Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đánh giá tổng kết dự án giảm nghèo tỉnh sơn la giai đoạn 2002 – 2007.một số bài ...

Tài liệu đánh giá tổng kết dự án giảm nghèo tỉnh sơn la giai đoạn 2002 – 2007.một số bài học kinh nghiệm rút ra từ dự án

.PDF
74
164
52

Mô tả:

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Nghèo đói là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu đối với mọi quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển cũng như các nước đang phát triển và kém phát triển, ở Việt Nam, đói nghèo là vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế - xã hội nước ta nói chung và khu vực nông thôn nói riêng đã có những biến đổi sâu sắc. Nhịp độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế cao và tương đối ổn định từ 7% - 10% tỷ lệ lạm phát giảm, sản lượng lương thực liên tục tăng trong nhiều năm qua, cuộc sống nhân dân ngày càng được cải thiện, bộ mặt nông thôn đã có những thay đổi, tiến bộ . Từ thực tế sản xuất cùng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, các hộ nông dân biết sử dụng có hiệu quả về lao động, đất đai, tiền vốn cho nên ngày càng có nhiều những hội kinh doanh giỏi . Mặt khác, số hộ nông dân không biết bắt nhịp thời cơ, tiếp cận những tri thức sản xuất hay không đủ điều kiện đã trở thành hộ nghèo đói . Ranh giới giàu nghèo ngày càng trở nên rõ nét hơn , khi nền kinh tế thị trường ngày càng mở cửa , điều đó đã dẫn tới sự phân hoá sâu sắc về đời sống và thu nhập của nhóm người giàu và người nghèo trong xã hội, giữa thành thị và nông thôn . Thực trạng này nếu không được giải quyết sẽ nảy sinh ra những mâu thuẫn trong xã hội, là nguy cơ làm mất ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội . Mặc dù được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm , ưu đãi trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. Nhưng Sơn La vẫn còn có hộ nghèo, nằm trong danh mục các tỉnh có thu nhập bình quân đầu người thấp của cả nước. SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đây là một mối quan tâm lớn của cấp uỷ, các ban, ngành đoàn thể từ Tỉnh đến cơ sở . Vì vậy việc xoá đói giảm nghèo trong nông thôn ở đây được đặt ra như một yêu cầu cấp bách cần giải quyết với nhiều phương pháp tiếp cận cả trên bình diện vĩ mô và vi mô . Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên nên trong quá trình thực tập tại phòng Tài Chính&Kế hoạch huyện Mai Sơn tỉnh Sơn La tôi đã chọn đề tài nghiên cứu của mình : “ Đánh giá tổng kết dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La giai đoạn 2002 – 2007. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ dự án” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Nhằm đánh giá đúng đắn kết quả, thành tựu, những mặt còn hạn chế của dự án từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc triển khai những dự án giảm nghèo trong các giai đoạn tiếp theo tại tỉnh Sơn La 2 . Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Hệ thống hoá cơ sở lý luận và phương pháp luận nhằm xem xét, đánh giá các vấn đề nghèo đói ở nông thôn hiện nay . Phản ánh thực trạng đói nghèo và tìm ra nguyên nhân dẫn đến đói nghèo Đánh giá kết quả thực hiện dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La nói riêng và các tỉnh miền núi phía Bắc núi chung. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất để dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La trong các giai đoạn tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế xã hội Tỉnh Sơn La, đặc biệt là các huyện thuộc dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc. SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đồng thời nghiên cứu, đánh giá tổng kết toàn bộ dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La 3.2. Phạm vi nghiên cứu Chủ yếu tập trung nghiên cứu ở một số Huyện điển hình đại diện cho các Huyện thuộc dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La trong đó có Huyện Mai Sơn nơi tôi thực tập. Về không gian: nghiên cứu trong phạm vi địa bàn tỉnh Sơn La. Về thời gian: nghiên cứu toàn bộ dự án từ 2002 - 2007 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu kết hợp với các phương pháp phân tích tổng hợp số liệu, thống kê, so sánh xử lý, bảng biểu. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày trong 3 chương: Chương I: Sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo Chương II: Đánh giá dự án giảm nghèo tỉnh Sơn La giai đoạn 2002-2007. Chương III: Bài học kinh nghiệm rút ra từ dự án. Một số đề xuất, kiến nghị. Để hoàn thành đề tài, ngoài sự nỗ lực nghiên cứu của bản thân, tôi cũng đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ nhiều phía. Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Tài chính-Kế hoạch Huyện Mai Sơn, bạn bè. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TH.S Phạm Xuân Hoà đã hướng dẫn và động viên tôi rất nhiều trong thời gian qua. Do thời gian và trình độ còn hạn chế, đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thấy cô giáo. SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp CHƯƠNG I SỰ CẦN THIẾT PHẢI XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO I. CÁC QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ CÁC THƯỚC ĐO NGHÈO ĐÓI. 1. Quan điểm về nghèo đói. 1.1. Các quan điểm về nghèo đói. Theo quan điểm tiếp cận của WB, thì phạm vi của sự nghèo khổ ngày càng mở rộng. Nghèo khổ thường gắn với sự thiếu thốn trong tiêu dùng. Nhưng từ giữa năm 1970 và những năm 1980, nghèo khổ được tiếp cận theo nhu cầu cơ bản bao gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội và nguồn lực. Từ giữa những năm 1980 đến nay tiếp cận theo năng lực và cơ hội, gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương. Từ cách tiếp cận trên, khi đánh giá tình trạng nghèo khổ khổng chỉ dựa theo tiêu chí thu nhập mà còn gồm cả những tiêu chí không gắn với thu nhập. Tuy nhiên ở những nước đang phát triển, việc phân tích và đánh giá nghèo khổ chủ yếu dựa trên tiêu chí thu nhập (hay chi tiêu). Phương pháp này cho phép so sánh tình trạng nghèo khổ giữa các nước, các vùng khác nhau theo thời gian nhằm cung cấp thông tin cho các chính sách công và đánh giá mức độ thành công của các chính sách đó. Nhưng làm thế nào để biểu thị “ nghèo khổ” bằng một con số có ý nghĩa? Các nhà kinh tế đã dựa trên khái niệm “nghèo khổ tuyệt đối”. Khái niệm này nhằm biểu thị một mức thu nhập (chi tiêu) tối thiểu cần thiết để đảm bảo những “nhu cầu vật chất cơ bản” như lương thực, quần áo, nhà ở để cho mỗi người có thể “tiếp tục tồn tại”. Tuy nhiên khi xem xét mức nghèo khổ theo khái niệm trên nảy sinh một số vấn đề sau: SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Thứ nhất: Việc xác định mức này là một vấn đề chủ quan gây khó khăn cho việc so sánh giữa các nước. Thứ hai: Mức thu nhập tối thiểu cần thiết sẽ thay đổi theo tiêu chuẩn của mức sống theo thời gian và theo quốc gia (hay khu vực). Chẳng hạn, một người dân ở nước phát triển hiện nay được phân loại là nghèo thì thực ra họ lại còn có mức sống tốt hơn những người dân ở nước họ vào những năm 60 hoặc một số người dân ở các nước kém phát triển ngày nay mà họ không được coi là nghèo. Do vậy một phương pháp đã được các nhà kinh tế sử dụng là xác định “giới hạn (ranh giới) nghèo khổ” hay còn gọi là “đường nghèo khổ” Có hai cách tiếp cận “giới hạn nghèo khổ” là tiếp cận theo thu nhập và tiếp cận theo chi tiêu. Tuy nhiên phương pháp được sử dụng nhiều hơn là tiếp cận theo chi tiêu. Vì chi tiêu của hộ gia đình là chỉ số liên quan chặt chẽ đến phúc lợi hơn là thu nhập. Và số liệu về thu nhập thường là không chính xác đặc biệt ở các nước đang phát triển. Có những phương pháp đánh giá “giới hạn nghèo khổ sau” - Phương pháp của Ngân hàng Thế Giới: Phương pháp mà WB đã sử dụng ở nhiều nước đang phát triển là dựa vào ngưỡng chi tiêu tính bằng USD mỗi ngày. Ngưỡng nghèo thường dùng hiện nay là 1 USD và 2 USD/ngày (theo sức mua tương đương). Đây là ngưỡng chi tiêu có thể đảm bảo cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết cho con người, mức chuẩn đó là 2100 calo/người/ngày. Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm (nghèo đói ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức chuẩn về cung cấp năng lượng mà không đủ chi tiêu cho những hàng hoá phi lương thực. Những người có mức chi tiêu cho những hàng hoá phi lương thực. Những người có SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được 2100 calo/ngày gọi là “nghèo về lương thực, thực phẩm”. - Phương pháp của Việt Nam: Ở Việt Nam hiện nay, có phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo đói như sau: + Phương pháp dựa cả vào thu nhập và chi tiêu theo đầu người (phương pháp của Tổng cục thống kê). Phương pháp này đã xác định 2 ngưỡng nghèo: * Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua đựoc một số lương thực hàng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng. Như vậy, phương pháp này tiếp cận tương tự cách tiếp cận của WB. * Ngưỡng nghèo thứ hai, thường được gọi là “ngưỡng nghèo chung” ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hoá phi lương thực. Ngưỡng nghèo Việt Nam được tính toán từ cuộc điều tra mức sống dân cư 1993 và 1998 như sau: Bảng 1: Ngưỡng nghèo ở Việt Nam Chi tiêu bình quân đầu người/năm Ngưỡng nghèo về 1993 1998 (Tính vào thời điểm (Tính vào thời điểm 1/1993) 1/1998 750 nghìn đồng 1.287 nghìn đồng 1.116 nghìn đồng 1788 nghìn đồng lương thực, thực phẩm Ngưỡng nghèo chung SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp + Phương pháp dựa trên thu nghập của hộ gia đình (phương pháp của Bộ Lao động-Thương binh xã hội). Phương pháp này hiện đang được sử dụng để xác định chuẩn nghèo đói của chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia (Chuẩn nghèo quốc gia). Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kỳ 2001-2005 được xác định dựa trên thu nhập theo 3 vùng. Cụ thể là: * Vùng Hải đảo và vùng núi nông thôn: Bình quân thu nhập là 80 nghìn đồng/người/tháng. * Vùng đồng bằng nông thôn: 100 nghìn đồng/người /tháng. * Và khu vực thành thị là 1500 nghìn đồng/người /tháng. Người được coi là nghèo khổ cả về thu nhập là những người mà thu nhập của họ nằm ở bên dưới các “giới hạn” đã được quy định nói trên: Việc nhận diện ai là “người nghèo” luôn là một vấn đề khó khăn. Cách thông thường và đã được các nước đang phát triển và WB sử dụng là dựa vào kết quả các cuộc điều tra về thu nhập (chi tiêu) của hộ gia đình (phương pháp thống kê). Những người đang sống trong “nghèo khổ tuyệt đối” là những người mà 4/5 chi tiêu của họ dành cho nhu cầu về ăn mà chủ yếu là lương thực và một chút ít thực phẩm (thịt hoặc cá); tất cả đều thiếu dinh dưỡng; chỉ khoảng 1/3 số người lớn biết chữ; và tuổi thọ trung bình của người lao động khoảng 40 năm. Một cách tiếp cận khác cũng thường được sủ dụng để xem xét nghèo đói là chia dân cư thành các nhóm khác nhau (theo 5 nhóm). Nhóm 1/5 nghèo nhất là 20% dân số, những người sống trong các hộ gia đình có mức thu nhập (chi tiêu) thấp nhấp. Bên cạnh sự “nghèo khổ tuyệt đối”, ở nhiều nước còn xét đến sự “nghèo khổ tương đối”. “Nghèo khổ tương đối” được xét trong tương quan SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp xã hội, phụ thuộc địa điểm dân cư sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ biến nơi đó. Sự nghèo khổ tương đối được hiểu là những người sống dưới mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định. Đây là những người cảm thấy bị tước đoạt một cái mà đại bộ phận những người khác trong xã hội được hưởng. Do đó chuẩn mực để xem xét nghèo khổ tương đối thường khác nhau giữa các nước hoặc giữa các vùng. Nghèo khổ tương đối là một hình thức biểu hiện sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. 