MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................................................. 5
CHƢƠNG 1: QUẢNG CÁO CẠNH TRANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ......................... 9
1.1
Những vấn đề chung về quảng cáo .............................................................................................. 9
1.1.1
Lịch sử hình thành quảng cáo .................................................................................................... 9
1.1.2
Khái niệm quảng cáo: bản chất thông tin và bản chất thương mại của hoạt động quảng cáo .. 11
1.1.2.1
Khái niệm quảng cáo ...................................................................................................... 11
1.1.2.2
Bản chất thông tin của hoạt động quảng cáo .................................................................. 11
1.1.2.3
Bản chất thương mại của hoạt động quảng cáo .............................................................. 14
1.1.3
Chức năng của quảng cáo ........................................................................................................ 17
1.1.3.1
Chức năng phổ biến thông tin từ thương nhân tới khách hàng: ...................................... 18
1.1.3.2
Chức năng định hướng tiêu dùng: .................................................................................. 18
1.1.3.3
Chức năng thúc đẩy thương mại, phát triển kinh tế: ....................................................... 19
1.1.4
Phân loại quảng cáo ................................................................................................................. 20
1.1.4.1
Phân loại căn cứ vào nội dung quảng cáo ....................................................................... 20
1.1.4.2
Phân loại căn cứ vào phương tiện quảng cáo ................................................................. 21
1.1.4.3
Phân loại căn cứ vào phương thức tác động đến đối tượng ............................................ 23
1.1.5
Các chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo .............................................................................. 24
1.1.5.1
Người quảng cáo ............................................................................................................ 25
1.1.5.2
Người cung cấp dịch vụ quảng cáo ................................................................................ 25
1.1.5.3
Người tiếp nhận quảng cáo ............................................................................................. 26
1.2
Điều chỉnh quảng cáo cạnh tranh trong nền kinh tế thị trƣờng ............................................. 27
1.2.1
Khái niệm cạnh tranh ............................................................................................................... 28
1.2.2
Vai trò của quảng cáo đối với cạnh tranh ................................................................................. 30
1.2.2.1
Quảng cáo trong cơ chế cạnh tranh ................................................................................ 30
1.2.2.2
Quảng cáo trong hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp .............................................. 31
1.2.3
Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hoạt động quảng cáo ............................................................. 32
1.2.3.1
Pháp luật cạnh tranh và cơ chế điều chỉnh của nó .......................................................... 32
1.2.3.2
Hai bộ phận của pháp luật cạnh tranh: Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh và pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh ................................................................................................... 34
1.2.3.3
Nội dung cơ bản của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh .............................. 37
1.2.3.4
Quảng cáo trong pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ..................................... 40
1.2.4
Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh quảng cáo của một số quốc gia có nền kinh tế thị trường phát
triển
................................................................................................................................................. 44
1.2.4.1
Kinh nghiệm của Mỹ ...................................................................................................... 44
1.2.4.2
Kinh nghiệm của Châu Âu ............................................................................................. 47
1.2.4.3
Kinh nghiệm của các nước Châu Á ................................................................................ 49
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .......................................................................................................................... 52
CHƢƠNG 2: ĐIỀU CHỈNH QUẢNG CÁO TRONG KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
TẠI VIỆT NAM ............................................................................................................................................. 53
2.1
Thực trạng hoạt động quảng cáo và pháp luật về quảng cáo trong nền kinh tế thị trƣờng
Việt Nam .................................................................................................................................................... 53
2.1.1
Thực trạng hoạt động quảng cáo trong nền kinh tế thị trường Việt Nam ................................. 53
2.1.1.1
Cơ chế thị trường định hình tại Việt Nam ...................................................................... 53
2.1.1.2
Các tác nhân thúc đẩy sự phát triển của ngành quảng cáo Việt Nam ............................. 54
2.1.1.3
Các đối tượng tham gia hoạt động quảng cáo ................................................................. 56
2.1.1.4
Các biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo tại Việt Nam ... 58
2.1.2
Pháp luật về quảng cáo của Việt Nam ..................................................................................... 61
2.1.2.1
Các quy định đầu tiên về quảng cáo trong nền kinh tế thị trường .................................. 61
2.1.2.2
Các quy định hiện hành về quảng cáo ............................................................................ 63
2.1.2.3
Các quy định trong lĩnh vực khác có liên quan đến quảng cáo ...................................... 66
2.2
Các quy định về quảng cáo trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam ........................................ 68
2.2.1
Giới thiệu về Luật Cạnh tranh 2004 ......................................................................................... 69
2.2.2
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh ............................................ 72
2.2.3
Các quy định về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh .............................................. 76
2
2.2.3.1
Quảng cáo so sánh .......................................................................................................... 77
- Về các loại hình so sánh ............................................................................................................. 77
- Về vấn đề so sánh trực tiếp ......................................................................................................... 79
- Về dấu hiệu hàng hoá, dịch vụ cùng loại .................................................................................... 81
- Quảng cáo so sánh – cho phép hay ngăn cấm? ........................................................................... 83
2.2.3.2
Quảng cáo bắt chước ...................................................................................................... 87
- Bắt chước trong mối liên hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật về sở hữu trí tuệ: .............. 87
- Sản phẩm quảng cáo bị bắt chước .............................................................................................. 89
- Vấn đề gây nhầm lẫn cho khách hàng ........................................................................................ 91
- Các biểu hiện không lành mạnh của hành vi bắt chước.............................................................. 92
2.2.3.3
Quảng cáo gian dối và gây nhầm lẫn .............................................................................. 93
- Phân biệt giữa gian dối và gây nhầm lẫn .................................................................................... 94
- Bản chất của gian dối và gây nhầm lẫn ...................................................................................... 95
- Nhận định lỗi của người quảng cáo ............................................................................................ 96
- Đánh giá tác động của quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn .................................................. 96
- Các biểu hiện gian dối hoặc gây nhầm lẫn ................................................................................ 98
- Quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn trong một số lĩnh vực cụ thể ........................................ 99
2.2.3.4
Các hành vi quảng cáo vi phạm pháp luật khác ............................................................ 100
- Nội dung Khoản 4 Điều 45 của Luật Cạnh tranh ..................................................................... 100
- Quảng cáo quá mức: ................................................................................................................. 101
- Quảng cáo quấy rối ................................................................................................................... 103
- Quảng cáo ép buộc ................................................................................................................... 106
2.2.3.5
Các quy định khác liên quan đến hoạt động quảng cáo ................................................ 106
- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn (Điều 40) ............................................................................................... 106
- Gièm pha doanh nghiệp khác (Điều 43) ................................................................................... 107
- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh (Điều 46) ...................................................... 107
- Quảng cáo gian dối trong hoạt động bán hàng đa cấp bất chính (Điều 48 khoản 4) ................ 108
2.2.4
Xử lý các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh .......................................... 108
2.2.4.1
Cơ quan cạnh tranh ....................................................................................................... 108
2.2.4.2
Tố tụng cạnh tranh ........................................................................................................ 111
- Các giai đoạn của tố tụng cạnh tranh ....................................................................................... 111
- Khiếu nại vụ việc cạnh tranh .................................................................................................... 112
- Nghĩa vụ chứng minh ............................................................................................................... 113
2.2.4.3
Hình thức xử lý quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.................................... 114
- Xử lý theo pháp luật cạnh tranh ................................................................................................ 114
- Xử lý vi phạm hành chính về quảng cáo trong các văn bản khác ............................................. 116
- Bồi thường thiệt hại .................................................................................................................. 117
- Xử lý hình sự ............................................................................................................................ 118
- Khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh ......................................................................... 119
2.3
Một số vụ việc thực tiễn: Phân tích và bình luận ................................................................... 120
2.3.1
Vụ việc quảng cáo so sánh ..................................................................................................... 120
2.3.1.1
Vụ việc quảng cáo so sánh của Công ty Kym Đan ....................................................... 120
2.3.1.2
Vụ việc quảng cáo so sánh của Cà phê Trung Nguyên ................................................ 122
2.3.2
Vụ việc quảng cáo bắt chước ................................................................................................. 125
2.3.2.1
Vụ việc quảng cáo bắt chước của Công ty Vạn Niên ................................................... 125
2.3.2.2
Vụ việc sao chép website công ty Exotissimo .............................................................. 126
2.3.3
Vụ việc quảng cáo gây nhầm lẫn của một số doanh nghiệp sản xuất sữa tươi ....................... 128
2.4
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh điều chỉnh quảng cáo ................ 129
2.4.1
Khẳng định bản chất thương mại trong khái niệm pháp lý về quảng cáo .............................. 130
2.4.2
Sửa đổi, bổ sung Luật Cạnh tranh và ban hành Nghị định hướng dẫn Luật về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. ........................................................................................................................ 130
2.4.2.1
Điều chỉnh khái niệm cạnh tranh không lành mạnh ..................................................... 132
2.4.2.2
Điều chỉnh các quy định về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ................. 133
- Đối với quy định về quảng cáo so sánh (Khoản 1 Điều 45): .................................................... 133
- Đối với quy định về quảng cáo bắt chước (Khoản 2 Điều 45) ................................................ 134
- Đối với quy định về quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn (Khoản 3 Điều 45) ..................... 134
- Đối với quy định về các hành vi quảng cáo vi phạm pháp luật khác (Khoản 4 Điều 45) ......... 135
2.4.2.3
Hoàn thiện thủ tục, trình tự xử lý các vụ việc cạnh tranh ............................................. 135
- Bổ sung biện pháp ngăn chặn hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả ............................ 136
- Xác định nghĩa vụ chứng minh của người quảng cáo ............................................................... 136
- Bổ sung quy trình điều tra rút gọn ............................................................................................ 136
3
- Miễn phí xử lý vụ việc cạnh tranh cho người tiêu dùng ........................................................... 137
- Quy định hiệu lực thi hành ngay đối với quyết định xử lý quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh ................................................................................................................................... 137
2.4.3
Điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của cơ quan cạnh tranh ....................................................... 137
2.4.4
Các giải pháp khác ................................................................................................................. 138
2.4.4.1
Tuyên truyền phổ biến pháp luật cạnh tranh tới cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu
dùng.
