Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài lịch sử chiến tranh nam bắc triều tiên và triều tiên sau chiến tranh...

Tài liệu đề tài lịch sử chiến tranh nam bắc triều tiên và triều tiên sau chiến tranh

.DOCX
26
198
85

Mô tả:

MỤC LỤC I. Sự kiện mở đầu 3 II. Cuộc tấn công của Bắc Triều Tiên 5 III. Trung Quốc tham chiến 6 IV. Đình chiến 7 V. Bắc Triều Tiên hậu chiến 1953 11 1. Phát triển chính trị và quân sự 11 2. Xây dựng quân đội 13 3. Phát triển kinh tế và xã hội 14 4. Thay đổi văn hóa và giáo dục 21 5.Văn hóa và cách mạng 22 LỊCH SỬ CHIẾN TRANH NAM BẮC TRIÊU TIÊN VÀ TRIỀU TIÊN SAU CHIẾN TRANH Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến đầu tiên mà Liên Hiệp Quốc (LHQ), một tổ chức quốc tế, đã đóng vai trò quân sự. Tổ chức này mới được thành lập 5 năm về trước. Chiến Tranh Triều Tiên bùng nổ vào ngày 25/6/1950 khi quân đội Bắc Triều Tiên theo chế độ Xã hội, đã tràn qua biên giới, xâm lăng Nam Triều Tiên. LHQ đã gọi cuộc xâm lăng này là một vi phạm vào nền hòa bình thế giới và đã đòi hỏi quân đội Cộng Sản phải rút ra khỏi Nam Triều Tiên. Nhưng sau khi quân đội Cộng Sản Bắc Triều Tiên tiếp tục tấn công, Hoa Kỳ phải kêu gọi các quốc gia hội viên LHQ giúp đỡ quân sự cho Nam Triều Tiên. 16 quốc gia đã gửi quân tham chiến tới đây và 41 nước khác cũng đã chuyển tới các dụng cụ, thực phẩm và các tiếp liệu khác, trong khi đó Hoa Kỳ cung cấp 90 phần trăm binh lính, dụng cụ quân sự và các tiếp tế khác cho Nam Triều Tiên. Phía Cộng Sản, ngoài Bắc Triều Tiên còn có Trung Cộng, trong khi Liên Xô trợ giúp Bắc Triều Tiên bằng các dụng cụ quân sự. I. Sự kiện mở đầu Từ tháng 9 năm 1948, Chính phủ Bắc Triều Tiên đã ủng hộ nhiều cuộc nổi dậy và đình công lao động ở Nam Triều Tiên khi họ tán thành sự thống nhất đất nước. Tháng 4 năm 1948, họ đã thành công trong việc kêu gọi cuộc nổi dậy trên đảo Cheju (Tế Châu loan), sau đó vào tháng 10 họ gây ra một cuộc nổi dậy quân sự ở khu vực Yõsu Sunch'õn trong tỉnh Nam Chõlla (Toàn La đạo) qua các đặc vụ của mình trong các đơn vị quân đội đóng ở Yỗsu Cuộc nổi dậy này xảy ra khi quân đội ở Yỗsu dược lệnh đến đảo Cheju (Tế Châu loan) để khuất phục cuộc nổi dậy ở đó. Bắt đầu tháng 5 năm l949, một loạt các cuộc xung đột biên giới ngang vĩ tuyến 38 thường xuyên xảy ra và ở những nơi khác ở Nam Triều Tiên những người cộng sản đã tham gia chiến tranh du kích vào mùa thu năm 1949. Tuy nhiên, tất cả các cuộc nổi dậy và các cuộc nổi loạn này đầu bị quân đội Nam Triều Tiên dập tắt vào cuối năm 1949. Nhận thấy các cuộc nôi dậy và đình công này không lật đổ chính phủ Nam Triều Tiên, Kim Il-sung (Kim Nhật Thành) đã viếng thăm Moscow hai lần năm 1949, ký các hiệp định về kinh tế và quân sự với Liên Bang Xô Viết. Theo những nguồn tin khác nhau của Trung Quốc và Nga cho biết lúc đó Kim Nhật Thành đã thảo luận kế hoạch tấn công Nam Triều Tiên với Stalin. Và khi Mao Trạch Đông ở Trung Quốc viếng thăm Moscow năm 1949, Stalin và MaoTrạch Đông cũng đã thảo luận kế hoạch của Kim Nhật Thành.Được lời tuyên bố của ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson (tháng giêng năm 1950) khuyến khích là loại trừ Nam Triều Tiên ra khỏi "vành đai phòng thủ" của Mỹ ở Viễn Đông, Chính phủ Bắc Triều Tiên quyết định tiến hành chiến tranh để thống nhất Triều Tiên bằng vũ lực. Đầu năm 1950, sau khi quyết định, Kim II-sung (Kim Nhật Thành) đến Moscow, và yêu cầu Stalin tán thành việc Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên. Cuối cùng Stalin chấp thuận, ông trở về Pyongyang (Bình Nhưỡng). Sau khi được chấp thuận, Kim Nhật Thành cho Mao Trạch Đông biết về kế hoạch của mình.Khi kế hoạch của Kim Il-sung (Kim Nhật Thành) được chấp thuận, Liên Bang Xô Viết thay thế tất cả các cố vân quân sự ở Bắc Triều Tiên bằng các sĩ quan cấp cao có kinh nghiệm chiến đấu, nhanh chóng gửi nhiều xe tăng và các vũ khí khác tới Bắc Triều Tiên. Khi các cố vân quân sự đến, kế hoạch tấn công do các sĩ quan Liên Xô và sĩ quan Triều Tiên sinh ở Nga trong quân đội Liên Xô thảo ra, và kế hoạch chiến đấu hoàn thành được gửi cho Kim Il-sung (Kim Nhật Thành) cuối tháng năm. Các đơn vị quân sự sẵn sàng chiến đấu được triển khai dọc theo vĩ tuyến 38. Vào ngày 22 tháng 6, hai tổng hành dinh chỉ huy được thành lập. Lệnh chiến đấu đầu tiên bằng tiếng Nga và tiếng Hàn được phát ra cho các vị chỉ huy sư đoàn ngày 24 tháng 6.

Tài liệu liên quan