1.2. Khái niệm về nghèo đói Xuất phát từ những quan niệm về nghèo đói ở trên, có những khái niệm về nghèo đói như sau: Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu nhập bị hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để bảo đảm tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định. Như vậy nghèo khổ được định nghĩa trên nhiều khía cạnh khác nhau. Việc đo lường được từng khía cạnh đó một cách nhất quán là điều rất khó, còn gộp cả những khía cạnh đó vào một số chỉ số nghèo khổ hay thước đo nghèo khổ duy nhất là không thể. Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Bangkok – Thái Lan (9/1993) đã đưa ra định nghĩa chung như sau: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. Định nghĩa này hiện nay đang được nhiều quốc gia sử dụng trong đó có Việt Nam. 1.2. Các quan điểm về nghèo đói. SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Theo quan điểm tiếp cận của WB, thì phạm vi của sự nghèo khổ ngày càng mở rộng. Nghèo khổ thường gắn với sự thiếu thốn trong tiêu dùng. Nhưng từ giữa năm 1970 và những năm 1980, nghèo khổ được tiếp cận theo nhu cầu cơ bản bao gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội và nguồn lực. Từ giữa những năm 1980 đến nay tiếp cận theo năng lực và cơ hội, gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội, nguồn lực và tính dễ bị tổn thương. Từ cách tiếp cận trên, khi đánh giá tình trạng nghèo khổ không chỉ dựa theo tiêu chí thu nhập mà còn gồm cả những tiêu chí không gắn với thu nhập. Tuy nhiên ở những nước đang phát triển, việc phân tích và đánh giá nghèo khổ chủ yếu dựa trên tiêu chí thu nhập (hay chi tiêu). Phương pháp này cho phép so sánh tình trạng nghèo khổ giữa các nước, các vùng khác nhau theo thời gian nhằm cung cấp thông tin cho các chính sách công và đánh giá mức độ thành công của các chính sách đó. Nhưng làm thế nào để biểu thị “ nghèo khổ” bằng một con số có ý nghĩa? Các nhà kinh tế đã dựa trên khái niệm “nghèo khổ tuyệt đối”. Khái niệm này nhằm biểu thị một mức thu nhập (chi tiêu) tối thiểu cần thiết để đảm bảo những “nhu cầu vật chất cơ bản” như lương thực, quần áo, nhà ở để cho mỗi người có thể “tiếp tục tồn tại”. Tuy nhiên khi xem xét mức nghèo khổ theo khái niệm trên nảy sinh một số vấn đề sau: Thứ nhất: Việc xác định mức này là một vấn đề chủ quan gây khó khăn cho việc so sánh giữa các nước. Thứ hai: Mức thu nhập tối thiểu cần thiết sẽ thay đổi theo tiêu chuẩn của mức sống theo thời gian và theo quốc gia (hay khu vực). Chẳng hạn, một người dân ở nước phát triển hiện nay được phân loại là nghèo thì thực ra họ lại còn có mức sống tốt hơn những người dân ở nước họ vào những năm SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 60 hoặc một số người dân ở các nước kém phát triển ngày nay mà họ không được coi là nghèo. Do vậy một phương pháp đã được các nhà kinh tế xử dụng là xác định “giới hạn (ranh giới) nghèo khổ” hay còn gọi là “đường nghèo khổ” Có hai cách tiếp cận “giới hạn nghèo khổ” là tiếp cận theo thu nhập và tiếp cận theo chi tiêu. Tuy nhiên phương pháp được sử dụng nhiều hơn là tiếp cận theo chi tiêu. Vì chi tiêu của hộ gia đình là chỉ số liên quan chặt chẽ đến phúc lợi hơn là thu nhập. Và số liệu về thu nhập thường là không chính xác đặc biệt ở các nước đang phát triển. Có những phương pháp đánh giá “giới hạn nghèo khổ sau” - Phương pháp của Ngân hàng Thế Giới: Phương pháp mà WB đã sử dụng ở nhiều nước đang phát triển là dựa vào ngưỡng chi tiêu tính bằng USD mỗi ngày. Ngưỡng nghèo thường dùng hiện nay là 1 USD và 2 USD/ngày (theo sức mua tương đương). Đây là ngưỡng chi tiêu có thể đảm bảo cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết cho con người, mức chuẩn đó là 2100 calo/người/ngày. Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm (nghèo đói ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức chuẩn về cung cấp năng lượng mà không đủ chi tiêu cho những hàng hoá phi lương thực. Những người có mức chi tiêu cho những hàng hoá phi lương thực. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được 2100 calo/ngày gọi là “nghèo về lương thực, thực phẩm”. - Phương pháp của Việt Nam: Ở Việt Nam hiện nay, có phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo đói như sau: SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp + Phương pháp dựa cả vào thu nhập và chi tiêu theo đầu người (phương pháp của tổng cục thống kê). Phương pháp này đã xác định 2 ngưỡng nghèo: * Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua đựoc một số lương thực hàng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng. Như vậy, phương pháp này tiếp cận tương tự cách tiếp cận của WB. * Ngưỡng nghèo thứ hai, thường được gọi là “ngưỡng nghèo chung” ngưỡng này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hoá phi lương thực. Ngưỡng nghèo Việt Nam được tính toán từ cuộc điều tra mức sống dân cư 1993 và 1998 như sau: Bảng 1: Ngưỡng nghèo ở Việt Nam Chi tiêu bình quân đầu người/năm 1993 1998 (Tính vào thời điểm (Tính vào thời điểm 1/1993) 1/1998) 750 nghìn đồng 1.287 nghìn đồng 1.116 nghìn đồng 1788 nghìn đồng Ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm Ngưỡng nghèo chung + Phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình (phương pháp của Bộ Lao động-Thương binh xã hội). Phương pháp này hiện đang được sử dụng để xác định chuẩn nghèo đói của chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia (Chuẩn nghèo quốc gia). Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kỳ 2001-2005 được xác định dựa trên thu nhập theo 3 vùng. Cụ thể là: SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp * Vùng Hải đảo và vùng núi nông thôn: Bình quân thu nhập là 80 nghìn đồng/người/tháng. * Vùng đồng bằng nông thôn: 100 nghìn đồng/người /tháng. * Và khu vực thành thị là 1500 nghìn đồng/người /tháng. Người được coi là nghèo thổ cả về thu nhập là những người mà thu nhập của họ nằm ở bên dưới các “giới hạn” đã được quy định nói trên: Việc nhận diện ai là “người nghèo” luôn là một vấn đề khó khăn. Cách thông thường và đã được các nước đang phát triển và WB sử dụng là dựa vào kết quả các cuộc điều tra về thu nhập (chi tiêu) của hộ gia đình (phương pháp thống kê). Những người đang sống trong “nghèo khổ tuyệt đối” là những người mà 4/5 chi tiêu của họ dành cho nhu cầu về ăn mà chủ yếu là lương thực và một chút ít thực phẩm (thịt hoặc cá); tất cả đều thiếu dinh dưỡng; chỉ khoảng 1/3 số người lớn biết chữ; và tuổi thọ trung bình của người lao động khoảng 40 năm. Một cách tiếp cận khác cũng thường được sủ dụng để xem xét nghèo đói là chia dân cư thành các nhóm khác nhau ( theo 5 nhóm). Nhóm 1/5 nghèo nhất là 20% dân số, những người sống trong các hộ gia đình có mức thu nhập (chi tiêu) thấp nhấp. Bên cạnh sự “nghèo khổ tuyệt đối”, ở nhiều nước còn xét đến sự “nghèo khổ tương đối”. “Nghèo khổ tương đối” được xét trong tương quan xã hội, phụ thuộc địa điểm dân cư sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ biến nơi đó. Sự nghèo khổ tương đối được hiểu là những người sống dưới mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định. Đây là những người cảm thấy bị tước đoạt một cái mà đại bộ phận những người khác trong xã hội được hưởng. Do đó chuẩn mực để xem xét nghèo khổ tương đối thường khác nhau giữa các nước hoặc giữa SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp các vùng. Nghèo khổ tương đối là một hình thức biểu hiện sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. 2. Các thước đo về nghèo đói. Xuất phát từ các tiếp cận định nghĩa sự nghèo khổ nói trên, thước đo sử dụng phổ biến hiện nay để đánh giá nghèo khổ về thu nhập là đếm số người sống dưới chuẩn nghèo. Gọi là “chỉ số đếm đầu người” (HCHeadcount index). Từ đó xác định tỷ lệ nghèo đói (tỷ lệ đếm đầu-HCR) Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm của dân số. Việc sử dụng chỉ số này là cần thiết để đánh giá tình trạng nghèo và những thành công trong mục tiêu “giảm nghèo” của quốc gia và thế giới. Tuy nhiên, để phản ánh được tính chất gay gắt của nghèo đói và để có chính sách cần thiết hữu hiệu nhằm giảm nghèo cho mọi đối tượng là người nghèo, các nhà kinh tế đã xây dựng chỉ số: “Khoảng cách nghèo”. Khoảng cách nghèo là phần chênh lệch giữa mức chi tiêu của người nghèo và ngưỡng nghèo, tính bằng phần trăm so với ngưỡng nghèo. Khi so sánh các nhóm dân cư trong một nước, khoảng cách nghèo cho biết tính chất và mức độ của nghèo khổ khác nhau giữa các nhóm. Ngoài ra còn có những thước đo khác để đánh giá nghèo đói như: - Chỉ số nghèo khổ (chỉ số nghèo nhân lực-HPI) Chỉ số nghèo khổ là thước đo tổng hợp đánh giá sự nghèo đói đa chiều và sự thiệt thòi của con người. HPI xem xét vấn đề nghèo đói và thiệt thòi thông qua các khía cạnh : cuộc sống lâu dài, khoẻ mạnh; sự đảm bảo về kinh tế và sự hội nhập về xã hội. Hai cách tiếp cận trình bày ở trên (PQLI và BNA) chỉ có ý nghĩa khi xem xét nền kinh tế của quốc gia đang phát triển; trong khi đó HPI đưa ra hai hệ thống chỉ tiêu riêng biệt cho các nước phát triển và đang phát triển. Đối với các nước đang phát triển, HPI gồm có: -Tỷ lệ người dự kiến không sống qua 40 tuổi. SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp -Tỷ lệ người mù chữ. -Tỷ lệ người không được tiếp cận với các dịch vụ y tế, nước sạch. Đối với các nước phát triển, HPI gồm có: -Tỷ lệ người dự kiến sống không quá 60 tuổi. -Tỷ lệ người chưa đạt tiêu chuẩn đọc, viết. -Tỷ lệ số người nghèo về thu nhập. -Tỷ lệ người thiệt thòi trong hoà nhập xã hội. ➢ Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI) Chỉ số này được tính căn cứ vào 3 yếu tố: tỷ lệ chết yểu, tỷ lệ biết chữ và tuổi thọ trung bình. Tỷ lệ trẻ em chết yểu thể hiện chất lượng của công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ của người mẹ, sự trong sạch của môi trường, mức độ sẵn có của nước sạch...Tuổi thọ trung bình phản ánh mức độ chăm sóc chung - Cách tiếp cận này đã đưa được một phần lớn hiệu quả các hoạt động phúc lợi xã hội và một chỉ số tổng hợp. Tuy nhiên, chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống chỉ có tác dụng trong việc so sánh trình độ phát triển của những nước có thu nhập trung bình trở xuống; nói cách khác, một khi dinh dưỡng, y tế và giáo dục đã đạt đến một trình độ nào đó thì chỉ số PQLI sẽ không còn thay đổi theo sự biến đổi của thu nhập nữa. - Các "Nhu cầu thiết yếu" (BNA) Cách tiếp cận "các nhu cầu thiết yếu" nhằm vào việc cực tiểu hoá vấn đề nghèo đói thay vì tối đa hoá sản lượng. Những người theo hướng tiếp cận này cho rằng tăng trưởng kinh tế là không có hiệu quả nếu nó không có những chương trình tập trung trực tiếp vào đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của 40-50% dân số nghèo khổ nhất. Theo họ, những nhu cầu thiết yếu này gồm có: - Nhu cầu dinh dưỡng: được tính thông qua chỉ số lượng calo/người/ngày. SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp - Nhu cầu về giáo dục: được tính thông qua (i) tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành (tính cho người từ 15 tuổi trở lên) (ii) tỷ lệ nhập học thô và ròng (iii) số năm đi học bình quân (iv) chi tiêu của Chính phủ dành cho giáo dục. - Nhu cầu về sức khoẻ: được tính theo tuổi thọ bình quân. - Nhu cầu về vệ sinh: tính qua các chỉ tiêu (i) tỷ lệ chết yểu (trung bình 1000 trẻ em sinh ra) (ii) phần trăm dân số được hưởng các phương tiện vệ sinh. - Nhu cầu về nước sạch: tính qua các chỉ tiêu (i) tỷ lệ chết yểu (trung bình 1000 trẻ em sinh ra) (ii) phần trăm dân số được hưởng các nguồn nước sạch. - Nhu cầu về nhà ở: m2/người. Cách tiếp cận từ các nhu cầu thiết yếu đưa ra một loạt các chỉ số thể hiện nhiều mặt của phúc lợi dành cho con người. Tuy nhiên, cách tiếp cận này chỉ phù hợp cho việc đánh giá một nền kinh tế đang phát triển vì nó nhấn mạnh vào việc giảm nghèo đói trên khía cạnh thoả mãn những nhu cầu thiết yếu đối với con người-những vấn đề không còn đặt ra với một nền kinh tế đã phát triển. II. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo và các yếu tố ảnh hưởng đến việc xoá đói giảm nghèo. 1. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo. Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân hoá giàu nghèo diễn ra rất nhanh nếu không tích cực xoá đói giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố lành mạnh và tiến bộ của thời đại. SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Do đó trong chính sách phát triển kinh tế -xã hội thời kỳ 1996-2000 nhà nước đã xây dựng được các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia. Xoá đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó còn là vấn đề kinh tế -xã hội quan trọng, do đó phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, xoá đói giảm nghèo về kinh tế là điều kiện tiên quyết để xoá đói giảm nghèo về văn hoá, xã hội .Vì vậy, phải tiến hành thực hiện xoá đói giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo và những vùng căn cứ kháng chiến cách mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung, tự cấp, độc canh, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp trên toàn quốc theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp nông thôn, mở rộng thị trường nông thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao đông ở nông thôn vào sản xuát tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ là con đường cơ bản để xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn phải được xem như là 1 giải pháp hữu hiệu, tạo bước ngoặt cho phát triển ở nông thôn, nhằm xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay. Tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá trên cơ sở nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đó là con đường để cho mọi người vượt qua đói nghèo, để nhà nước có thêm tiềm lực về kinh tế để chủ động xoá đói giảm nghèo. Đây là sự thể hiện tư tưởng kinh tế của Hồ Chủ Tịch:" Giúp đỡ người vươn lên khá, ai khá vươn lên giàu, ai giàu thì vươn lên giàu thêm".Thực hiện thành công chương trình xoá đói giảm nghèo không chỉ đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu nhập chính đáng cho người nông dân ổn định cuộc sống lâu dài, mà xoá đói giảm SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp nghèo, phát triển kinh tế nông thôn còn là nền tảng, là cơ sở để cho sự tăng trưởng và phát triển 1 nền kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Hơn thế nữa nó còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị xã hội. Xoá đói giảm nghèo nhằm nâng cao trình độ dân trí, chăn sóc tốt sức khoẻ nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành mạnh, giảm được khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người nghèo, ổn định tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có lòng tin vào đường lối và chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ nạn xã hội khác, bảo vệ môi trường sinh thái. Ngoài ra còn có thể nói rằng không giải quyết thành công các nhiệm vụ và yêu cầu xoá đói giảm nghèo thì sẽ không chủ động giải quyết được xu hướng gia tăng phân hoá giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hoá giai cấp với hậu quả là sự bần cùng hoá và do vậy sẽ đe doạ tình hình ổn định chính trị và xã hội làm chệch hướng XHCN của sự phát triển kinh tế -xã hội. Không giải quyết thành công các chương trình xoá đói giảm nghèo sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững sẽ không thể thực hiện được. Không tập trung nỗ lực, khả năng và điều kiện để xoá đói giảm nghèo sẽ không thể tạo được tiền đề để khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước nhằm đưa nước ta đạt tới trình độ phát triển tương đương với quốc tế và khu vực, thoát khỏi nguy cơ lạc hậu và tụt hậu. 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xoá đói giảm nghèo. Công tác xóa đói giảm nghèo là một công tác rất khó khăn và quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, khu vực và toàn thế giới. Việc SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp xét các yếu tố ảnh hưởng đến việc xóa đói giảm nghèo là tiền đề quan trọng trong chiến lược xóa đói giảm nghèo của mỗi quốc gia cũng như trong công tác triển khai các dự án xóa đói giảm nghèo 2.1. Yếu tố khách quan. 2.1.1. Điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên là một yếu tố đầu tiên và quan trọng ảnh hưởng đến công tác xóa đói giảm nghèo. Nếu điều kiện tự nhiên ưu đãi: như khí hậu tốt, địa hình bằng phẳng, giàu tài nguyên, nằm trong khu vực kinh tế mạnh … thì việc xóa đói giảm nghèo sẽ thuận lợi hơn rất nhiều kể cả về tiến độ và chi phí cho việc xóa đói giảm nghèo 2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội. Điều kiện kinh tế xã hội là yếu tố do lịch sử đem lại. Quá trình lịch sử của một quốc gia đưa lại những xuất phát điểm khác nhau như kinh tế kém phát triển do hậu quả của chiến tranh kéo dài…, nền văn hóa Phương Đông hay phương Tây… làm ảnh hưởng đến tác phong, hiệu quả lao động, sang tạo làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của một quốc gia, quyết định nhiều đến tình trạng nghèo đói 2.1.3. Các yếu tố tác động khác: - Hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế. - Hỗ trợ từ các quốc gia khác. Đây là hai yếu tố tác động tích cực làm giảm tình trạng nghèo đói của mỗi quốc gia và làm giảm sự nghèo đói, bất bình đẳng về thu nhập giữa các quốc gia, khu vực trên thế giới 2.2. Yếu tố chủ quan. 2.2.1. Năng lực quản lý của Nhà nước. SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Hiện nay năng lực của các quốc gia quyết định nhiều đến công tác xóa đói giảm nghèo của các quốc gia đó. Một nhà nước có năng lực quản lý tốt dẫn đến hiệu quả công tác quản lý và triển khai công tác xóa đói giảm nghèo cao. Đồng thời làm tăng sự tin tưởng của các tổ chức, quốc gia phát triển khác trên thế giới trong việc hỗ trợ công tác xóa đói giảm nghèo.Có thể nhanh chóng giảm được tình trạng nghèo đói của quốc gia đó. 2.2.2. Các quan điểm, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước. Mỗi quốc gia có một chiến lược phát triển kinh tế xã hội khác nhau trong từng thời kỳ và giai đoạn khác nhau. Một phần dẫn đến sự khác nhau này là do chế độ chính trị, tầm nhận thức của Nhà nước cũng như điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia đó. Dẫn đến các quan điểm về xóa đói giảm nghèo của mỗi quốc gia là khác nhau làm ảnh hưởng đến công tác xóa đói giảm nghèo của quốc gia đó. SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A Chuyên đề thực tập tốt nghiệp III. NGUYÊN NHÂN XOÁ ĐÓI NGHÈO 1. Nguyên nhân đói nghèo của Việt nam. Ở Việt Nam nguyên nhân chính gây ra đói nghèo có thể phân theo 3 nhóm: - Nhóm nguyên nhân điều kiện tự nhiên: khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, bão lụt, hạn hán, sâu bệnh, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn đã và đang kìm hãm sản xuất, gây ra tình trạng đói nghèo cho cả một vùng, khu vực. - Nhóm nguyên nhân chủ quan của người nghèo: thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn, đông con, thiếu lao động, không có việc làm, mắc các tệ nạn xã hội, lười lao động, ốm đau, rủi ro... - Nhóm các nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông,lâm, ngư,chính sách trong giáo dục đào tạo, ytế, giải quyết đất đai, định canh định cư, kinh tế mới và nguồn lực đầu tư còn hạn chế. Kết quả điều tra về xã hội học cho thấy: - Thiếu vốn: 70-90% tổng số hộ được điều tra. - Đông con: 50-60% tổng số hộ được điều tra. - Rủi ro, ốm đau: 10-15% tổng số hộ được điều tra. - Thiếu kinh nghiệm làm ăn: 40-50% tổng số hộ được điều tra. - Neo đơn, thiếu lao động: 6-15% tổng số hộ được điều tra. - Lười lao động, ăn chơi hoang phí: 5-6% tổng số hộ được điều tra. - Mắc tệ nạn xã hội: 2-3% tổng số hộ được điều tra. SV: Nguyễn Văn Tuấn Lớp: Kế hoạch 46A
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan