặp ở người gốc Tây Ban Nha và người châu Á và
gặp nhiều hơn so với người da đen và da trắng [2].
Yếu tố nguy cơ khác: Nam giới, sinh con nhẹ cân (<2500g), con đầu
tiên, cha mẹ lớn tuổi hoặc nhỏ tuổi quá, mẹ bị bệnh trong quá trình mang thai
như đái tháo đường cũng được coi là yếu tố nguy cơ nói chung [34],[35].
1.3.4. Phân loại thiểu sản vành tai
19
Dựa vào mức độ bất thường về cấu trúc mà người ta phân loại thiểu sản
vành tai ra làm các mức độ khác nhau. Có nhiều hệ thống phân loại trong đó
các phân loại hay được sử dụng :
Satoru Nagata phân loại thiểu sản vành tai gồm Loại 1: tuyp xoăn tai,
Loại 2: tuyp xoăn tai nhỏ, Loại 3: tuyp dái tai [13].
Hình 1.9. Phân loại thiểu sản vành tai theo Nagata [13]
Phân loại hiện nay được nhiều tác giả sử dụng [36],[37]:
Độ 1: Có đầy đủ tất cả các đơn vị giải phẫu của vành tai nhưng méo mó
hoặc kích thước nhỏ hơn, ống tai ngoài có thể bị tịt hoặc hẹp.
Độ 2: thiếu hụt 1 – 2 đơn vị giải phẫu của vành tai (không có dái tai
hoặc gờ luân), với ống tai ngoài tịt hoặc hẹp và điếc dẫn truyền.
Độ 3: Với mô tả kinh điển: “vành tai hạt đậu” – ‘peanut’ hoặc không có
tai ngoài, hoàn toàn không có ống tai ngoài và màng nhĩ
Trong một số nghiên cứu khác, người ta có thể xếp hoàn toàn không có
tai ngoài thành độ 4.
1.3.5. Liên quan giữa TSVT với tai giữa và thính lực
Bệnh nhân có vành tai thiểu sản thường kết hợp với dị tậtống tai ngoài và
bất thường về tai giữa gây nên điếc dẫn truyền, chiếm tỉ lệ đến 80-90%. Điếc tiếp
nhận không hay gặp trong TSVT, chỉ chiếm tỉ lệ từ 10-15% [38].
Đối với trẻ em bị thiểu sản vành tai một bên và nghe bình thường ở bên
tai đối diện thì trẻ phát triển bình thường. Trong trường hợp trẻ bị thiểu sản
vành tai cả hai bên thì việc sử dụng các phương pháp trợ thính là cần thiết để
20
trẻ có thể phát triển bình thường và phải tiến hành sớm ngay sau khi sinh. Và
khi trẻ khoảng 4 tuổi thì việc chụp CT – xương thái dương là cần thiết để xác
định giải phẫu của tai giữa [39].
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy mất thính lực một bên đối với
những trường hợp thiểu sản vành tai một bên làm tăng nguy cơ chậm nói và
chậm phát triển ngôn ngữ, rối loạn chú ý và gây ảnh hưởng tới việc học của
trẻ ở trường. Do đó, người ta bắt đầu quan tâm tới các phẫu thuật tai kinh điển
trên những bệnh nhân thiểu sản vành tai nhằm cải thiện sức nghe.
Theo Brent, các phẫu thuật về tai kinh điển nên được tiến hành sau khi
đã hoàn thành việc tái tạo lại tai ngoài để tránh sự rối loạn trong cung cấp
máu. Và đây được coi là phương pháp điều trị chuẩn mực đối với bệnh nhân
thiểu sản vành tai [21].
1.4. Các phương pháp tạo hình vành tai
Tạo hìnhvành tai trên nhữngbệnh nhân thiểu sản vành tai là một trong
những ca tạo hình khó khăn nhất do cấu trúc giải phẫu của vành tai phức tạp,
nhiều chỗ lồi lõm, sụn vành tai lại có cấu trúc đặc biệt không giống với bất cứ
sụn nào trên cơ thể.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp điều trị với bệnh nhân thiểu sản
vành tai như phẫu thuật tạo hình vành tai bằng sụn sườn tự thân hay sử dụng
các vật liệu nhân tạo, có thể sử dụng vành tai giả và phương pháp đang được
quan tâm nhiều nữa là kỹ thuật nuôi cấy mô sụn…
1.4.1. Tạo hình vành tai bằng sụn sườn
Với rất nhiều phương pháp tạo hình lại vành tai thiểu sản nhưng trong
đó sử dụng sụn sườn tự thân được cho là có kết quả tốt nhất.
- Xem thêm -