...................................................................................................................................... 138
2.4.4.2
Tích cực can dự vào việc hoạch định chính sách.......................................................... 138
2.4.4.3
Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cơ quan cạnh tranh ..................................... 139
2.4.4.4
Nâng cao năng lực hoạt động của các hiệp hội, xây dựng quy tắc ứng xử trong các
ngành, lĩnh vực kinh doanh. ............................................................................................................ 139
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................................................ 140
KẾT LUẬN................................................................................................................................................... 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................................... 143
4
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để một thị trường cạnh tranh vận hành hiệu quả và lành mạnh, bên
cạnh việc xác lập tương quan cân bằng giữa những người bán và người mua,
một yếu tố quan trọng cần đảm bảo là sự minh bạch và đầy đủ về thông tin
trên thị trường. Quảng cáo trong cơ chế thị trường đóng vai trò là nguồn thông
tin chủ yếu, không chỉ đem lại những hiểu biết về các sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ được đưa vào lưu thông, mà còn giúp tạo dựng quan hệ giữa người
bán và người mua, định hướng và kích thích tiêu dùng. Do đó, điều chỉnh
quảng cáo là một nhiệm vụ cần thiết đặt ra cho mỗi thiết chế quản lý nền kinh
tế thị trường.
Sau gần 20 năm nước ta thực hiện công cuộc Đổi mới, phát triển toàn
diện nền kinh tế xã hội, cơ chế thị trường tại Việt Nam đã dần được định hình
và phát triển hướng theo các quy luật khách quan, trong đó quy luật cạnh
tranh là một nền tảng cho sự vận hành của các hoạt động thị trường. Hàng
trăm ngàn doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế góp mặt và hoạt động
kinh doanh đã từng bước tạo nên một môỉ trường cạnh tranh với những biểu
hiện đa dạng và sôi động. Tuy nhiên, cơ chế thị trường phát triển đến một
mức độ nhất định cũng bắt đầu bộc lộ những mặt trái tiêu cực có thể ảnh
hưởng xấu đến lợi ích của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân và toàn thể xã hội.
Đáp ứng yêu cầu xây dựng cơ chế quản lý cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường, Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp 6
tháng 12/2004 và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2005, với quy định điều chỉnh
các hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh, chức năng và
nhiệm vụ của cơ quan cạnh tranh và thủ tục giải quyết các vụ việc cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh ra đời góp phần quan trọng trong việc tạo lập môi trường
kinh doanh bình đẳng, bảo vệ hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh
nghiệp, quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng, thúc đẩy chuyển đổi
cơ cấu kinh tế cũng như tiến trình hội nhập.
Trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh Luật Cạnh tranh quy
định, quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một lĩnh vực phức tạp
với nhiều biểu hiện đa dạng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Luật điều
chỉnh các hành vi quảng cáo so sánh, quảng cáo bắt chước, quảng cáo gian
dối hoặc gây nhầm lẫn, và các hoạt động quảng cáo bị pháp luật cấm khác.
Trước khi Luật Cạnh tranh được ban hành, đã tồn tại nhiều văn bản pháp luật
khác nhau điều chỉnh hoạt động quảng cáo như Pháp lệnh Quảng cáo 2001,
Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng 1999, Luật Thương mại 1997 và 2005 cùng
5
các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh. Sự trùng lặp và chồng chéo
về nội dung giữa các văn bản ngang cấp này gây khó khăn cho việc tổ chức
thực thi pháp luật thống nhất trên thực tế. Trong khi đó, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của ngành quảng cáo tại Việt Nam, một số hoạt động quảng cáo
không lành mạnh đã xuất hiện giữa các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị
trường, gây tổn hại đến quyền và lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng và
xã hội nói chung. Một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh
được ban hành sau đó cũng chưa cung cấp đầy đủ những hướng dẫn chi tiết về
việc áp dụng quy định về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Nghị
định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Cạnh tranh không có hướng dẫn về phần cạnh tranh không lành
mạnh; còn Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi
phạm pháp luật về cạnh tranh chỉ có quy định về mức xử phạt đối với tổ chức,
cá nhân vi phạm.
Như vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định và cơ chế
thực thi pháp luật điều chỉnh quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
với các vấn đề về tính chất cạnh tranh của quảng cáo; định tính, định lượng
nội dung và tác động của quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; phạm
vi phương tiện quảng cáo, đối tượng tác động của quảng cáo; đặc thù quảng
cáo cạnh tranh trong các ngành, lĩnh vực cụ thể; phạm vi thẩm quyền của các
cơ quan quản lý về quảng cáo; việc học tập kinh nghiệm của các quốc gia có
pháp luật cạnh tranh phát triển... còn để ngỏ những nội dung mới mẻ cả về lý
luận và thực tiễn, rất đáng được quan tâm và sẽ có giá trị áp dụng trong công
cuộc phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng môi trường cạnh tranh lành
mạnh ở nước ta. Đây là những cơ sở để người viết lựa chọn đề tài “Điều
chỉnh hoạt động quảng cáo trong khuôn khổ pháp luật cạnh tranh tại Việt
Nam” thực hiện Luận văn Thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ngay từ trước khi bắt đầu tiến trình xây dựng Luật Cạnh tranh (2000 –
2004) cho đến sau khi ban hành Luật, nhiều công trình nghiên cứu tiếp cận đề
tài pháp luật cạnh tranh và pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh nói
riêng ở nhiều góc độ khác nhau. Trong đó có thể kể đến các bài viết, chuyên
khảo, sách nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Như Phát, Đặng Vũ Huân,
Phạm Duy Nghĩa... trong đó có đề cập đến nội dung điều chỉnh cạnh tranh
không lành mạnh. Nhiều bài viết xuất hiện trên các tạp chí khoa học và trong
các cuộc hội thảo nhằm làm rõ các khía cạnh trạnh khác nhau của pháp luật
cạnh tranh. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của người viết, hiện chưa có công trình
nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề về quảng cáo trong khuôn khổ pháp luật
6
cạnh tranh, đặc biệt là trên góc độ luật thực định. Công tác tổ chức thực thi
các quy định của Luật Cạnh tranh trong thực tiễn đang đòi hỏi có sự tập trung
nghiên cứu chuyên sâu, nhằm tạo cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện khung
điều chỉnh và cơ chế áp dụng pháp luật cạnh tranh.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt mục đích nghiên cứu quảng cáo trong khuôn khổ pháp
luật cạnh tranh nhằm làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Làm rõ bản chất của hoạt động quảng cáo trong nền kinh tế thị
trường; tính đặc thù của cạnh tranh không lành mạnh được thể hiện trong
hành vi quảng cáo; vai trò của pháp luật cạnh tranh điều chỉnh quảng cáo;
- Đánh giá thực trạng ngành quảng cáo tại thị trường Việt Nam, các
biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo và nhu cầu
điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực này;
- Hệ thống hoá các quy định về quảng cáo hiện hành của pháp luật
Việt Nam và đi sâu phân tích các quy định về quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh của Luật Cạnh tranh, từ đó đề xuất phương hướng hoàn
thiện quy định và cơ chế thực thi pháp luật có hiệu quả.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đặt vấn đề nghiên cứu hoạt động quảng cáo với tư cách một
hành vi cạnh tranh, bản chất cạnh tranh của hoạt động quảng cáo và và cơ chế
điều chỉnh hoạt động quảng cáo tương ứng với những biểu hiện của bản chất
đó. Từ việc xác định đối tượng nghiên cứu này, phạm vi nghiên cứu của Luận
văn bao gồm các các nội dung lý luận và thực tiễn về hoạt động quảng cáo
trong nền kinh tế thị trường, các quy định của Luật Cạnh tranh và các văn bản
khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh quảng cáo. Luận văn cũng
thực hiện nghiên cứu so sánh pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh lien
quan đến quảng cáo của một số quốc gia nhằm đề xuất bài học kinh nghiệm
tham khảo.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, người viết Luận
văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như phân tích,
tổng hợp, khái quát hoá, khảo sát, so sánh pháp luật. Các phương pháp nghiên
cứu này được thực hiện theo định hướng cơ bản là chủ trương của Đảng và
Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay.
7
6. Cơ cấu Luận văn
Nhằm đáp dứng những yêu cầu nêu trên, Luận văn được thực hiện với
cơ cấu bao gồm hai chương:
- Chương 1: Quảng cáo cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Chương này tập trung làm rõ các vấn đề lý luận chung về quảng cáo, cạnh
tranh và pháp luật cạnh tranh điều chỉnh quảng cáo trong nền kinh tế thị
trường.
- Chương 2: Điều chỉnh quảng cáo trong khuôn khổ pháp luật cạnh
tranh tại Việt Nam. Trong chương này người viết đánh giá hiện trạng hoạt
động quảng cáo tại Việt Nam, hệ thống pháp luật về quảng cáo hiện hành,
trong đó trọng tâm là các quy định của Luật Cạnh tranh về quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh, kết hợp với phân tích một số vụ việc thực tiễn.
Từ đó, Luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật cạnh tranh điều chỉnh quảng cáo cũng như xây dựng cơ chế thực thi
pháp luật có hiệu quả trong lĩnh vực này.
Cuối cùng, người viết xin trân trọng cảm ơn người hướng dẫn là PGS.
TS. Phạm Duy Nghĩa đã giúp cho việc hoàn thành công trình này. Người viết
xin chịu trách nhiệm về mọi thiếu sót có thể còn lại về nội dung cũng như
hình thức của công trình.
Hà Nội, ngày 10 tháng 9 năm 2007.
8
CHƢƠNG 1: QUẢNG CÁO CẠNH TRANH TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
1.1 Những vấn đề chung về quảng cáo
1.1.1 Lịch sử hình thành quảng cáo
Hoạt động quảng cáo, với vai trò là cầu nối giữa người bán và người
mua, có lịch sử hình thành từ rất lâu đời. Từ khi phát sinh giao dịch sơ khai
vật đổi vật, con người đã nhận thấy cần thiết phải có những hình thức thông
tin về những gì mình có đến những người cần và những gì mình cần đến
những người có để thực hiện trao đổi. Thời cổ đại, hình thức quảng cáo phổ
cập nhất là truyền miệng, tuy nhiên các nhà khảo cổ tìm được chứng tích về
quảng cáo tồn tại từ khoảng 3000 năm trước Công nguyên trên những mảnh
tường cổ tại khu vực Babylon. Người Ai Cập cổ đại dùng giấy papyrus làm
các bản chào hàng và thông báo, trong khi đó, người ta tìm thấy tại La Mã và
khu đô thị cổ Pompei (Italia) các bức tranh tường quảng cáo về nhà cho thuê,
các trận giác đấu và thậm chí giờ đóng mở cửa của các nhà tắm công cộng tại
địa phương. Đến thời Trung cổ, quảng cáo truyền miệng được phát triển thành
một hình thức đặc biệt là người rao hàng công cộng tại các thị trấn. Bên cạnh
việc rao các thông báo của chính quyền địa phương (tương tự như mõ làng tại
Việt Nam), người này còn nhận tiền của các thương nhân để rao các hàng hoá,
dịch vụ của họ cho công chúng nghe. Hình thức người rao quảng cáo này
được coi là tiền thân cho những phương tiện phát ngôn quảng cáo hiện đại
như truyền thanh hay truyền hình.
Đến thế kỷ 15, sau khi Johannes Gutenberg (1398 – 1468), thợ cơ khí
người Đức, phát minh ra máy in và nghề in bắt đầu phát triển, quảng cáo xuất
hiện hình thức mới là tờ rơi. Đến thế kỷ 17, mẫu quảng cáo báo chí đầu tiên
xuất hiện trên một tờ tuần báo tại Anh. Ở các lãnh thổ thuộc địa tại Châu Mỹ,
tờ Boston News Letter, tờ báo phổ thông đầu tiên được xuất bản tại Mỹ, đã
bắt đầu cho đăng quảng cáo vào năm 1704 [47]. Trên tờ The Pennsylvania
Evening Post số ngày 6 tháng 7 năm 1776 hiện còn lưu lại, người ta thấy ngay
sau Tuyên ngôn độc lập trang trọng của Hoa Kỳ là rất nhiều mẩu quảng cáo
về các loại hàng hoá khác nhau được bán tại địa phương.
Tuy nhiên, trong thời cổ đại và trung đại, với hình thức tổ chức sản
xuất phổ biến mang nặng tính tự cấp tự túc, quảng cáo chỉ mang tính đơn lẻ,
tự phát. Hoạt động này chỉ thực sự phát triển kể từ giữa thế kỷ 19 khi cuộc
cách mạng công nghiệp thúc đẩy sản xuất hàng hoá, buộc các nhà sản xuất và
thương nhân phải tìm cách đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm. Họ sử dụng
quảng cáo làm công cụ để tiếp cận tới người mua với số lượng lớn, trên một
9
phạm vi rộng. Chỉ đến thời kỳ này, quảng cáo mới phát triển thành một hoạt
động kinh tế xã hội, một ngành kinh doanh đầy đủ. Tại Pennsylvania, Hoa
Kỳ, một người Mỹ tên là Volney B. Palmer (1799 – 1864) đã thành lập đại lý
quảng cáo đầu tiên năm 1841, với hoạt động đầu tiên đơn thuần là mua lại chỗ
quảng cáo trên các báo với số lượng lớn để được giảm giá và sau đó bán lại
với giá cao hơn cho những người muốn quảng cáo. Nội dung quảng cáo sẽ do
những người này tự chuẩn bị. Vào năm 1869, một người Mỹ khác là Francis
Ayer (1848 - 1923) mua lại đại lý trên và thành lập hãng quảng cáo đầu tiên
với tên gọi N. W. Ayer & Son, còn tồn tại cho đến ngày nay. Từ một đại lý
mua chỗ quảng cáo đơn thuần, công ty mở rộng hoạt động sang lĩnh vực
nghiên cứu thị trường và viết nội dung quảng cáo.
Từ lĩnh vực báo in, quảng cáo chuyển vào hệ thống phát thanh vào cuối
những năm 1920, và các nhà quảng cáo còn tự xây dựng những chương trình
phát thanh riêng của mình (từ soap opera trong tiếng Anh mang nghĩa chỉ các
vở kịch ngắn nhiều tập bắt đầu từ một chương trình do các công ty sản xuất xà
phòng tài trợ). Đến thập kỷ 40 của thế kỷ 20, vô tuyến truyền hình xuất hiện,
nhưng chỉ bắt đầu phổ biến từ những năm 1950, khi kinh tế Mỹ khởi sắc sau
chiến tranh và giá bán sản phẩm này giảm xuống. Truyền hình nhanh chóng
vượt đài phát thanh trở thành phương tiện quảng cáo chủ lực của ngành quảng
cáo.
Sau một thời gian dài tăng trưởng, tốc độ phát triển của ngành quảng
cáo bị chựng lại vào những năm 1970, khi tất cả các công ty lớn đều liên tục
tăng ngân sách cho quảng cáo tiếp thị và bành trướng ra thị trường quốc tế.
Người tiêu dùng bắt đầu bị dội bom quảng cáo và đã phản ứng lại bằng một
cơ chế sàng lọc thông tin, bỏ qua các thông điệp quảng cáo tương tự nhau.
Hiệu quả của quảng cáo giảm sút mạnh trong khi chi phí lại tăng không
ngừng. Các công ty quảng cáo chuyển hướng tập trung xây dựng thương hiệu
cho sản phẩm và doanh nghiệp, định vị những điểm độc đáo, đặc trưng so với
các sản phẩm và doanh nghiệp cùng loại. Phương hướng này được tiếp tục
phát triển cho đến thời gian gần đây.
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học công nghệ và sự phát triển đa
dạng của đời sống xã hội, các hình thức quảng cáo, tiếp thị hiện đại liên tục
xuất hiện và đổi mới không ngừng. Có thể kể đến các doạng thức khác nhau
như quan hệ công chúng hay còn gọi là PR (Public Relations), tổ chức
chương trình khách hàng (khuyến mại, giới thiệu sản phẩm…), tham gia tài
trợ các sự kiện thể thao, văn hoá, tiếp thị trực tiếp, tiếp thị qua điện thoại,
quảng cáo trực tuyến .v.v. Khó có thể tiên liệu được đường hướng phát triển
của ngành quảng cáo trong tương lai, tuy nhiên có thể khẳng định vai trò quan
10
trọng của nó trong xã hội hiện đại, do đó là sự kết hợp hai hoạt động mang
tính chất nền tảng cho một nền kinh tế xã hội, đó là hoạt động thông tin và
hoạt động thương mại.
1.1.2 Khái niệm quảng cáo: bản chất thông tin và bản chất thương mại
của hoạt động quảng cáo
1.1.2.1 Khái niệm quảng cáo
Quảng cáo với tư cách là một hoạt động kinh tế xã hội được nhìn nhận
dưới nhiều góc độ khác nhau, qua đó thể hiện những sắc thái khác nhau.
- Theo cách tiếp cận về mặt xã hội học, quảng cáo là quá trình truyền
tin có định hướng tới người mua để kích thích họ hành động mua sản phẩm và
dịch vụ mà quảng cáo đã giới thiệu và đề xuất.
- Theo cách tiếp cận của kinh tế học, quảng cáo là cách trình bày cho
đông đảo khách hàng có được những hiểu biết cần thiết về hàng hoá, dịch vụ
và uy thế của doanh nghiệp bằng các phương tiện thông tin đại chúng.
- Theo cách tiếp cận về mặt hành vi, quảng cáo là việc sử dụng phương
tiện thông tin để truyền tin về sản phẩm dịch vụ tới các phần tử trung gian
hoặc tới các khách hàng cuối cùng trong một khoảng thời gian và không gian
nhất định.
- Theo cách tiếp cận về mặt quản lý, quảng cáo là công cụ của chính
sách thương mại được áp dụng một cách có kế hoạch để tuyên truyền về mặt
kinh tế tới khách hàng.
Mỗi cách tiếp cận nói trên đều có những điểm hợp lý cũng như những
thiếu sót nhất định. Chẳng hạn nếu chỉ xác định mục đích của quảng cáo là
hành động “mua hàng hoá dịch vụ” thì sẽ không bao quát hết phạm vi tác
động của quảng cáo. Hay nếu chỉ xác định công cụ của quảng cáo chỉ là các
phương tiện thông tin đại chúng thì sẽ bỏ sót khá nhiều hình thức quảng cáo
trực tiếp đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động truyền thông tiếp thị
hiện đại. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, cách tiếp cận nào cũng khẳng định hai
mặt hợp thành bản chất chung của quảng cáo, đó là bản chất thông tin và bản
chất thương mại trong hoạt động này.
1.1.2.2 Bản chất thông tin của hoạt động quảng cáo
Quảng cáo trong tiếng Việt là một từ Hán Việt, theo chiết tự có nghĩa là
thông báo (cáo) một cách rộng rãi đến nhiều người (quảng). Từ quảng cáo
trong ngôn ngữ các nước phương Tây đa phần đều có gốc từ từ “adverture”
trong tiếng latin có nghĩa là sự thu hút lòng người, gây chú ý và gợi dẫn,
chuyển sang tiếng Anh là “advertise”. Các dịch giả giải nghĩa “advertise” là
11
gây sự chú ý của người khác, thông báo cho người khác một sự kiện nào đó.
Trong suốt quá trình tồn tại của mình, quảng cáo vẫn luôn mang bản chất
thông tin, cung cấp những nội dung, hiểu biết nhất định tới một hoặc một
nhóm đối tượng. Chủ thể của hoạt động quảng cáo ở đây là nhà cung cấp
quảng cáo và người tiếp thu quảng cáo. Nội dung thông tin được quảng cáo
cung cấp rất đa dạng, có thể là thông tin về sản phẩm, dịch vụ; thông tin về
một tổ chức, cá nhân; thông tin về một cuộc vận động chính trị hay một
chương trình xã hội .v.v. Những nội dung này đáp ứng nhu cầu thông tin của
các nhóm, các bộ phận khác nhau trong xã hội, góp phần hình thành hệ thống
thông tin xã hội chung. Trong xã hội hiện đại, khái niệm quảng cáo thường
gắn với khái niệm “truyền thông” (communication) chính vì bản chất thông
tin của nó.
Có thể nhận thấy bản chất thông tin của quảng cáo thể hiện qua lịch sử
phát triển hoạt động quảng cáo nêu tại phần trên. Có thể thấy mỗi hình thức
quảng cáo mới tương ứng với sự ra đời của một phương tiện thông tin mới.
Bên cạnh đó, sự phát triển của quảng cáo được tính bằng phạm vi, mức độ
phổ cập thông tin của phương tiện quảng cáo. Bắt đầu từ các bảng hiệu, tranh
tường chỉ có khả năng cung cấp thông tin đến những người sinh sống trong
một khu vực lân cận hạn chế, đến những người rao hàng có thể truyền thông
điệp quảng cáo đi khắp thị trấn, và những tờ báo in có thể đưa thông tin đến
những vùng khác nhau trong một tỉnh thành… Tiếp theo là các phương tiện
truyền thanh, truyền hình có khả năng phủ sóng trên toàn quốc, phạm vi tác
động và hiệu quả cao hơn báo in. Ngày nay, quảng cáo trực tuyến theo gót
mạng internet đem thông tin phổ biến khắp toàn cầu, hứa hẹn sẽ là một công
cụ quảng cáo mạnh mẽ trong tương lai không xa.
Tuy nhiên, quảng cáo là một hình thức thông tin đặc biệt, khác với các
hình thức thông tin xã hội khác, thể hiện ở những điểm sau:
- Quảng cáo là thông tin mang tính một chiều, xuất phát từ người cung
cấp thông tin là nhà quảng cáo đến những đối tượng mà người này muốn cung
cấp thông tin. Nhà quảng cáo ít quan tâm đến thông tin ngược lại từ phía đối
tượng tiếp nhận quảng cáo, trừ trường hợp nhằm mục đích đánh giá phản ứng
của đối tượng đối với quảng cáo của mình. Không có sự trao đổi thông tin từ
hai phía. Hơn thế, quảng cáo còn mang tính định hướng, không chỉ cung cấp
thông tin mà còn hướng tới việc khiến cho đối tượng tiếp nhận thông tin phản
ứng, hành động theo một cách thức nhất định.
Quảng cáo là thông tin không đầy đủ, nội dung của nó mang tính chọn
lọc, phụ thuộc vào ý chí của nhà quảng cáo. Chính vì nhằm mục đích định
hướng đối tượng tác động, nhà quảng cáo lựa chọn cung cấp cho người tiếp
12
nhận quảng cáo những phần thông tin có lợi cho mình, phục vụ cho ý định
của mình. Trong khi đó, những nội dung không có lợi cho nhà quảng cáo có
thể bị lược bỏ, hoàn toàn không đề cập đến hoặc đề cập với cách thức giảm
nhẹ, sơ sài. Đây là một vấn đề cốt lõi đặt ra cho pháp luật điều chỉnh hoạt
động quảng cáo, nhằm mục đích cân bằng giữa mong muốn định hướng thông
tin của nhà quảng cáo và quyền được thông tin đầy đủ của người tiếp nhận
quảng cáo.
- Thông tin thể hiện trong nội dung quảng cáo không giống các dạng
thông tin phổ biến thể hiện qua ngôn ngữ lời nói hoặc chữ viết. Thông tin
trong quảng cáo là sự kết hợp của nhiều yếu tố hể hiện khác nhau: ngôn ngữ,
hình ảnh, màu sắc, âm thanh, ánh sáng … Tuỳ thuộc vào từng loại hình quảng
cáo mà thành phần và vai trò của các yếu tố này có thể khác nhau, tuy nhiên
có thể thấy rằng những yếu tố bên ngoài ngôn ngữ như hình ảnh, màu sắc, âm
thanh … thoạt đầu chỉ mang tính chất hỗ trợ, minh hoạ cho ngôn ngữ truyền
đạt thông tin, trải qua một quá trình quảng cáo lâu dài, tạo được ấn tượng
trong lòng người tiêu dùng. Vượt qua một ngưỡng nhất định, từng yếu tố
trong đó tự thân có thể có ý nghĩa, truyền đạt thông tin của nhà quảng cáo đến
đối tượng tiếp nhận. Một gương mặt người mẫu quảng cáo quen thuộc, một
giai điệu trong phim quảng cáo nhiều người biết đến … đã chứa đựng thông
điệp của nhà quảng cáo. Hay khi hãng Pepsi đưa chiếc máy bay sơn xanh đi
khắp thế giới, bản thân màu xanh trở thành nội dung quảng cáo chủ yếu, tất cả
những thông điệp ngôn ngữ đi theo chỉ đóng vai trò hỗ trợ.
- Đặc điểm cuối cùng và quan trọng nhất thể hiện ở chỗ quảng cáo là
thông tin được trả tiền. Nhà quảng cáo phải trả một khoản chi phí nhất định để
thông tin quảng cáo đến được với đối tượng mình mong muốn. Khoản chi phí
này, trong thời kỳ sơ khai của quảng cáo không đáng kể, không thể hiện sự
khác biệt so với các hình thức thông tin tuyên truyền khác. Tuy nhiên, trong
quá trình phát triển của hoạt động quảng cáo, đặc biệt đến quảng cáo hiện đại,
chi phí quảng cáo đã trở thành một phần không nhỏ trong ngân sách của các
tổ chức, doanh nghiệp. Việc trả tiền cho quảng cáo tách nó khỏi xu hướng tự
do thông tin của xã hội nói chung. Trong thời đại ngày nay, khi thông tin trở
thành một yếu tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội, trong nhiều
trường hợp người tiếp nhận thông tin phải trả tiền để có được những thông tin
có giá trị. Tuy nhiên, ở hoạt động quảng cáo chúng ta thấy một quy trình
ngược lại: nhà quảng cáo trả tiền để có thể cung cấp thông tin. Nhà quảng cáo
trả tiền chính để có thể cung cấp thông tin một cách chọn lọc, không đầy đủ
như ý muốn của họ và thông qua đó đạt được mục đích định hướng hành động
cho đối tượng tiếp nhận thông tin. Có thể định nghĩa quảng cáo là hình thức
đặc biệt của thông tin xã hội được trả tiền, nhằm mục đích thay đổi cơ cấu
13
nhu cầu, mối quan tâm của con người và thúc đẩy họ tới hành động mà nhà
cung cấp quảng cáo mong muốn [24, tr.15].
Đặc điểm trả tiền để cung cấp thông tin nói trên của quảng cáo chính là
yếu tố nền tảng cho tính chất đặc biệt trong thông tin quảng cáo, cho phép nhà
quảng cáo có thể chọn lọc thông tin và cung cấp thông tin một cách có định
hướng tới người tiêu dùng. Đặc điểm này giúp quảng cáo có được bản chất
thứ hai mà các hình thức thông tin tuyên truyền khác không có, đó là bản chất
thương mại.
1.1.2.3 Bản chất thương mại của hoạt động quảng cáo
Quảng cáo ngày nay ngày càng gắn liền với thương mại và trở thành
một trong những hoạt động thương mại điển hình. Theo Từ điển tiếng Việt
của Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng năm 1998, quảng cáo được giải nghĩa
là “trình bày để giới thiệu rộng rãi cho nhiều người biết nhằm tranh thủ được
nhiều khách hàng”. Như vậy, quảng cáo ở đây gắn liền với mục đích lợi
nhuận, hoạt động nhằm thúc đẩy lợi nhuận thông qua thu hút được nhiều
khách hàng. Pháp luật của nhiều quốc gia cũng nhìn nhận quảng cáo với bản
chất thương mại của nó. Theo Luật Quảng cáo của Trung Quốc năm 1994,
quảng cáo được hiểu là một quảng cáo mang tính chất thương mại mà người
cung cấp hàng hóa, dịch vụ, giới thiệu cho hàng hóa dịch vụ của mình, cho dù
là trực tiếp hay gián tiếp, thông qua các thông tin công cộng; người quảng
cáo được hiểu là một thực thể pháp lý, dù là tổ chức kinh tế hay pháp nhân
mà mục đích của họ là bán các mặt hàng, dịch vụ thiết kế, sản xuất hay xuất
bản thuộc lĩnh vực quảng cáo. Trong Pháp lệnh số 82-280 ngày 23/7/1992
của Cộng hòa Pháp về tự do thông thương và quy định những nguyên tắc
chung về chế độ áp dụng cho quảng cáo và tài trợ có quy định mọi loại thông
tin truyền hình phát có thu tiền hoặc đổi bù nhằm quảng bá cho việc cung cấp
sản phẩm hay dịch vụ, kể cả thông tin được giới thiệu dưới dạng tên gọi
chung trong khuôn khổ một hoạt động thương mại, công nghiệp, thủ công hay
nghề nghiệp tự do, hay nhằm đảm bảo quảng cáo thương mại cho một doanh
nghiệp nhà nước hoặc tư nhân đều được coi là quảng cáo. Còn theo Chỉ thị
84/450/EEC ngày 10/9/1984 của Hội đồng và Nghị viện Châu Âu liên quan
đến quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo so sánh, quảng cáo được hiểu là
“đưa ra sự tuyên bố dưới bất cứ hình thức nào liên quan đến hoạt động
thương mại, kinh doanh, nghề thủ công, nghề chuyên nghiệp nhằm xúc tiến
việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ; bao gồm cả bất động sản, quyền và nghĩa
vụ.”. Các định nghĩa nêu trên cho thấy, với tính chất là một thuật ngữ pháp lý
“quảng cáo” được pháp luật các nước điều chỉnh là hoạt động quảng cáo luôn
chứa đựng mục đích thương mại – giới thiệu thông tin nhằm xúc tiến việc bán
14
hàng, cung ứng dịch vụ. Chỉ thị 97/360 CE của Hội đồng và Nghị viện Châu
Âu cũng nêu rõ tại Điều 18: “Quảng cáo không bao gồm các thông tin do cơ
quan phát thanh phát có liên quan tới chương trình của cơ quan và các sản
phẩm phụ trực tiếp của các chương trình này; các thông tin về dịch vụ công
cộng và các lời kêu gọi cho việc làm từ thiện miễn phí”.
Ở Việt Nam hiện nay còn đang có nhiều quan điểm khác nhau về bản
chất thương mại của quảng cáo trong một số cơ quan lập pháp và hành pháp,
chủ yếu do sự tồn tại của loại hình quảng cáo phi lợi nhuận. Về mặt lịch sử,
khái niệm quảng cáo ra đời trước, và trong một thời gian dài gắn liền với các
hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động của Đảng và Nhà nước vốn rất
được chú trọng nhằm phục vụ các mục tiêu chính trị và xã hội. Quảng cáo
thương mại ra đời sau, và chỉ được chú ý khi các hoạt động thương mại đã
tương đối phát triển theo sự định hình của cơ chế thị trường. Phản ánh vào hệ
thống pháp luật, khái niệm “quảng cáo” có trong hai văn bản luật hiện hành là
Pháp lệnh Quảng cáo và Luật Thương mại. Theo Pháp lệnh Quảng cáo 2001
quảng cáo được giải thích: quảng cáo là giới thiệu đến người tiêu dùng về
hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lời và dịch vụ
không có mục đích sinh lời. Dịch vụ có mục đích sinh lời là dịch vụ nhằm tạo
ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ; Dịch vụ không có mục
đích sinh lời là dịch vụ không nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức cá nhân
cung ứng dịch vụ (quảng cáo về các dịch vụ thực hiện chính sách xã hội và
những thông tin nhằm thông báo, nhắn tin, rao vặt). Theo Luật Thương mại
năm 2005, khái niệm quảng cáo ở đây được gắn liền với tính chất thương mại
và được gọi với thuật ngữ pháp lý “quảng cáo thương mại”, trong đó khái
niệm này được hiểu là: hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để
giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của
mình. Như vậy, pháp luật Việt Nam thừa nhận sự tồn tại của hai hình thức
quảng cáo không có mục đích sinh lời và quảng cáo có mục đích sinh lời,
trong đó đối tượng thứ hai còn được gọi là “quảng cáo thương mại”. Tuy
nhiên, người viết luận văn này nghiêng về phía quan điểm gắn quảng cáo với
thương mại và cho rằng bản chất thương mại của quảng cáo ngày càng đuợc
thể hiện rõ hơn trong nền kinh tế xã hội hiện đại, trên những phương diện sau:
- Xét về mặt thống kê, quảng cáo thương mại chiếm số lượng lớn,
mang tính tuyệt đối trong số các loại hình quảng cáo. Bên cạnh đó, quảng cáo
thương mại là loại hình quảng cáo duy nhất mang tính ổn định, liên tục trong
một thời gian dài. Các loại hình quảng cáo phi lợi nhuận, chẳng hạn như
quảng cáo chính trị phục vụ bầu cử hay quảng cáo vận động cho một chương
trình xã hội, chỉ thực hiện trong một thời điểm, một thời hạn xác định. Mặt
khác, quảng cáo chính trị và quảng cáo xã hội xét về không gian hiển nhiên sẽ
15
bị hạn chế trong một lãnh thổ nhất định, chỉ có quảng cáo thương mại mới
vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ. Khi một hàng hoá được bán tại Châu Âu cũng
như tại Việt Nam, thì một mẫu quảng cáo thực hiện tại Châu Âu vẫn có thể sử
dụng trên thị trường Việt Nam và đem lại những hiệu quả tương tự như nó đã
có tại nơi xuất xứ.
- Xét về mặt kinh tế, quảng cáo thương mại là động lực duy trì và phát
triển toàn bộ hoạt động quảng cáo trong suốt quá trình lịch sử. Với chi phí
thực hiện quảng cáo ngày một lớn, chỉ có các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh mới có khả năng bỏ ra các khoản tiền lớn cho quảng cáo, và họ cũng
chỉ sẵn sàng làm việc này khi biết rằng hiệu quả quảng cáo sẽ tăng doanh số
bán hàng hoá dịch vụ của họ, không những giúp bù đắp chi phí quảng cáo
cũng như các chi phí sản xuất kinh doanh khác mà còn đem lại lợi nhuận thực
tế cho nhà quảng cáo. Mục đích lợi nhuận chi phối toàn bộ hoạt động quảng
cáo, thúc đẩy doanh nghiệp, thương nhân thực hiện quảng cáo cho hàng hoá,
dịch vụ, thương hiệu hoặc tên tuổi của mình. Ngược lại, khoản kinh phí các
thương nhân dành cho quảng cáo chính là một nguồn thu đáng kể, thậm chí
trong nhiều trường hợp có thể khẳng định là nguồn thu lớn nhất, quan trọng
nhất của các phương tiện thông tin đại chúng như báo viết, đài phát thanh, đài
truyền hình .v.v. Tuy cùng thuộc hình thức thông tin phải trả tiền, nhưng biểu
giá đưa tin dành cho các quảng cáo xã hội, các thông tin rao vặt, cáo phó nhỏ
hơn rất nhiều, thậm chí không đáng kể so với biểu giá quảng cáo thương mại
dành cho doanh nghiệp, mặc dù khoảng trống trên trang báo hay thời lượng
phát sóng trên đài truyền thanh, truyền hình của hai tin thuộc hai loại có thể
bằng nhau. Như vậy, doanh thu từ quảng cáo thương mại đóng vai trò quyết
định đến sự tồn tại của các công cụ quảng cáo. Doanh thu từ quảng cáo còn
giúp các phương tiện thông tin đại chúng thực hiện chức năng cơ bản của
mình là cung cấp thông tin cho công chúng một cách dễ dàng hơn. Công
chúng tiếp cận được thông tin với chi phí thấp khi báo in đa phần được bán
với giá thấp hơn giá thành, và thậm chí là miễn phí như nhiều kênh phát thanh
và truyền hình đại chúng hiện nay. Như vậy, những lợi ích quảng cáo đem lại
đều xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận mà nó hướng tới.
- Xét về mặt xã hội, từ “quảng cáo” được xã hội hiện nay gắn liền và
gần như đồng nghĩa với quảng cáo thương mại. Các hình thức quảng cáo
chính trị hay quảng cáo xã hội hiện nay dần được coi chỉ là hoạt động tuyên
truyền, thông tin đơn thuần nhằm phục vụ chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
hay các tổ chức khác. Có thể thấy trên các trang báo hay chương trình truyền
hình, mục quảng cáo chỉ bao gồm các quảng cáo thương mại, còn các tin nhắn
rao vặt, cáo phó .v.v. được xếp vào một mục khác tách biệt. Rõ ràng trong
16
nhận thức xã hội, quảng cáo ngày càng được hiểu và được chấp nhận rộng rãi
như là một cách gọi rút gọn của quảng cáo thương mại.
Do những phân tích nói trên, trong khuôn khổ luận văn này, quảng cáo
được hiểu và được dùng trong giới hạn là quảng cáo thương mại, một hành vi
thương mại do thương nhân thực hiện nhằm giới thiệu hoạt động kinh doanh
của mình cho khách hàng.
1.1.3 Chức năng của quảng cáo
Từ nhận định về mục đích lợi nhuận của hoạt động quảng cáo như trên,
chúng ta có thể xác định chức năng cơ bản nhất của quảng cáo là công cụ giúp
thúc đẩy việc mua bán hàng hoá, dịch vụ. Tuy nhiên, quảng cáo có những
chức năng cụ thể, đặc thù giúp phân biệt nó với các hoạt động thương mại nói
chung và các hoạt động xúc tiến thương mại nói riêng khác. Việc tìm hiểu
chức năng của quảng cáo đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập các biện
pháp điều chỉnh hoạt động này, giúp các biện pháp đưa ra giữ cần bằng và
không làm sai lệch hay mất đi hoàn toàn chức năng vốn có của quảng cáo.
Lý thuyết marketing hiện đại chia quá trình thương nhân đưa sản phẩm
ra thị trường thành bốn giai đoạn cho một vòng đời sản phẩm (product
lifecirle). Trong bốn giai đoạn này, chức năng của quảng cáo thể hiện với các
mức độ khác nhau:
- Ở giai đoạn chuẩn bị và giới thiệu sản phẩm ra thị trường: Quảng cáo
có chức năng kêu gọi sự quan tâm của người tiêu dùng. Các mẫu quảng cáo
có thể xuất hiện trước khi sản phẩm ra mắt một thời gian nhất định, đưa ra
những thông điệp gây tò mò cho công chúng. Do đây là giai đoạn sản phẩm
mới xuất hiện, lượng thông tin trong các mẫu quảng cáo khá nhiều, giới thiệu
đến khách hàng tiềm năng những tính năng, công dụng, các điểm mới và nổi
trội của sản phẩm.
- Ở giai đoạn phát triển, gia tăng: Quảng cáo thúc đẩy việc bán hàng,
gia tăng doanh số. Trong giai đoạn này, quảng cáo hướng vào việc kích thích
nhu cầu và hứng thú của khách hàng, mở rộng phạm vi tiếp cận để tìm kiếm
các đối tượng khách hàng tiềm năng mới. Trong giai đoạn này, bên cạnh việc
cung cấp thông tin, quảng cáo cũng bắt đầu định hướng tiếp cận vào tình cảm
của khách hàng.
- Ở giai đoạn đỉnh cao: Khi doanh số bán sản phẩm đạt tới mức cao
nhất và sự có mặt của sản phẩm trở nên bão hoà trên thị trường, quảng cáo
đóng vai trò duy trì lòng trung thành của khách hàng đối với sản phẩm
(consumer loyalty), kéo dài chu kỳ thành công của sản phẩm. Ở giai đoạn
này, tỷ trọng thông tin trong mẫu quảng cáo không lớn, do khách hàng hầu hết
17
đã biết đến sản phẩm. Ngược lại, yếu tố tình cảm, cảm xác lại đặc biệt quan
trọng, nhằm khuyến khích sự gắn bó trong thói quen tiêu dùng.
- Ở giai đoạn thoái trào: Sau một thời gian nhất định, sản phẩm không
còn được ưa chuộng, doanh số bán đi xuống, nhà sản xuất sẽ chuẩn bị phương
án rút sản phẩm ra khỏi thị trường, thay thế bằng dòng sản phẩm mới. Ở giai
đoạn này, quảng cáo không có vai trò gì đáng kể.
Tuy nhiên, cách tiếp cận của lý thuyết marketing nói trên chủ yếu tập
trung vào dạng quảng cáo trực tiếp hàng hoá, dịch vụ. Trong nhiều trường
hợp, nội dung quảng cáo giới thiệu tên tuổi, nâng cao uy tín doanh nghiệp,
thương nhân. Trong trường hợp này, tác dụng thúc đẩy bán hàng mang tính
gián tiếp, thể hiện ở chỗ khách hàng sẽ có xu hướng sử dụng sản phẩm từ các
nhà cung cấp mà họ quen thuộc, tin cậy. Xét một cách khái quát, mọi loại
hình quảng cáo đều có những chức năng cơ bản như sau:
1.1.3.1 Chức năng phổ biến thông tin từ thương nhân tới khách hàng:
Từ bản chất thông tin của quảng cáo, có thể thấy chức năng đầu tiên
và cơ bản nhất của quảng cáo là phổ biến thông tin từ thương nhân tới khách
hàng, từ người bán đến người mua. Một mặt, người mua có nhu cầu thực tế
đối với thông tin về hàng hoá, dịch vụ mà họ cần sử dụng. Nhu cầu này được
đáp ứng hầu như toàn bộ từ quảng cáo. Mặt khác, người bán cần tiếp cận các
khách hàng tiềm năng với số lượng càng lớn càng tốt, trên một phạm vi càng
rộng càng tốt. Nhờ vào hoạt động quảng cáo nhà sản xuất có thể giới thiệu sản
phẩm của mình trên thị trường, giúp cho người tiêu dùng biết được, hiểu được
nhãn hiệu, tính năng, công dụng, cách sử dụng, cách bảo dưỡng, giá cả, cách
mua và địa điểm mua của các loại hàng hóa. Qua đó, người tiêu dùng kịp thời
mua được những hàng hóa mình mong muốn và vừa ý.
1.1.3.2 Chức năng định hướng tiêu dùng:
Quảng cáo không chỉ dừng ở việc thông báo đến người mua về sự tồn
tại của hàng hoá, dịch vụ mà họ cần. Nó còn có nhiệm vụ làm cho người mua
lựa chọn và quyết định mua một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định giữa rất
nhiều loại hàng hoá, dịch vụ có tính năng, công dụng tương tự có mặt trên thị
trường. Nhận biết và ghi nhớ chỉ là yếu tố bước đầu, quảng cáo hướng đến là
hành động mua hàng cụ thể của người tiếp nhận quảng cáo. Chỉ khi đó, mục
đích lợi nhuận của thương nhân là nhà quảng cáo mới có thể được đáp ứng.
Trong thời kỳ sơ khai của quảng cáo, khi sản xuất còn khó khăn, mỗi
địa phương có thể chỉ có một hoặc một vài nhà cung cấp nhất định. Tuy
nhiên, ngày nay với sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ, sản
phẩm mới không ngừng xuất hiện trên thị trường. Cùng một loại sản phẩm có
18
thể có nhiều nhà sản xuất, nhãn hiệu và kiểu cách khác nhau. Nếu chỉ dừng ở
việc thông báo sản phẩm, thương nhân chưa thể bán được hàng, và thậm chí
người mua còn có thể nhầm lẫn mà mua sản phẩm cùng loại của thương nhân
khác, khi đó nhà quảng cáo tốn kém chi phí quảng cáo chỉ để làm lợi cho đối
thủ của mình. Do đó, trong mỗi mẫu quảng cáo, nhà quảng cáo luôn cố gắng
đưa ra những điểm đặc trưng, độc đáo trong sản phẩm của họ để khách hàng
tiềm năng có thể nhận biết và lựa chọn. Những đặc điểm này có thể phù hợp
với nhu cầu sẵn có của khách hàng, khiến họ quyết định mua sản phẩm. Cũng
có thể, khách hàng chưa sẵn có nhu cầu, nhưng thông qua sự thể hiện của
quảng cáo, họ phát sinh nhu cầu đối với hàng hoá, dịch vụ với những đặc tính,
đặc điểm nhất định. Trong trường hợp này, kết quả cuối cùng vẫn dẫn tới
quyết định mua hàng của khách hàng.
Những đặc điểm mà quảng cáo nhấn mạnh có thể thuần tuý mang tính
vật chất, là những tính năng, công dụng cụ thể của sản phẩm. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp chúng có thể là những đặc điểm mang tính tâm lý,
cảm xúc. Một chiếc xe hơi hạng sang không chỉ phục vụ nhu cầu đi lại mà
quan trọng hơn còn thể hiện đẳng cấp người chủ của nó. Trong xã hội hiện
đại, nhu cầu về cảm xúc, xã hội hoặc tâm lý ngày càng được đặt lên trên nhu
cầu về tính năng, công dụng của sản phẩm. Con người thể hiện hình ảnh của
mình thông qua những sản phẩm anh ta mua và sử dụng. Việc kết hợp sản
phẩm với những hình ảnh mà đối tượng khao khát đạt đến, hoạt động quảng
cáo tạo cơ hội để khách hàng thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần mang tính
tượng trưng. Thông qua việc định hướng tiêu dùng, quảng cáo luôn luôn trả
lời cho một câu hỏi ngầm của người mua hàng: tại sao tôi lại cần mua sản
phẩm này?
1.1.3.3 Chức năng thúc đẩy thương mại, phát triển kinh tế:
Thông qua vai trò cầu nối giữa người mua và người bán, người sản
xuất và người tiêu dùng, quảng cáo góp phẩn thúc đẩy lưu thông hàng hoá,
dịch vụ và xúc tác cho các giao dịch thương mại trên thị trường. Thương nhân
nhờ quảng cáo có thể bán được nhiều hàng hoá hơn, thu được lợi nhuận tái
đầu tư vào sản xuất. Quảng cáo thúc đẩy hành vi mua hàng hoá, dịch vụ của
người tiêu dùng, và từ việc thúc đẩy tiêu dùng sẽ thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển. Trước đây, quảng cáo có khi bị nhìn nhận với ánh mắt
không thiện cảm, một phần nguyên nhân vì trong điều kiện kinh tế xã hội khó
khăn, chủ trương tiết kiệm được đề cao, các động thái đẩy mạnh tiêu dùng đều
không được khuyến khích. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, cần nhìn
nhận lại quan điểm này, vì trên thực tế, kích cầu dẫn đến kích cung, chỉ khi
đẩy mạnh tiêu dùng thì nền sản xuất kinh doanh mới có thể phát triển, và khi
19
đó quảng cáo có được vai trò xứng đáng hơn. Nhưng mặt khác, kích thích tiêu
dùng lại cần được đặt trong khuôn khổ yêu cầu phát triển bền vững, tiêu dùng
không tràn lan quá mức, gây lãng phí các nguồn lực khan hiếm. Do đó, quảng
cáo một lần nữa bị giới hạn bằng các biện pháp quản lý tránh gây ra những tác
động không lành mạnh cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung.
Mặt khác, do quảng cáo được xác định là một hoạt động xúc tiến
thương mại, nó chỉ đóng vai trò hỗ trợ chứ không trực tiếp can thiệp vào giao
lưu thương mại. Bản thân quảng cáo không thay thế giao dịch trao đổi hàng
hoá. Nội dung thông tin do quảng cáo đưa ra không thay thế nội dung chào
hàng hay hợp đồng. Do đó, các biện pháp điều chỉnh quảng cáo một mặt
nhằm đảm bảo tính chính xác, trung thực nhằm xúc tiến thương mại có hiệu
quả, mặt khác lại phải để chỗ cho những ý tưởng sáng tạo phát triển, phù hợp
với những đặc trưng của loại hình thông tin đặc biệt đã trình bày ở trên.
1.1.4 Phân loại quảng cáo
Trong thực tiễn thương mại đa dạng, hoạt động quảng cáo cũng rất đa
dạng với nhiều loại hình khác nhau, muôn màu muôn vẻ, đặc biệt đây lại là
lĩnh vực cho phép các ý tưởng sáng tạo có đất phát triển. Người ta sử dụng
nhiều tiêu chí khác nhau thể phân loại quảng cáo. Tìm hiểu các loại hình
quảng cáo là cơ sở để xây dựng các cơ chế điều chỉnh thích ứng với thực tế
phát triển của hoạt động đa dạng này.
1.1.4.1 Phân loại căn cứ vào nội dung quảng cáo
Căn cứ vào nội dung thương mại của quảng cáo, người ta chia thành
quảng cáo tổ chức, quảng cáo sản phẩm và quảng cáo thương hiệu
- Quảng cáo tổ chức giới thiệu những thông tin về doanh nghiệp,
thương nhân. Nội dung quảng cáo có thể là công bố tôn chỉ, phương hướng
hoạt động, có thể đề cao những thế mạnh, thành tựu hoặc kỷ niệm một sự kiện
nào đó. Như đã phân tích ở trên, loại hình quảng cáo này không trực tiếp kêu
gọi hành động mua hàng hoá dịch vụ của đối tượng. Mục đích của nó nhằm
phổ biến tên tuổi, nâng cao uy tín của tổ chức kinh doanh, qua đó gián tiếp tạo
thuận lợi, thúc đẩy công việc kinh doanh của nhà quảng cáo.
- Quảng cáo sản phẩm trực tiếp hướng khách hàng đến hành động mua
hàng. Quảng cáo sản phẩm có thể phân chia tiếp thành quảng cáo hàng hoá
và quảng cáo dịch vụ.
Giữa hai hình thức nói trên, từ những năm 40 của thế kỷ 20, xuất hiện
một loại hình trung gian là quảng cáo thương hiệu. Việc làm rõ lý thuyết về
thương hiệu và bản chất thương hiệu vượt quá khuôn khổ của luận văn này,
tuy nhiên cần thấy rằng quảng cáo thương hiệu trong một số trường hợp thể
20
hiện đặc tính của quảng cáo sản phẩm, trong những trường hợp khác lại thể
hiện đặc tính của doanh nghiệp. Đằng sau một thương hiệu có thể là một sản
phẩm, có thể là nhiều sản phẩm thuộc cùng một dòng sản phẩm, thậm chí có
thể là những loại sản phẩm khác biệt nhau. Thậm chí có trường hợp đằng sau
một thương hiệu bao gồm nhiều doanh nghiệp, thương nhân khác nhau thuộc
cùng một tập đoàn hoặc chỉ ràng buộc lỏng lẻo trong hoạt động. Quảng cáo
thương hiệu gần với quảng cáo sản phẩm ở chỗ khuyến khích việc mua hàng
của đối tượng, mặt khác cũng hướng tới việc xây dựng những giá trị ổn định,
bền vững như quảng cáo tổ chức. Đây là một vấn đề thực tế cần chú ý trong
khi xây dựng cơ chế quản lý các hoạt động quảng cáo. Tại Việt Nam khi khái
niệm thương hiệu chưa phổ biến, các quy định điều chỉnh quảng cáo chỉ giới
hạn tới sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, do đó xảy ra trường hợp cơ quan quản lý
không cho phép phát sóng phim quảng cáo Dunhill với lý do đó là quảng cáo
thuốc lá. Quyết định này đã không đứng vững trước lập luận do nhà quảng
cáo đưa ra rằng Dunhill là thương hiệu của một tập đoàn sản xuất nhiều ngành
hàng khác nhau và đại diện cho một loạt các sản phẩm thuộc dòng cao cấp.
1.1.4.2 Phân loại căn cứ vào phương tiện quảng cáo
Do sự đa dạng trong các phương tiện cáo quảng, sự phân loại loại hình
quảng cáo dựa trên tiêu chí này cũng đem lại kết quả đa dạng:
- Quảng cáo tại chỗ: bao gồm các phương tiện quảng cáo thu hút sự
chú ý của công chúng trong một phạm vi không gian nhất định xung quanh
nơi đặt phương tiện. Loại hình quảng cáo này bao gồm cả quảng cáo ngoài
trời (outdoor advertising) thể hiện trên biển, bảng, panô, băng rôn khổ lớn …;
quảng cáo di động (transport advertising) thể hiện trên các phương tiện giao
thông như xe hơi, tàu hoả, tàu điện…; quảng cáo trên các phương tiện bay,
phương tiện phát quang; và trưng bày sản phẩm trực tiếp. Về hình thức cuối
cùng là trưng bày sản phẩm trực tiếp, hiện còn có các quan điểm khác nhau về
việc liệu đây có phải là một hình thức quảng cáo hay không. Luật Thương mại
2005 xếp quảng cáo thương mại và trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ là
hai hình thức xúc tiến thương mại khác nhau, trong khi đó Pháp lệnh quảng
cáo 2002 lại thừa nhận các hoạt động triển lãm, hội chợ là một phương tiện
quảng cáo. Theo quan điểm của người viết luận văn này, cần coi trưng bày
sản phẩm trực tiếp cũng là một hành vi quảng cáo. Về bản chất, cách thức
thực hiện và hiệu quả tác động, việc đặt sản phẩm tại một địa điểm công cộng
cho công chúng có thể nhận biết được hoàn toàn không khác việc lấy hình ảnh
của sản phẩm đó in lên panô, biển bảng đặt cùng một vị trí.
- Quảng cáo báo chí: bao gồm các hoạt động sử dụng phương tiện
thông tin đại chúng để đưa thông điệp quảng cáo đến người tiêu dùng. Quảng
21
- Xem thêm -