Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đánh giá tình hình sản xuất rau an toàn tại xã hưng đông thành phố vinh nghệ a...

Tài liệu đánh giá tình hình sản xuất rau an toàn tại xã hưng đông thành phố vinh nghệ an

.PDF
63
344
70

Mô tả:

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, vấn đề “ An toàn thực phẩm” cũng như vấn đề “Rau sạch, rau an toàn” là một trong nhưng vấn đề được nhiều người quan tâm đặc biệt là các nhà khoa học. Có thể nói đó là vấn đề ít nhiều mang tính thời sự của thời đại ngày nay. Bởi lẽ rau là nguồn dinh dưỡng và là nguồn thực phẩm xanh vô cùng quan trọng cho sức khỏe và sự sống của con người. Hơn nữa hiện trạng sản xuất rau chưa sạch, không an toàn đã gây hại nghiêm trọng cho sức khỏe của người dân và môi trường sinh thái vẫn đang tồn tại và chưa được giải quyết triệt để. Chính vì thế mà việc sản xuất rau sạch, rau an toàn là một phương hướng triệt đẻ mang tính lâu dài. Thêm nữa việc nghiên cứu, phổ biến áp dụng các quy trình sản xuất rau an toàn mang lại lợi ích thiết thục cho sức khỏe, cho kinh tế của nhân dân và đất nước. Vì vậy việc sản xuất rau an toàn lại càng trở nên cấp thiết và quan trọng. Trồng rau là một trong những nghề truyền thống và điển hình của xã Hưng Đông. Đời sống nhân dân vẫn còn khó khăn nhưng người dân ở đây cần cù, chịu khó, lại có kinh nghiệm sản xuất rau lâu đời. Nguồn thu từ việc sản xuất rau cải thiện đáng kể cho cuộc sống của người dân ở đây. Xã Hưng Đông đã bắt đầu sản xuất rau an toàn từ năm 1997 tại một số HTX, và bươc đầu thu đươc một số kết quả khả quan: người sản xuất chưng tỏ đươc khả năng, người tiêu dung tin tưởng và các cơ quan chức năng đã có được những bài học kinh nghiệm ban đầu. Tuy nhiên, với người nông dân trồng rau an toàn chưa phải là một nghề để họ có thể sống chết vì nó, hầu hết người nông dân đang sản xuất theo thói quen, theo kinh nghiệm mà có lúc do thiếu hiểu biết mà họ hại mình, hại người, hại cả môi trường. Trong khi đó tác động khoa học kỹ thuật vào sản xuất chưa đủ để cân bằng giũa năng suất và chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, vấn đề tiêu thụ sản phẩm đang gặp nhiều khó khăn. Hầu hết sản phẩm của các hộ sản xuât tại xã Hưng Đông đều được bán nhỏ lẻ tại các địa phương, chưa có sự kiểm tra giám sát của các cơ quan có thẩm quyền, sản phẩm chưa có nhãn mác do đó người dân chưa phân biệt được đâu là sản phẩm rau an toàn. Nhằm phát huy những ưu thế của địa phương trong nghề trồng rau, đảm bảo lòng tin đối với người 1 tiêu dùng đáp ứng nhu cầu rất lớn về rau cho người dân thành phố Vinh thì việc phát triển sản xuất rau an toàn ở xã Hưng Đông đang thực sự cần thiết. Xuất phát từ nhưng lý do trên mà tôi đã chọn đề tài: “ Đánh giá tình hình sản xuất rau an toàn tại xã Hưng Đông- Thành phố Vinh- Nghệ An” làm chuyên đề tốt nghiêp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu  Góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về sản xuất RAT;  Đánh giá thực trạng phát triển sản xuất RAT trên địa bàn xã Hưng Đông, thành phố Vinh, Nghệ An năm 2011;  Từ đó tìm ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển sản xuất RAT trên địa bàn xã Hưng Đông hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng và nội dung nghiên cứu: - Đối tượng: chủ thể nghiên cứu trực tiếp là các hộ nông dân, ngoài ra còn thu thập thông tin từ một số người thu gom, bán buôn, bán lẻ, và người tiêu dung tại địa phương. - Nội dung: nghiên cứu tình hình sản xuất RAT trên 3 loại rau chính: rau cải, rau bắp cải, và rau gia vị.  Phạm vi nghiên cứu: - Về không gian: xã Hưng Đông, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An tập trung chủ yếu ở 2 xóm có diện tích trồng RAT quy mô và tiêu biểu của xã, đó là: xóm Trung Thuận và xóm Đông Vinh. - Về thời gian: RAT ở xã Hưng Đông được sản xuất cả 3 vụ là Đông Xuân, Xuân Hè và Hè Thu. Nhưng ở đây vụ Đông Xuân là vụ chính trong năm, vụ này thời tiết có thời tiết cho cây rau phát triển, vì vậy trong vụ Đông Xuân sản lương rau cung cấp ra thị trường là lớn nhất. Do hạn chế về năng lực cũng như thời gian nên mọi chỉ tiêu kinh tế tôi chỉ xem xét ở vụ Đông Xuân. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1 Phương pháp thu thập số liệu - Đối với số liệu thứ cấp: thông qua phòng thống kê xã Hưng Đông, thành phố Vinh, báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của xã, thành phố, niên giám thống kê của xã và các thông tin từ mạng Internet, báo, tạp chí đã được công bố. 2 - Đối với số liệu sơ cấp: Phỏng vấn trực tiếp các đối tượng được lựa chọn thông qua các mẫu điều tra đã được chuẩn bị sẵn. Điều tra về mức độ áp dụng các biện pháp sản cuất sạch trong quá trình trồng rau. 4.2 Phương pháp tổng hợp, xử lý và phân tích số liệu - Tổng hợp số liệu thu thập được. - Các số liệu được xử lý bằng chương trình Excel, sau đó được trình bày một cách hợp lý qua bảng nhằm đáp ứng yêu cầu từng nội dung nghiên cứu. 4.3 Phương pháp phân tích - Trong quá trình nghiên cứu, tiến hành tổ chức điều tra, xây dựng biểu mẫu, hệ thống chỉ tiêu, hệ thống câu hỏi phỏng vấn. - Vận dụng các chỉ tiêu tương đối, tuyệt đối, bình quân và các chỉ tiêu đánh giá mức độ biến động của tiêu thức nhằm biểu hiện quy mô, số lượng của hiện tượng, biểu hiện sự biến động của các chỉ tiêu thời gian. - Trên cơ sở các số liệu đã tổng hợp, đề tài đã tiến hành phân tích chúng để biết rõ hơn bản chất, ý nghĩa của các con số và mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình sản xuất. 4.4 Phương pháp chuyên gia chuyên khảo Trong quá trình nghiên cứu, tôi sẽ tham khảo ý kiến của những người có kinh nghiệm về sản xuât nông nghiệp. Tiến hành chuyên khảo hẹp về kinh nghiệm của các chủ hộ làm nông nghiệp giỏi. 3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Vai trò, vị trí của việc sản xuất rau an toàn 1.1.1 Khái niệm rau an toàn Rau an toàn là khái niệm được sử dụng để chỉ các loại rau được canh tác trên diện tích đất có thành phần hoá- thổ nhưỡng được kiểm soát( nhất là kiểm soát hàm lượng kim loại nặng và các chất độc hại có nguồn gốc từ phân bón, từ các chất bảo vệ thực vật và các chất thải sinh hoạt còn tồn đọng trong đất đai), được sản xuất theo những quy trình kỹ thuật nhất định (đặc biệt là quy trình sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu và tưới nước), và nhờ vậy rau đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm do các cơ quan quản lý nhà nước đặt ra. Gọi là rau an toàn, vì trong quá trình sản xuất rau, người ta vẫn sử dụng phân bón nguồn gốc vô cơ và các chất bảo vệ thực vật, tuy nhiên với liều lượng hạn chế hơn, thời điểm phù hợp hơn và chỉ sử dụng các chất bảo vệ thực vật trong danh mục cho phép. Trong rau an toàn vẫn tồn tại dư lượng các chất độc hại nhất định nhưng không đến mức ảnh hưởng tới sức khoẻ người tiêu dùng. Trong đời sống hàng ngày rau an toàn được gọi là rau an toàn để phân biệt một cách chính xác hơn, khái niệm rau an toàn nên sử dụng để chỉ các loại rau được sản xuất theo quy trình canh tác đặc biệt, như rau thuỷ canh,rau “hữu cơ”…Mức độ đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của rau an toàn cao hơn rau an toàn. Rau an toàn ở Việt Nam được nói tới chủ yếu để phân biệt với rau được canh tác bằng kỹ thuật thông thường, khó kiểm soát trên góc độ vệ sinh an toàn thực phẩm. Ở các nước phát triển, với quy trình công nghệ sản xuất rau chuẩn hoá, với việc sử dụng phân bón và chất bảo vệ thực vật kiểm soát được, vấn đề rau an toàn được kiểm soát. Khái niệm về rau “sạch” bao hàm rau có chất lượng tốt, có dư lượng các hoá chất bảo vệ thực vật, các kim loại nặng (Cu. Pb.Cd, As) Nitrat của con người ở dưới mức các tiêu chuẩn cho phép theo tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc tiêu chuẩn của FAO, 4 WTO. Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất nhằm xác định mức độ nhất định về vệ sinh an toàn thực phẩm cho mặt hàng rau “sạch”. 1.1.2 Sự cần thiết của việc sản xuất rau an toàn Rau đóng một vai trò chủ đạo trong thói quen ăn uống của người Việt Nam, ăn rau hàng ngày được xem là cách chính để cung cấp chất khoáng, các vitamin và để ăn kèm với hầu hết các món ăn khác. Trong nhiều năm qua, đất nước đã tự cung tự cấp đủ về lương thực, mức sống tăng lên, nhu cầu của người dân cũng tăng nhanh về mặt số lượng và nhất là về chất lượng. tại các thành phố lớn của Việt Nam nhu cầu về rau và đòi hỏi về chất lượng rau cũng cao hơn so với các vùng khác trong nước. Vấn đề sản xuất và tiêu thụ rau an toàn ngày càng được xã hội đặc biệt quan tâm, việc ô nhiễm vi sinh vật, hoá chất độc hại, kim loại nặng và thuốc bảo vệ thực vật tồn dư trên rau đặc biệt là rau ăn lá đã gây ảnh hưởng không nhỏ trước mắt cũng như lâu dài tới sức khoẻ cộng đồng. Hầu hết các hộ sản xuất chỉ quan tâm đến năng suất và sản lượng rau mà ít quan tâm đến chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, nên tình trạng sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, và không đảm bảo thời gian cách ly nên đã gây ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ người tiêu dùng. Từ những tồn tại trên rau có lưu chứa nhiều hợp chất hóa học có độc tính cao làm cho chất lượng rau bị giảm gây hậu quả đến sức khỏe con người và môi trường. Vậy nên chúng ta luôn phấn đấu để làm nông nghiệp sạch vì sức khỏe của thế hệ hôm nay, vì một môi trường sống trong lành và vì các thế hệ ngày mai. Việc phấn đấu vươn lên không ngừng để khắc phục và vượt qua các nguyên nhân khách quan, khắc phục được những nguyên nhân làm cho nông sản không sạch là điều không dễ. Hiện nay, nước ta đã tham gia vào thị trường hàng hoaskhu vực ASEAN và WTO, vì vậy vấn đề về bảo đảm tiêu chuẩn quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm thực sự càng có ý nghĩa. So vơi các nước khác thifchaats lượng nông sản nước ta đang còn nhiều bất cập, nếu chúng ta hông ý thức rõ về việc sản xuất nông sản theo hướng sạch và nâng cao chất lượng sản phẩm thì rất khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, ngành dịch vụ nước ta đang phát triển đặc biệt là ngành du lịch. Hàng năm có rất nhiều khách du lịch quốc tế đến thăm Việt Nam, vì vậy cần phải nâng cao chất lượng 5 các bữa ăn cho du khách, tức là các loại sản phẩm sử dụng cũng phải đảm bảo an toàn tuyệt đối nhằm tạo niềm tin cho du khách khi đến du lịch tại Việt Nam. Cuối cùng, vấn đề phát triển rau theo hướng theo hướng an toàn phải được suy nghĩ đúng đắn. Nó phải được xem là sự phát triển đúng hướng, đúng quy luật phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện nay, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp chúng ta nói riêng. Quy trình sản xuất rau an toàn Yêu cầu về đất trồng Đất phải không chịu ảnh hưởng xấu của các chất thải công nghiệp, giao thông, khu dân cư tập trung, bệnh viện, nghĩa trang, có nghĩa là các chất độc hại cho người và cho môi trường. Sau một vụ sản xuất, đất phải được phơi 2-3 ngày sau đó phải được xới tơi để trồng tiếp. Công việc này chủ yếu bằng thủ công. Nông dân chưa được trang bị cơ giới hoá như máy xới đất... nên với một diện tích đất 1.000 m2 thì công việc này rất nặng nhọc. Yêu cầu về phân bón Chỉ dùng phân hữu cơ như phân xanh, phân chuồng đã được ủ hoại mục, tuyệt đối không được dung các loại phân hữu cơ còn tươi. Số lượng phân phải dựa trên tiêu chuẩn cụ thể quy định trong các quy trình của từng loại rau, đặc biệt với rau ăn lá kết thúc phân bón trước khi thu hoạch 15 – 20 ngày. Nước tưới Chỉ dùng nước giếng khoan, nước từ các sông hồ lớn không bị ô nhiễm các chất độc hại. Tuyệt đối không dùng trực tiếp nước thải từ các khu công nghiệp, thành phố, bệnh viện, khu dân cư, nước ao, tù đọng. Phòng trừ sâu bệnh Phải áp dụng phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp, ít độc hại cho người và môi trường: - Giống: Chọn giống tốt, các cây giống phải xử lý sạch sâu bệnh trước khi xuất ra khỏi vườn ươm. - Biện pháp canh tác: Cần tận dụng triệt để các biện pháp canh tác để hạn chế các điều kiện và các nguồn phát sinh các loại dịch trên rau. Chú ý thực hiện các chế độ 6 luân canh Lúa – Rau hoặc xen canh giữa các loại rau khác họ với nhau để giảm bớt các loại sâu tơ và các loại sâu hại khác. Một số loại rau cần phải trang bị nhà lưới chống sự xâm nhập của sâu bệnh - Dùng thuốc: Dùng thuốc khi thực sự cần thiết. Phải có sự điều tra phát hiện sâu bệnh, hướng dẫn dùng thuốc của cán bộ kỹ thuật. Bảo đảm thời gian cách ly trước khi thu hoạch đúng hướng dẫn trên nhãn của từng loại thuốc. Như vậy, trước khi thực hiện canh tác rau an toàn, nhất thiết nông dân phải được trải qua lớp tập huấn kỹ thuật của Sở Nông Nghiệp. Các khoá huấn luyện này phải tập trung hỗ trợ kiến thức kĩ càng về quá trình trồng trọt như nêu trên. 1.1.3 Các nguyên nhân gây ô nhiễm rau  Hàm lượng NO3 quá cao là hậu quả của bón phân hóa học, đặc biệt là bón đạm quá liều lượng hoặc bón đạm không đúng lúc, gần thời gian thu hoạch.Cây hấp thu đạm và các hợp chất qua bộ rễ, tổng hợp thành các chất dinh dưỡng tích luyxtrong các bộ phận của cây nhưng trước khi chuyển hóa thành chất dinh dưỡng, đã tồn tại trong cây dưới dạng Nitrat. Trong cơ thể người lượng Nitrat ở mức độ cao có thể gây phẩn ứng với Amin thành chất gây ung thư gọi là Nitrosamin. Theo tổ chức WHO quy định lượng NO3 trong rau không vượt quá 300mg/1kg rau tươi.  Tồn dư kim loại nặng trong rau Các kim loại nặng tiềm ẩn trong đất trồng hoặc từ nguồn nước thành phố và khu công nghiệp chuyển trực tiếp qua nước tưới được rau hấp thụ. Sự lạm dụng quá mức thuốc BVTV để trừ sâu bệnh, cỏ dại, cùng với phân bón các loại (đạm, lân, kali…) đã làm các hóa chất rửa trôi xuống mương, ao hồ thamm nhập vào các mạch nước ngầm gây ô nhiễm. Bón phân nhiều cũng làm tăng hàm lượng Camidi trong đất và trong sản phẩm rau (một tấn Supe lân chứa 50-70g Cd).  Dư lượng hóa chất BVTV Khi phun thuốc sâu, trừ bệnh và thuốc BVTV sử dụng tạo thành một lớp mỏng trên bề mặt cây trồng và một lớp chất lắng dư lượng ban đầu của thuốc. Sản phẩm rau sẽ gây ngộ độc cho người, gia súc khi: - Thu hoạch gần thời gian phun thuốc, không đảm bảo thời gian cách ly, thuốc chưa phân hủy hết. 7 - Phun các loại thuốc có độ độc cao và phân hủy chậm, các loại thuốc đã bị cấm hoặc hạn chế sử dụng như Monitor, Wfatox.  Vi sinh vật gây bệnh và ký sinh trùng đường ruột Trong phân chuồng, phân bắc chưa hoai có chứa trung gian và một số vi sinh vật gây bệnh như Ecoli, Salmonella. Việc sử dụng nước phân tươi tưới cho rau, đặc biệt là rau gia vị, rau ăn sống là hình thức truyền tải trứng giun và các bệnh gây nguy hiểm đến tính mạng như bệnh ỉa chảy, giun móc. 1.1.4 Hiệu quả của việc sản xuất rau an toàn Hiệu quả kinh tế Sản xuất RAT với mức đầu tư hợp lý các khoản chi phí mà không lạm dụng các loại thuốc hóa học đang có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây.Vì vậy mà theo một số người nghiên cứu thì việc sản xuất RAT sẽ đem lạ hiệu quả kinh tế cao hơn rau thường. Giữa rau thường và RAT năng suất không chênh lệch nhau nhiều nhưng giá bán RAT khi đã được khẳng định thì cao gấp từ 3-4 lần giá bán rau thường, vì thế lợi nhuận thu được cao hơn. Hiện nay, còn nhiều bất cập giữa cung và cầu về RAT nếu có chính sách tôt thì ngành sản xuất RAT là một ngành kinh tế sẽ được kích thích phát triển bởi động lực kinh tế. Hiệu quả xã hội Sản xuất RAT đã góp phần tạo được nông sản an toàn đảm bảo sức khỏe cho người sản xuất và người tiêu dung. Sản xuất RAT cũng sẽ làm thay đổi tập quán sản xuất rau gây ô nhiễm như trước đây của nông dân, nâng cao đầu tư trong việc sản xuất và tiêu dung rau sạch góp phần phân đáu xây dựng phát triển nền nông nghiệp sạch, bền vững theo tinh thần Nghị quyết Trung Ương Đảng. Khi sản xuất RAT được mở rộng thì sẽ tạo được niềm tin đối với người tiêu dung, và hướng tới việc xây dựng thương hiệu cho RAT. Từ đó tạo ra thị trường tiêu thụ RAT ổn định. Hiệu quả môi trường Chúng ta đang phấn đấu cho quá trình phát triển tiến bộ và bền vững. Lợi ích của con người nằm trong sự phát triển tiến bộ và bền vững. RAT là hướng sản xuất 8 đang thực sự cần thiết và hết sức đúng đắn. Và khi sản xuất RAT là chúng ta đã làm nông nghiệp sạch và bền vững vì sức khỏe của thế hệ hôm nay, vì một môi trường sống trong lành và vì các thế hệ ngày mai. Chẳng phải sản phẩm sản xuất ra thực sự có ý nghĩa khi sản phẩm đó được xem là “thân thiện với môi trường” hay sao? Và chỉ khi sản xuất RAT thì người dân mới thấy được hướng lâu dài của sản xuất nông nghiệp là phải gắn năng suất với chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu Để thực hiện nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng một số chỉ tiêu nghiên cứu sau: - Các chỉ tiêu phản ánh quy mô sản xuất RAT: Các chỉ tiêu phản ánh quy mô sản xuất rau là các chỉ tiêu biểu hiện mức độ đầu tư vào sản xuất, ví dụ như đất đai, chi phí…Đối với rau, các chỉ tiêu biểu hiện quy mô sản xuất là: + Diện tích gieo trồng, năng suất, sản lượng. + Tổng số vốn sản xuất, vốn vay bình quân trên hộ + Cơ cấu chủng loại rau - Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất: + Giá trị sản xuất bình quân/sào (GO/sào) và bình quân trên ngày lao động GO/sào = KL*P KL : Năng suất bình quân/sào GO : Giá trị sản xuất/sào P : Đơn giá bình quân/kg rau Giá trị sản xuất bình quân ngày lao động bằng giá trị sản xuất bình quân/sào chia cho số công lao động/sào GO/ngày lao động = GO/sào/số công lao động + Giá trị tăng bình quân sào (VA/sào) và bình quân một ngày lao động VA/sào = GO – IC IC : Chi phí trung gian bình quân/sào VA/ ngày lao động=VA/sào/số công lao động - Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất RAT: 9 + Hiệu suất GO/IC: thể hiện cứ một đồng chi phí trung gian được đầu tư tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Hiệu suất đó cành lớn thì sản suất càng có hiệu quả. + Hiệu suất VA/IC: thể hiện cứ một đồng chi phí trung gian được đầu tư tạo ra bao nhiêu đồng giá trị gia tăng (thu nhập). + Hiệu suất VA/công: chỉ tiêu này cho biết việc đầu tư một công lao động cho ta được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. + Lợi nhuận = GO – Tổng chi phí Trong đó: Tổng chi phí= IC – Chi phí tự có. 1.2 Tình hình sản xuất rau và nhu cầu RAT trên thế giới Trong vòng hai thập kỷ qua thương mại rau quả trên thế giới có bước phát triển mạnh mẽ. Theo Tổ chức Nông nghiệp quốc tế (FAO), giá trị sản lượng của sản xuất rau toàn thế giới tăng trưởng mạnh mẽ, bình quân hàng năm tăng 11,7%. Theo Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ, do tác động của sự thay đổi yếu tố như: cơ cấu dân số, thị hiếu tiêu dùng và thu nhập dân cư…tiêu thụ nhiều loại rau sẽ tăng mạnh trong giai đoạn 2010- 2015, đặc biệt là các loại rau ăn lá. Theo USDA nếu như nhu cầu các loại rau diếp, rau xanh khác tăng khoảng 22-23% thì tiêu thụ khoai tây và các loại rau củ khác tăng sẽ chỉ tăng khoảng 7-8%, giá rau tươi các loại sẽ tiếp tục tăng cùng với tốc độ tăng nhu cầu tiêu thụ. Nhu cầu nhập khẩu dự báo sẽ tăng 1,8%.năm. Các nước phát triển như Đức, Pháp, Canada… vẫn là những nước nhập khẩu rau an toàn. Các nước đang phát triển đặc biệt Trung Quốc, Thái Lan và các nước Nam bán cầu vẫn là các nước cung cấp rau tươi trái vụ chính. Do nhu cầu thị trường thế giới những năm tới sẽ rất lớn vì vậy sẽ tạo động lực cho các nước phát triển sản xuất rau an toàn đồng thời phải tăng cao việc đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. 1.3 Tình hình sản xuất rau và tiêu thụ RAT tại Việt Nam 1.3.1 Khái quát chung Việt Nam có điều kiện về đất đai và khí hậu thích hợp trồng các loại RAT nhiệt đới và ôn đới. Ở miền Bắc khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt là mùa nóng và mùa lạnh. Mùa lạnh thích hợp gieo trồng các loại rau như: bắp cải, su hào, súp lơ…Ở miền Nam có nhiệt độ trung bình khá cao nên cũng thích hợp trồng một số loại rau. Sản xuất RAT 10 ở Việt Nam những năm qua có những bước tiến đáng kể về quy mô, cũng như cơ cấu sản phẩm, nhiều loại RAT đặc sản có chất lượng cao được quy hoạch thành những vùng chuyên canh (diện tích RAT hàng năm tăng 5,6%). Khu vực sản xuất rau an toàn chủ yếu là khu vực Đồng Bằng Sông Hồng chiếm 26,25%, diện tích 30,78% sản lượng rau cả nước, tiếp đến là vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long với 23,28% diện tích và 25,46% sản lượng, ngoài ra có Đà Lạt vùng chuyên canh RAT có chất lượng cao hiệu quả. Sản xuất RAT Sản lượng RAT bình quân đầu người tăng từ 6,825kg.người.năm 2003 lên 9,39kg.người.năm 2005. Nếu so sánh với mức tiêu dùng RAT bình quân đầu người 0,343kg.người.tháng năm 2003- theo điều tra của tổng cục thống kê đây là con số quá ít so với các nước khác trên thế giới. Và đến năm 1999 chính phủ phê duyệt đề án phát triển RAT và sau 4 năm thực hiện, diện tích RAT nước ta đạt 127000 ha, sản lượng đạt 15,83 triệu tấn- bình quân mỗi năm tăng 10,12% về diện tích và trên 2,3 về sản lượng. Trên phạm vị cả nước đã hình thành một số vùng RAT đặc biệt như: bắp cải ở Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Đà Lạt, hành tây ở Nam Định, Hà Nam, ớt ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế... Hầu hết các cơ sở sản xuất đều có hệ thống kho dự trữ sản phẩm với công suất khác nhau tuy nhiên rất ít cơ sở chế biến có hệ thống kho lạnh. Đối với những cơ sở chế biến nhỏ vài trăm sản phẩm hàng năm thì họ thường sử dụng nhà ở kết hợp làm kho.Chỉ những nhà máy chế biến có quy mô vừa và lớn thì có hệ thống nhà kho riêng và một số những 11 kho lạnh có thể bảo quản sản phẩm lâu hơn..Tuy nhiên việc sản xuất RAT ở Việt Nam vẫn chưa phổ biến còn nhiều bất cập như diện tích manh mún, chưa hình thành các vùng tập trung lớn để cung cấp nguyên liệu ổn định cho thị trường, năng suất chưa cao, chất lượng nguyên liệu còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng đặc biệt là cho xuất khẩu. Tiêu thụ RAT RAT Việt Nam chủ yếu sản xuất để tiêu dùng nội địa. Về mặt giá trị, tiêu thụ RAT chiếm khoảng 0,56% tổng chi tiêu bình quân của các hộ gia đình. Mức tiêu thụ RAT theo đầu người cũng có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng.Nếu như mức tiêu thụ RAT chỉ có 7,5kg.năm ở vùng núi phía Bắc thì tại hai thành phố lớn như: Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh mức tiêu thụ lên tới 32,4 kg.người. Mức tiêu thụ bình quân ở các vùng đô thị nói chung cũng ở mức 31-38,58 kg.người.năm, trong khi đó người dân nông thôn chỉ tiêu thụ 3,1-5,6 kg.người.năm. Qua điều tra này cho thấy các hộ gia đình có thu nhập cao hơn thì tiêu dùng số lượng sản phẩm sạch nhiều hơn. Mức tiêu thụ RAT của nhóm hộ giàu nhất gấp thường gấp 5 lần so với hộ gia đình ở nông thôn. Gần đây một số siêu thị lớn tại Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh đã xuất hiện các loại rau qua chế biến được làm sạch đóng hộp và ngâm dấm: nấm, ngô, đậu, dưa chuột…mà người tiêu dùng có thể nhanh chóng sử dụng mà không phải mất nhiều thời gian chuẩn bị. Với xu hướng đô thị hoá nhu cầu tiêu dùng những loại rau sơ chế sạch sẽ tăng nhanh tại các vùng đô thị với những người có thu nhập trung bình hoặc cao. Hệ thống phân phối tiếp thị RAT ở Việt Nam phát triển tương đối mạnh nhưng chủ yếu là về số lượng. Hình thức mua bán hợp đồng trực tiếp giữa nông dân và công ty chế biến- tiêu thụ đã xuất hiện nhưng còn hạn chế và chỉ đối với sản phẩm chế biến phục vụ cho xuất khẩu như: cà chua, rau cao cấp…Hình thức mua bán hợp đồng ở miền Bắc phổ biến hơn ở miền Nam chủ yếu thông qua hợp tác xã hoặc các nông hộ thuộc nông trường của Nhà nước. Hệ thống tiếp thị RAT tại Việt Nam phụ thuộc nhiều vào loại sản phẩm được tiêu thụ, phần lớn RAT được tiêu thụ ở những vùng gần nơi sản xuất (ví dụ vùng sản xuất RAT lớn: ĐBSH, ĐBSCL). Mặc dù điều kiện, phương tiện vận chuyển hiện nay 12 rất thuận lợi nhưng rất ít sử dụng xe lạnh do chi phí cao, vì vậy đã hạn chế phạm vi thị trường mà loại RAT có thể tiếp cận được. RAT được thu hoạch và vận chuyển đến các vùng xung quanh bằng các phương tiện vận tải đơn giản và sau đó được bán tại các chợ bán buôn đầu mối ở các đô thị lớn hoặc ở các chợ nông sản có qui mô nhỏ hơn. Nhìn chung mạng lưới phân phối và tiêu thụ rau thông thường là những người sản xuất trực tiếp mang sản phẩm tới các chợ nội ngoại thành giao dịch trực tiếp với người bán buôn, bán lẻ. Một kênh tiêu thụ phổ biến khác: Người sản xuất-> người thu mua tại địa phương-> người bán buôn-> người bán lẻ-> người tiêu dùng (về cơ bản thích hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta. Tại các tỉnh phía Bắc, RAT được phân phối và tiêu thụ chủ yếu theo cách thức thông qua các chợ bán lẻ, chợ bán buôn hay giao theo hợp đồng. Tại các tỉnh phía Nam cũng đều áp dụng các phương thức trên ngoài ra còn áp dụng thông qua những người bán buôn nhỏ lẻ trung gian. 1.3.2 Tình hình sản xuất rau và tiêu thụ rau ở thành phố Vinh và xã Hưng Đông TP. Vinh là một thành phố năng động, do đang trong quá trình quy hoạch và phát triển mở rộng nên thành phố có nhiều biến động về mặt sản xuất nông nghiệp. Tổng diện tích đất tự nhiên 6692.368 ha, trong đó diện tích đất gieo trồng cây hàng năm của thành phố là 3.528 ha năm 2003, 1.539 ha năm 2004, 3.065 ha năm 2005 và 2.763 ha năm 2006, rõ ràng có sự biến động rất lớn qua các năm. Với phần diện tích đất canh tác rất nhỏ và ngày càng thu hẹp nên sản lượng rau của thành phố không lớn. Tính đến năm 2006 diện tích trồng rau 375 ha, diện tích chỉ chiếm từ 11,31% diện tích sản xuất đất nông nghiệp. Năng suất trung bình 229,76 tạ/ha, đạt khoảng 65-75% so với vùng đồng bằng sông Hồng. Mặt khác, thời vụ trồng sớm và muộn đối với nhiều loại rau có thời vụ dài trong năm cũng chưa được khai thác làm hạn chế đến khả năng cung ứng rau cho thị trường. Năm 2010 và 2015, dự kiến nhu cầu tiêu thụ rau của tỉnh là 280.500 tấn và 306.000 tấn và của TP. Vinh là 22.950 tấn và 25.500 tấn đã cho thấy hiện trạng sản xuất rau trên địa bàn tỉnh và TP. Vinh vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ của người dân, vì vậy, để sản xuất đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trên địa bàn tỉnh, rất cần thiết 13 phải mở rộng diện tích sản xuất, nâng cao hệ số sử dụng đất và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống và kỹ thuật thâm canh để nâng cao năng suất sản phẩm. Những năm gần đây mặc dù đã được sự quan tâm nhiều của Nhà nước, các cấp và các ngành trong công tác khuyến nông (tập huấn, xây dựng mô hình, tham quan, hội thảo, hội nghị…) trong ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về sản xuất RAT cũng như việc đưa tin tuyên truyền tích cực, kịp thời về sản xuất RAT trong cả nước nhưng ở xã Hưng Đông RAT đang thực sự là nỗi bức xúc kể cả trong sản xuất và trong tiêu thụ. Theo trung tâm khuyến nông khuyến lâm tỉnh Nghệ An sẽ nhân rộng mô hình sản xuất RAT tại Đông Vinh-Hưng Đông và tiến tới xây dựng thương hiệu RAT Đông Vinh nhằm tạo công ăn việc làm ổn định và từng bước nâng cao đời sống nông dân trong vùng. Tuy nhiên, qua quá trình điều tra thực tế cho thấy thực trạng sản xuất rau còn gạp nhiều khó khăn do điều kiện thời tiết của vùng Vinh nên các vụ rau Thu Đông thường kéo dài, thông thường đến tháng 12 dương lịch mới có sản phẩm. Cơ sở vật chất của sản xuất rau nghèo, vùng rau chuyên canh sử dụng nước thải cạnh khu tập kết rác của thành phố hay nước sinh hoạt ở khu dân cư nên sản phẩm rau, nhất là rau ăn sống và rau nước không đảm bảo an toàn vệ sinh. Năm 2010, UBND xã Hưng Đông thực hiện chuyển đổi thành công chương trình mở rộng sản xuất 3,8 ha rau tại HTX Hưng Đông 2 theo hướng Viet GAP, quá trình lấy mẫu đất- nước tưới để phân tích hàm lượng kim loại nặng tồn dư trong đất, kết quả phân tích đảm bảo dưới ngưỡng cho phép. Hiện tại sản phẩm đã cho thu hoạch, được quảng bá qua các cuộc hội thảo, trên các kênh thông tin đại chúng và đã có các đơn vị đến đặt hàng, mua hàng. Hiện nay, trên địa bàn xã Hưng Đông chưa có chợ chính thức, vì vậy nên bà con nông dân thường phải vận chuyển rau tới các chợ đầu mối khác trong thành phố để tiêu thụ. Việc này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng rau cũng như chi phí nhân công vận chuyển. Địa bàn thành phố Vinh có rất nhiều chợ lớn nhỏ khác nhau, mỗi phường xã hầu như đều có một chợ, chợ lớn nhất là chợ Vinh. Theo điều tra nghiên cứu của thạc sỹ Đoàn Tiến Dũng thì số lượng và cơ cấu các loại rau tiêu thụ ở chợ Vinh và các chợ khác ở thành phố như sau: 14 Bảng 1.1 Số lượng các loại rau tiêu thụ tại chợ Vinh và các chợ khác năm 2010 (Tính bình quân 1 ngày) Chợ Vinh Loại rau Chợ khác Số lượng Số lượng (kg) Cơ cấu (%) Tổng lượng bán 11.618,0 100,0 10.019,0 100,0 1. Rau ăn lá 4.716,9 40,6 4.238,0 42,3 2. Rau ăn quả 1.998,3 17,2 1.062,0 10,6 3. Rau ăn củ 662,2 5,7 1.162,2 11,6 4. Rau gia vị 1.185,0 10,2 511,0 5,1 639,1 5,5 490,9 4,9 2.416,5 20,8 2.554,9 25,5 5. Giá đỗ 6. Rau khác (kg) Cơ cấu (%) ( Nguồn: Th.s Đoàn Tiến Dũng) RAT cung cấp cho thị trường thành phố Vinh chủ yếu từ Hưng Đông, Đông Vĩnh và Vinh Tân chiếm khoảng 40%, chủ yếu là các loại rau an lá. Còn rau ăn củ được cung cấp từ các huyện như Hưng Nguyên, Nam Đàn. Hiện nay xã Quỳnh Lương- Quỳnh Lưu đang là nguồn cung cấp RAT ổn định cho thành phố Vinh cũng như của cả tỉnh. Việc tiêu thụ RAT ở Hưng Đông hiện nay cũng như thành phố Vinh và nhiều tỉnh thành khác đang có nhiều vấn đề bất cập, gây thiệt thòi cho người sản xuất. Các hộ sản xuất RAT cho biết chỉ có một số lượng rất nhỏ là cung cấp cho khách sạn, nhà hang và siêu thị, còn phần lớn là cung cấp cho các chợ đầu mối thông qua bán sỉ lẻ tại các chợ trung tâm. Đây là một thiệt thòi rất lớn cho các hộ sản xuất RAT vì chi phí cho sản xuất RAT thường gấp 1,5-2 lần đối với rau thường. Còn nếu sản xuât trong nhà lưới thì chi phí tăng từ gấp 2-3 lần. Mẫu mã rau lại không hấp dẫn bằng rau thường vì vậy giá bán giữa RAT và rau thường đôi khi lại ngang bằng. Đây đang là vấn đề nan giải của nghề trồng RAT hiện nay mà không chỉ của nông dân Hưng Đông. 15 CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH SẢN XUẤT RAU AN TOÀN Ở XÃ HƯNG ĐÔNG 2.1 Đặc Điểm Tự Nhiên, Kinh Tế Xã Hội 2.1.1 Đặc điểm tự nhiên 2.1.1.1 Vị trí địa lý và địa hình Thành phố Vinh nằm ở 18o vĩ Bắc và 105o kinh Đông, là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Nghệ An với tổng diện tích đất tự nhiên 6692.368 ha. Thành phố Vinh là trung tâm kinh tế lớn của tỉnh, địa bàn thành phố có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam chạy qua. Xã Hưng Đông nằm ở phía Bắc của thành phố, có diện tích tự nhiên 641,3 ha. Trong đó diện tích đất sản xuất đất nông nghiệp là 228,1 ha chiếm 35,5% diện tích tự nhiên toàn xã. Phía Bắc giáp xã Nghi Kim, thành phố Vinh Phía Tây giáp xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên Phía Nam giáp Phường Đông Vĩnh, thành phố Vinh Phía Đông giáp phường Quán Bàu, thành phố Vinh Cùng với phường Đông Vĩnh, xã Hưng Đông là một trong hai địa phương tập trung sản xuất rau lớn nhất của thành phố. Với điều kiện đất đai rộng lớn, màu mỡ thì xã Hưng Đông thực sự có lợi thế để phát triển sản xuất rau nói chung cũng như dễ dàng chuyển giao và ứng dụng kỹ thuật về sản xuất RAT. Xã Hưng Đông thuộc vùng trầm tích hạ lưu sông Cả, cấu tạo địa tầng gồm nhiều lớp cát có màu vàng, nâu và xám đen. 2.1.1.2 Đặc điểm thời tiết khí hậu Xã Hưng Đông mang tính chất chung của khí hậu miền Trung, khu vực nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của nhiều hệ thống thời tiết. Mùa đông ảnh hưởng của hệ thống thời tiết phía Bắc gây ra những đợt không khí lạnh. Mùa hè ảnh hưởng của hệ thống cao áp á nhiệt đới, áp thấp khô nóng. Đặc điểm khí hậu này gây không ít khó khăn cho sản xuất nông nghiệp trong đó có sản xuất rau nhưng cũng làm cho tập đoàn cây trồng có phần đa dạng. 16 Nhiệt độ Từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau có nhiệt độ thấp hơn, nhiệt độ trung bình của tháng thấp nhất là 16.3̊ C (tháng 12). Thời gian này đã hình thành nên vụ Đông Xuân với những cây trồng có nguồn gốc á nhiệt đới như: bắp cải, xà lách, đậu cove, xu hào, rau gia vị… Nhìn chung, nhiệt độ trung bình cả năm là 24 ̊ C, nhiệt độ cao tuyệt đối 42,1 ̊ C. Độ ẩm trung bình từ 85- 90%. So với các tỉnh phia Bắc thì Nghệ An có tổng số giờ nắng tương đối cao, số giờ nắng bình quân là 1.696 giờ, năng lượng bức xạ dồi dào. Tháng 3 dến tháng 10 là những tháng có số giờ nắng trung bình trên 100 giờ. Điển hình là tháng 6, 7 (220-240 giờ nắng) gây ra hạn hán, nắng nóng gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Lượng mưa Lượng mưa bình quân cả năm là 1939,1 mm. Thường mùa mưa bắt đầu từ tháng 5- tháng 10. Lượng mưa trong mùa mưa chiếm 80- 75% tổng lượng mưa cả năm. Đặc biệt tháng 10- tháng 11 mưa lớn gây ra lụt úng. Lượng mưa phân bổ không đều gây ra khô hạn và úng lụt bất lợi cho sản xuất nông nghiệp. Số ngày mưa trong năm phổ biến từ 126- 153 ngày. Tháng có ngày mưa nhiều nhất là 15- 16 ngày. Ẩm độ Độ ẩm trung bình trong năm từ 82- 85%. Độ ẩm trung bình tháng cao nhất là 90%, thấp nhất là vào thang 6, 7, 8 xấp xỉ 70%. Độ ẩm cao thích hợp cho nhiều loại rau sinh trưởng nhưng cũng là môi trường thuận lợi cho sâu bệnh phát triển như: sâu ăn lá, rệp, rầy, bệnh thối rễ. Mặt khác độ ẩm cao còn gây khó khăn cho vịệc bảo quản, cất giữ các loại hạt giống. Vào những tháng độ ảm thấp lại cần chú ý công tác tưới nước, che cây đặc biệt là những cây con để đảm bảo cho rau phát triển. Chế độ gió Thành phố Vinh cũng như xã Hưng Đông có 2 chế độ gió mùa rõ rệt: gió mùa hoạt động chủ yếu từ thang 11 đến tháng 4 năm sau, gió mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10. Hướng gió thịnh trong mùa đông lafgios mùa Đông Bắc, trong mùa hè là gió Đông Nam từ biển thổi vào và gió Tây Nam khô nóng. Gió Đông Bắc lạnh ẩm kèm theo mưa kéo dài gây bất lợi cho sản xuất nông nghiệp. Điều kiện khí hậu của xã Hưng Đông thuận lợi cho việc sinh trưởng phát triển của các loại cây rau, quả chịu nhiệt (nhất là các loại có nguồn gốc nhiệt đới). Nhưng 17 khó khăn cho việc trồng rau, quả là nắng nóng, khô hạn vào các tháng 6, 7 và mưa bão kéo dài vào các tháng 9 đến tháng 12. Nguồn nước, thủy văn Xã Hưng Đông nằm trong khu vưc Thành phố Vinh, nơi có hệ thống song ngòi kênh mương tương đối dày đặc. Ngoài sông lớn như song Lam còn có các nhánh sông Cửa Tiền, kênh Đào nhà Lê, sông Vinh và nhiều kênh mương chạy qua các phường xã và vùng phụ cận. Chạy trực tiếp qua địa bàn xã là sông Chợ Già, một nhánh thuộc sông Đào nhà Lê . Bên cạnh đó, phần lớn các kênh mương gắn với các trạm bơm trong xã đều đã được bê tông hóa phục vụ cho công tác tưới tiêu. Tuy vậy, do được đưa vào sử dụng trong khảng thời gian dài nên nhiều kênh mương đã có dấu hiệu xuống cấp, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất của bà con nông dân. Để tự khắc phục, nhiều hộ nông dân đã tư đầu tư chi phí khoan giếng để chủ động hơn trong công tác tưới tiêu, nhất là những hộ sản xuất rau, bởi đây là loại cây trồng đòi hỏi lượng nước cung cấp vượt trội so với những loại cây khác. 2.1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội 2.1.2.1Tình hình dân số và lao động của xã Hưng Đông Mọi quá trình phát triển của sản xuất xã hội đều dược bắt nguồn từ người lao động. Đối với phát triển kinh tế thì lao động là yếu tố đầu vào không thể thiếu được. Lao động cùng với các nguồn lực như đất đai, trang thiết bị… được kết hợp để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Theo số liệu thống kê của xã, tình hình dân số và lao động của xã Hưng Đông có sự biến động rõ rệt, cụ thể là tăng qua các năm. Tính đến năm 2010, trong xã đã tăng lên 121 hộ so với năm 2009, tức tăng 5,82% so với năm 2009. Nguyên nhân chính của việc tăng hộ là do kết quả của việc tách hộ của các cặp vợ chồng mới bởi lẽ cấu trúc của các hộ gia đình ở xã chủ yếu là gia đình 2 hoặc 3 thế hệ cha mẹ và con cái. Trong đó, hộ nông nghiệp và hộ phi nông nghiệp đều có xu hướng tăng lên qua các năm. Cụ thể là so với năm 2009 hộ nông nghiệp tăng 56 hộ, tức tăng 5,85%, hộ phi nông nghiệp tăng 65 hộ, tức tăng 5,76% . Tuy nhiên, tốc độ tăng của các hộ nông nghiệp lại giảm dần qua các năm, cụ thể là năm 2009 so với năm 2008 tăng 64 hộ, nhưng đến năm 2010 chỉ tăng 56 hộ. Trong khi đó, tốc độ tăng của các hộ phi nông nghiệp lại tăng dần qua các năm. Cụ thể là năm 2008 so với năm 2009 tăng 65 hộ, nhưng từ năm 2009 đến năm 2010 lại tăng 70 hộ. 18 Điều này cũng phù hợp với xu hướng phát triển của xã, đó là đẩy nhanh số hộ phi nông nghiệp, giảm nhẹ số hộ nông nghiệp. Nhất là trong thời gian gần đây, khi mà các nhà máy thuộc khu công nghiệp Bắc Vinh đua nhau mọc lên thì kéo theo đó là sự sụt giảm diện tích đất nông nghiệp và lực lượng lao động trong ngành này. Theo báo cáo tổng kết của xã thì hiện nay, lao động nông nghiệp chiếm 36% lao động toàn xã, lao động công nghiệp chiếm 28%, và lao động trong các nghành nghề dịch vụ chiếm 36%. Đây là xu hướng phát triển tất yếu của nông thôn hiện nay Bảng 2.1 Tình hình dân số và lao động xã Hưng Đông giai đoạn 2008- 2010 So sánh(%) Chỉ tiêu ĐVT 2008 2009 2010 I. Tổng số hộ Hộ 1.950 2.084 1.Hộ Nông nghiệp Hộ 892 2.Hộ phi NN Hộ II. Tổng số nhân khẩu 09/08 10/09 2.205 106,85 105,82 956 1.012 107,16 105,85 1.058 1.128 1.193 106,61 105,76 Khẩu 9.924 10.015 10.150 100,91 101,35 1.Khẩu NN Khẩu 3.947 4.001 4.060 101,35 101,48 2.Khẩu phi NN Khẩu 5.977 6.014 6.090 100,61 101,26 III. Tổng số LĐ LĐ 5.205 5.236 5.314 100,58 101,49 1.LĐ NN LĐ 1.881 1.888 1.913 100,33 101,34 2. LĐ phi NN LĐ 3.324 3.348 3.401 102,97 102,88 IV. Chỉ tiêu khác 1.BQ khẩu/hộ Khẩu/Hộ 5,09 4,81 4,60 94,50 95,63 2.BQLĐ/ hộ LĐ/Hộ 2,67 2,51 2,40 94,01 95,62 3.BQLĐNN/ hộ LĐNN/Hộ 0,96 0,91 0,87 94,80 95,60 (Nguồn: Báo cáo thống kê tình hình dân số xã Hưng Đông năm 2010) 2.1.2.2Cơ cấu các loại đất phục vụ sản xuất nông nghiệp của xã Hưng Đông Trong tương lai không xa quỹ đất được thành phố mở rông cho trồng rau dự kiến là 550 ha trong đó sẽ xây dựng 150 ha rau chuyên canh và hoa cây cảnh là 50 ha. Xã Hưng Đông đang trong giai đoạn xây dựng mô hình nông thôn mới tiếp tục chuyển đổi các mô hình, ban hành các cơ chế hỗ trợ mở rộng mô hình hoa cây cảnh, mô hình trông rau theo tiêu chuẩn Viêt Gap. Theo đó, tiếp tục phát triển vùng 3,8 ha Rau theo 19 hướng Viet GAP ở Trung Thuận và đẩy mạnh quảng bá thương hiệu. Đồng thời phát triển chương thình rau sạch tại các hộ dân xóm Mỹ Hòa, Mỹ Long. Định hướng xây dựng vùng qui hoạch 80 ha rau hoa cây cảnh TP Vinh. Trên nhưng diện tích này với chiến lược phát triển đúng đắn và áp dụng tốt các tiến bộ KHKT vào nghề trồng rau sẽ tạo ra khối lượng sản phẩm có giá trị kinh tế cao đem lại nguồn lợi đáng kể cho xã hội nói chung và người nông dân nói riêng. Việc khai thác sử dụng đất đòi hỏi phải gắn liền với các biện pháp kỹ thuật như tưới nước, bón phân, cải tạo đất, bố trí hệ thống cây trồng hợp lý… để nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Bảng 2.2 Tình hình sử dụng đất của xã Hưng Đông năm 2010 Chỉ tiêu Tổng diện tích đất tự nhiên Diện tích (ha) 793,34 Tỷ lệ (%) 100,00 I.Đất sản xuất nông nghiệp 1.Đất trồng cây hàng năm 2.Đất trồng lúa 3.Đất 1 lúa- 1 màu 4.Đất trồng rau, màu 5.Đất trông cây lâu năm 6.Đất nuôi trồng thủy sản 602,9 249,59 160,75 40,13 48,71 82,62 21,10 76,00 31,46 20,26 5,06 6,14 10,41 2,66 II.Đất phi nông nghiệp 1.Đất ở 2.Đất phục vụ mục đích công cộng - Đất truyền tải năng lượng - Đất giao thông - Đất thủy lợi - Đất cơ sở giáo dục - Đất trụ sở UBND - Đất cơ sở y tế - Đất cơ sở TDTT - Đất di tích lịch sử văn hóa 3.Đất tôn giáo 4.Đất nghĩa trang 5.Đất bãi rác III.Đất chưa sử dụng 190,44 56,50 109,03 0,08 80,93 18,75 5,34 0,54 0,24 2,09 1,06 0,59 16,45 4,17 3,70 24,00 7,12 13,74 0,07 74,23 17,20 4,90 0,50 0,22 1,92 0,97 0,07 2,07 0,53 0,47 ( Số liệu phòng thống kê xã Hưng Đông năm 2009) 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan