VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM TRUNG HIẾU
ĐỒNG PHẠM TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM:
KHÍA CẠNH SO SÁNH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Đề
tài do cá nhân tôi nghiên cứu; các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là
trung thực và có nguồn trích dẫn; bố cục, phông chữ của luận văn đúng
với quy định và đề tài chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
HỌC VIÊN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỒNG PHẠM VÀ SO
SÁNH CHẾ ĐỊNH ĐỒNG PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM ....................................................................................................... 6
1.1. Nhận thức về đồng phạm – đối tượng so sánh .............................. 6
1.2. Những vấn đề lý luận về so sánh chế định đồng phạm trong pháp
luật hình sự Việt Nam ....................................................................... 28
Chương 2. LỊCH SỬ QUY ĐỊNH CHẾ ĐỊNH ĐỒNG PHẠM
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN
NAY ..................................................................................................... 32
2.1. Giai đoạn từnăm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự
năm 1985 ........................................................................................... 32
2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ Luật Hình sự năm 1985 trước khi
ban hành Bộ luật hình sự 2015 .......................................................... 36
2.3. Chế định đồng phạm trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) ................................................................................. 41
Chương 3. SO SÁNH CHẾ ĐỊNH ĐỒNG PHẠM QUA CÁC GIAI
ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ................................................................ 50
3.1. Những điểm khác biệt, tương đồng trong các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam qua các giai đoạn phát triển, hoàn thiện ......... 50
3.2. Giải pháp hoàn thiện chế định đồng phạm trong luật hình sự Việt
Nam ................................................................................................... 54
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ
luật hình sự về đồng phạm ................................................................. 63
KẾT LUẬN .......................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 69
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
CSPL
Chính sách pháp luật
CTTP
Cấu thành tội phạm
HĐTP
Hội đồng thẩm phán
PLHS
Pháp luật hình sự
TANDTC
Tòaán nhân dân tối cao
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TNHS
Trách nhiệm hình sự
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng phạm là một chế định quan trọng trong pháp hình sự Việt
Nam cũng như của các nước khác trên thế giới
Ở Việt Nam, chế định đồng phạm đã được quy định từ rất sớm
trong lịch sử lập pháp hình sự. Tuy nhiên, ở mỗi thời thời kỳ phát triển
của luật hình sự Việt Nam, chế định đồng phạm được quy định có sự
khác nhau nhất định. Mặt khác, so với tội phạm do một người thực hiện,
tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm thường nguy hiển
hơn, đặc biệt khi có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng tham gia
thực hiện tội phạm (phạm tội có tổ chức).
Thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta trong những
năm qua cho thấy tình hình tội phạm thực hiện dưới hình thức đồng
phạm có xu hướng gia tăng.
Mặc dù, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã tập trung đấu tranh quyết
liệt với tội phạm thực hiện bằng đồng phạm và thu được những kết quả
nhất định. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót này có cả nguyên
nhân khách quan, có cả nguyên nhân chủ quan nhất là do quy định của
pháp luật hình sự về đồng phạm, cũng như nhận thức và áp dụng các quy
định này trong thực tiễn giải quyết vụ án đồng phạm.
Do đó, để tạo những chuyển biến căn bản trong nhận thức cũng
như những quy định chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự nhằm
tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho việc giải quyết các vụ ám đồng phạm ở
khía cạnh so sánh. Việc so sánh chế định đồng phạm trong pháp luật
hình sự Việt Nam qua các thời kỳ lập pháp hình sự, cũng như trong pháp
luật hình sự nước ngoài không chỉ giúp chúng ta hiểu được sự tương
đồng và khác biệt trong việc quy định chế định này mà còn góp phần
1
nâng cao hiểu biết về chế định đồng phạm, tìm ra các giải pháp hoàn
thiện pháp luật hình sự thực định và hỗ trợ việc thực hiện và áp dụng
đúng các quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm.
Với lý do đó, học viên lựa chọn đề tài: “Đồng phạm trong pháp
luật hình sự Việt Nam: khía cạnh so sánh” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ý tưởng chọn đề tài làm luận văn của tác giả xuất phát từ thực
tiễn, qua thực tế được tiếp xúc và so sánh các Bộ luật Hình sự, nhất là
việc so sánh chế định đồng phạm qua từng Bộ luật hình sự, từng thời ký
lịch sự phát triển của pháp luật về hình sự.
Trong khoa học luật Hình sự Việt Nam, vấn đề đồng phạm nói
chung được đông đảo các nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, đó với
chỉ là một công trình nghiên cứu về chế định đồng phạm nói chung như:
Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Quang Tiệp về “Đồng phạm trong luật
hình sự Việt Nam” Trường Đại học Luật Hà Nội, 2000.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều bài viết, bài nghiên cứu có tính chất
riêng lẻ, đề cập đến một số vấn đề hoặc một số khía cạnh thuộc chế định
đồng phạm như:
- Lê Cảm, Về chế động đồng phạm trọng Luật Hình sự Việt Nam –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập san Tòa án nhân dân, số 02/1998;
- Trần Quang Tiệp, Khái niệm tội phạm có tổ chức, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 1/1999;
- Trần Quang Tiệp, Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về tổ
chức tội phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4/1999
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay chưa có một công trình
nghiên cứu chuyên khảo, đồng bộ nào nghiên cứu, so sánh chế định đồng
phạm một cách chuyên sâu qua lịch sự phát triển pháp luật hình sự Việt
2
Nam. Nên đây là một trong những lý do là động lực khiến tác giả chọn
đề tài này làm luận văn của mình
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận về đồng phạm, đánh giá các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam qua các thời kì về đồng phạm ở khía cạnh so sánh, luận văn
tìm ra sự tương đồng cũng như sự khác biệt trong các quy định đó, rút
ra những kinh nghiệm và đề ra các giải pháp hoàn thiện quy định về
đồng phạm trong bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành và áp dụng chính
xác quy định này trên thực tiễn.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đồng phạm với tính
chất là đối tượng so sánh.
+ Nghiên cứu làm rõ về mặt lý luận vấn đề so sánh chế định đồng
phạm như: Khái niệm, mục đích, nhiệm vụ, đối tượng phạm vi so sánh.
+ Nghiên cứu so sánh quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
đồng phạm qua các thời kỳ lập pháp hình sự từ năm 1945 đến nay.
+ Rút ra kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định của BLHS hiện hành về đồng phạm trong bối cảnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật thực định về đồng phạm dưới khía cạnh so sánh qua
các thời kỳ lập pháp hình sự ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
3
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận về đồng phạm với
tính chất là đối tượng so sánh đồng thời nghiên cứu so sánh chế định
đồng phạm trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam. Do khuôn khổ của
một luận văn thạc sĩ, luận văn không đặt vấn đề so sánh thực tiễn áp
dụng quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm.
5. Cơ sở lý luận phương pháp nghiên cứu
Đề tài đựợc nghiên cứu dựa trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống
tội phạm. Bên cạnh việc sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương
pháp so sánh, phân tích,tổng hợp, lịch sử và chuyên gia...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận:
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu
về chế định đồng phạm ở khía cạnh so sánh nên đã góp phần vào việc
hoàn thiện lý luận về luật học so sánh.
Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn cung cấp những thông tin, những luận giải khoa học có
giá trị tham khảo hữu ích đối với các cơ sở nghiên cứu, các cơ quan xây
dựng pháp luật và thi hành pháp luật, các học viện, trường đại học về
vấn đề đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ khác
nhau. Từ đó kế thừ những yếu tố hợp lý để tiếp tục hoàn thiện quy định
của BLHS hiện hành về đồng phạm và áp dụng đúng đắn quy định đó
trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm được thực hiện bằng
đồng phạm.
7. Kết cấu luận văn
4
Chương 1: Nhận thức về đồng phạm – đối tượng so sánh.
Chương 2: Lịch sử quy định chế định đồng phạm trong pháp luật
hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
Chương 3: So sánh chế định đồng phạm qua các giai đoạn phát
triển của pháp luật hình sự Việt Nam.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỒNG PHẠM VÀ SO SÁNH
CHẾ ĐỊNH ĐỒNG PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nhận thức về đồng phạm – đối tượng so sánh
1.1.1. Khái niệm, những dấu hiệu pháp lý của đồng phạm
Trải qua lịch sự hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt
Nam đã khẳng định rằng đồng phạm trong hình sự được quy định từ rất
sớm, tuy nhiên việc quy định này mới chỉ dừng lại ở một số mặt nhất
định của đồng phạm mà không đưa ra được những định nghĩa hoặc khái
niệm thể hiện rõ ràng và đầy đủ của đồng phạm. Hiểu rõ được vấn đề
này vì vậy BLHS năm 1985 được ban hành đã đưa ra khái niệm pháp lý
về đồng phạm mới chính thức được quy định tại khoản 1 Điều 17 là:
“Hai hoặc nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng
phạm”, BLHS năm 1999 tiếp tục quy định khái niệm pháp lý về đồng
phạm tại khoản 1 Điều 20 như sau: “Đồng phạm là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”,hiện nay BLHS 2015 kế
thừa hoàn toàn quy định của điều 20 BLHS năm 1999 và tiếp tục quy
định tại điều 17 với nội dung tương tự.
Từ việc đưa ra được khái niệm về đồng phạm và thực tiễn trong
quá trình điều tra các vụ án cho thấy đồng phạm có một số đặc trưng như
sau:
Về mặt khách quan của đồng phạm có những đặc trưng cơ bản sau
đây:
+ Thứ nhất, đồng phạm bắt buộc phải có từ hai người trở lên có đủ
năng lực pháp luật hình sự để tham gia thực hiệnhành vi phạm tội theo
quy định của Bộ luật hình sự.
6
Qua đây đã thể hiện về mặt chủ thể tham gia thực hiện tội phạm là
yếu tố tiên quyết để xác định tính chất của tội phạm. Trong quá trình
điều tra, đối với một tội danh theo quy định của BLHS không nhất thiết
do một người thực hiện mà nó là kết quả của nhiều hành vi, sự móc nối,
phối hợp giữa nhiều chủ thể khác nhau. Việc tham gia thực hiện hành vi
phạm tội của nhiều người đã làm thay đổi về tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm, làm tăng thêm tính nguy hiểm của việc phạm tội. Khi một
tội danh được thực hiện bởi nhiều người thì mọi người cùng phối
hợpthực hiện và mong muốn đạt được kết quả hoặc hoàn thành vai trò
của mình để giúp cho tội phạm được thực hiện.
+ Thứ hai, những người được gọi là đồng phạm khi họ cùng thực
hiện một tội danh được quy định trong BLHS.
Để đưa ra được kết luận điều tra việc phạm tội có là đồng phạm
hay không thì cần lưu ý đến việc những người thực hiện phạm tội có
phải thực hiện một tội danh theo quy định của BLHS hay không?
Yếu tố xác định mọi người cùng thực hiện một tội phạm được hiểu
là những người khi tham gia thực hiện bằng hành vi của mình đã có sự
đóng góp cho việc phạm tội hoặc giúp cho kết quả của việc phạm tội
được như mong muốn. Việc với lỗi cố ý của những người phạm tội đặt ra
yêu cầu mỗi người hoặc một số người thực hiện phạm tội có những vai
trò hoặc hành vi sau: Vai trò người thực hành tội phạm, vai trò tổ chức
thực hiện tội phạm, hoặc có hành vi xúi giục thực hiện tội phạm, hành vi
giúp sức thực hiện tội phạm.
Bằng những hành vi cụ thể, những người tham gia vào vụ án đồng
phạm đều gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của mỗi người
là điều kiện cần thiết cho hoạt động phạm tội chung. Hoạt động của mỗi
7
người đều có mối quan hệ nhân quả với hậu quả chung hoặc với việc
thực hiện hành vi phạm tội chung.
Theo lý luận về hình sự Việt Nam thì tội phạm bao gồm hai loại
sau: Loại có cấu thành tội phạm (CTTP) vật chất và loại có CTTP hình
thức. Đối với loại tội phạm có cấu thành vật chất, hành vi phạm tội phải
gây ra hậu quả thì mới được coi là hoàn thành.
Đối với các tội danh có cấu thành hình thức, việc xác định hậu quả
mặc dù không phải là yếu tố quyết của mặt khách quan tuy nhiên việc
xác định hậu quả lại có ảnh hưởng đến việc ra các mức hình phát khác
nhau đối với từng hạu quả khác nhau.
Việc xác định mối liên hệ giữa các hành vi trong đồng phạmnhằm
xác định dạng quan hệ nhân quả kép trực tiếp (quan hệ nhân quả trong
đó có nhiều hành vi trái pháp luật cùng đóng vai trò là nguyên nhân).
Đối với một tội danh được sự cùng tham gia của nhiều người thì mỗi
hành vi trái pháp luật của từng người đồng phạm sẽ đều có tính chất
nguy hiểm và có sự liên kết với hậu quả phát sinh của từng hành vi.
Tuy nhiên đối với vụ việc mà hành vi của những người đồng phạm
chưa có khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả thì quan hệ nhân quả chỉ
hình thành khi có sự kết hợp các hành vi đó với nhau thành một thể
thống nhất.
Đối với việc nghiên cứu về chế định đồng phạm ngoài xác định về
mặt khách quan, thì một khía cạnh nữa cần tìm hiểu đó là mặt chủ quan
của hành vi phạm tội.
Về mặt chủ quan:
Tội phạm được thể hiện qua các hành vi, các hành vi này có tính
logic và quan hệ mật thiết với nhau, mỗi một tội phạm đều được thể hiện
qua những biểu hiện bên ngoài (hành vi được thực hiện) và biểu hiện ở
8
bên trong đó là tâm lý của người phạm tội.Và việc tìm hiểu biểu hiện của
yếu tố tâm lý người phạm tội là việc xác định mặt chủ quan của những
người phạm tội nói chung và những người đồng phạm nói riêng đang
được nghiên cứu.
a. Dấu hiệu lỗi
Trong đồng phạm ngay từ khái niệm được quy định tại Điều 17
BLHS năm 2015thì đồng phạm chỉ được thực hiện với lỗi cố ý, mỗi
người đóng các vai trò trong đồng phạm đều biết được hành vi của mình
và mỗi liên hệ hành vi của mình với hậu quả xảy ra của việc phạm tội.
Về lí trí:
Mỗi người đồng phạm đều hiểu được và biết rõ hoặc buộc phải
biết rõ hành vi của mình sẽ thực hiện có tính nguy hiểm cho xã hội.
Thực tế qua quá trình điều tra cho thấy trong những vụ án có đồng phạm
một hoặc một số người tuy chỉ biết việc mình thực hiện nhưng họ hiểu rõ
rằng cùng thực hiện với họ còn có những người khác. Họ hiểu người
khác sẽ thực hiện các bước tiếp theo để đạt được kết quả mong muốn và
chính điều này đã tạo lên sự liên kết các mối quan hệ và các hành vi với
nhau làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi đồng phạm.
Do đó, mỗi người đồng phạm có đủ hiểu biết và hiểu rõ hành vi
của mình có tính nguy hiểm cho xã hội như thế nào cũng như hậu quả
hành vi đó, tuy nhiên để đạt được mục đích đã đặt ra mà họ bất chấp tất
cả để thực hiện hoàn thành vai trò cũng như các bước đã được lên từ
trước.
Về ý chí:
Theo định nghĩa được quy định tại Khoản 1 Điều 17 BLHS năm
2015:
9
Ở đây luật hình sự chỉ đưa ra giới hạn “cùng cố ý”, tức lỗi của họ
đều phải là lỗi cố ý chứ điều luật không yêu cầu họ cùng có lỗi cố ý trực
tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp[18, tr.23]. Do đó, điều mà chúng ta quan tâm
khi tìm hiểu dấu hiệu ý chí trong đồng phạm là những người đồng phạm
có cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh
hay không?
Đối với việc xác định dấu hiệu lỗi của đồng phạm thì: Đồng phạm
là những vụ án mà người tham gia phạm tội hiểu rõ hành vi của mình
thực hiện có tính nguy hiểm cho xã hội và mỗi quan hệ nhân quả của
hành vi đối với hậu quả xảy ra. Và những người này luôn mong muốn
đạt được mục đích hoặc hoàn thành kế hoạch đã vạch sẵn trước đó.
Ngoài việc xác định lỗi của những người đồng phạm là lỗi cố ý thì
việc xác định những người đồng phạm này có động cơ và mục đích như
thế nào cũng là một điều cần xác định trong hoạt động điều tra nhằm xác
định có tính chất đồng phạm hay không.
b. Dấu hiệu động cơ, mục đích
Ví dụ: Đối với nhóm các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia.
Việc xác định mục đích cảu các hành vi nhằm chống phá nhà nước,
chống phá chính quyền Việt Nam hoặc nhằm mục đích làm hoạt động
của chính quyền yếu đi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tất
cả các tội phạm. Đây là dấu hiệu đặc trưng của nhóm các tội phạm xâm
phạm an nình quốc gia đề phân biệt với những tội khác có dấu hiệu của
mặt khách quan tương tự.
1.1.2. Ý nghĩa của khái niệm đồng phạm
“Chủ thể của tội phạm là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong
việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng
lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật
10
định (ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể chủ thể của tội phạm còn
có dấu hiệu bổ sung đặc biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương ứng
quy định)”.
1.1.3. Các loại người đồng phạm
1.1.3.1.
Khái niệm người đồng phạm
Đồng phạm theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi
bổ sung năm 2017) sau đây gọi tắt là “BLHS 2015” về cơ bản không có
sự thay đổi về mặt nội dung so với Bộ luật Hình sự năm 1999.
“Chủ thể của tội phạm là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong
việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng
lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật
định (ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể chủ thể của tội phạm còn
có dấu hiệu bổ sung đặc biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương ứng
quy định)”.
Do vậy luật hình sự thế giới nói chung và luật hình sự Việt Nam
nói riêng đều có những căn cứ khác nhau để phân loại người đồng phạm.
Nhìn chung, pháp luật hình sự của các nước đều chú ý phân biệt vai trò
của người thực hành với các loại người đồng phạm khác. BLHS của
Cộng hoà Liên bang Đức dành riêng Điều 47, Điều 48, Điều 49 để quy
định về người thực hành, người xúi giục, người tòng phạm. Mỗi điều
luật đều đưa ra khái niệm chung nhất, đồng thời đưa ra đường lối xử lý
riêng đối với từng loại người đồng phạm.
BLHS Nhật Bản dành cả chương XI để quy định về đồng phạm,
trong đó sự phân loại các loại người đồng chính phạm, người xúi giục,
người giúp sức được quy định tại Điều 60, Điều 61, Điều 62.
Điều 60 quy định: “Hai hoặc nhiều người cùng thực hiện một tội
phạm đều là chính phạm”.
11
Quy định trên cũng được áp dụng đối với người đã xui người khác
xúi giục. Về khái niệm người giúp sức Điều 62 quy định: “ Người giúp
sức là người đã giúp đỡ chính phạm, người đã xui người người giúp sức
bị xử như người giúp sức”.
Về người chính phạm Điều 23 quy định: “Người tổ chức, chỉ huy
các loại hoạt động phạm tội hoặc giữ vai trò chính phạm trong đồng
phạm là chính phạm”.
Điều 24 quy định về người tòng phạm: “Người giữ vai trò thứ yếu
hoặc giúp sức trong đồng phạm là tòng phạm”.
Điểm tương đồng giữa BLHS Liên Bang Nga so với BLHS 2015
chính là sự phân chia các chủ thể trong đồng phạm thành bốn loại người
đồng phạm: người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp
sức.
1.1.3.2.
Người thực hành
Trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta, người thực hành đã được
đề cập đến với những tên gọi khác nhau, Quốc triều hình luật gọi là thủ
phạm, Hoàng việt luật lệ gọi là thủ; Hoàng Việt hình luật gọi là chánh
yếu phạm. Trong văn bản pháp luật hình sự do Nhà nước ta ban hành
trước khi có BLHS cũng đã có cánh gọi khác nhau: Các Sắc lệnh ban
hành ngay sau Cách mạng tháng Tám gọi là chính phạm, đồng phạm đến
Pháp lệnh ngày 30/12/1967 trừng trị các tội phản cách mạng thì gọi là
bọn tham gia. Đặc điểm chung duy nhất là tất cả các văn bản pháp luật
hình sự kể trên đều không có quy phạm định nghĩa người thực hành mà
mới chỉ dừng ở mức quy định tên của loại người đồng phạm này.
Bởi đó là hành vi trực tiếp thực hiện của họ có thể là hành vi
chính được mô tả trong CTTP.
12
Để hiểu thế nào là việc “trực tiếp thực hiện tội phạm”? Vấn đề
này Luật hình sự Việt Nam có quy định như sau:
Người trực tiếp thực hiện tội phạm được hiểu là bằng chính hành
vi của mình, người này đã thực hiện các hành vi được quy định tại tội
danh trong BLHS. Tự mình thực hiện được hiểu là việc dùng các hành
vi, công cụ, phương tiện hỗ trợ hoặc cũng có thể là không hành động để
thực hiện hành vi phạm tội. Trong các vụ án hình sự có lỗi cố ý thì lỗi
này có thể được nhiều người tham gia cùng thực hiện một hoặc một số
hành vi được mô tả trong kết luận điều tra. Thực tế điều tra và xét xử thì
không có yêu cầu mỗi người khi tham gia phải thực hiện hành vi được
mô tả mà nhiều trường hợpchỉ thực hiện một phần nhỏ của hành vi, tuy
nhiên yếu tố quyết định là hành vi tổng hợp của những người tham gia
này phải là hành vi có đủ dấu hiệu của CTTP.
Ví dụ: Anh A, B, C dạo chơi quanh bờ hồ trước trụ sở huyện uỷ
huyện V. Cả ba cùng thống nhất, bàn bạc cắt trộm dây điện thoại lấy lõi
đồng để bán.
Đến khoảng nửa đêm, cả ba đã tiến hành thực hiện hành vi. A và B
dùng dao để cắt cáp còn C đứng gác. Hậu quả phạm tội của chúng đã gây
thiệt hại tổng cộng cho Công ty viễn thông huyên V là 6.534.000 đồng.
Trong vụ án này, hành vi của mỗi người chưa thoả mãn hết các dấu
hiệu được quy định trong CTTP tội trộm cắp tài sản. A và B đã có hành
vi trực tiếp cắt dây cáp điện thoại còn C chỉ thực hiện hành vi cảnh giới
và dịch chuyển dây cáp cắt được tới nơi an toàn. Thế nhưng tổng hợp
hành vi của ba đối tượng thì tội trộm cắp tài sản được coi là hoàn thành.
Ở đây, A và B bằng chính hành vi của mình đã trực tiếp thực hiện hành
vi được mô tả trong CTTP tội trộm cắp tài sản với vai trò là người thực
hành.
13
Trong BLHS Việt Nam có những tội danh đòi hỏi chủ thể phạm tội
có tính chất đặc thù thì những người đồng phạm thực hiện chỉ có thể là
những người có đủ dấu hiệu của chủ thể đặc biệt. Nếu không thỏa mãn
yếu tố về mặt chủ thể thì trong nhiều trường hợp không có đủ cơ sở kết
luận mà chỉ đưa ra được nhận định họ có thể là người giúp hoặc hoặc
hành vi của họ cấu thành tội danh khác. [9, tr.135].
Ví dụ: Đối với tội danh hiếp dâm theo quy định của BLHS Việt
Nam có nhiều ý kiến quan điểm chủ thể thực hiện tội danh này phải là
nam giới, tuy nhiên trong nhiều trường hợp có sự tham gia của nữ giới
đóng vai trò đe dọa, dùng thủ đoạn vũ lực để ép buộc một người phụ nữ
khác giao cấu với nam giới thì trong trường hợp này người phụ nữ ép
buộc có thể chỉ đóng vai trò là người giúp sức.
Cũng là hành vi trên, nhưng giả sử người dùng vũ lực ép buộc là
nam giới thì hành vi của người nam kia không còn là hành vi giúp sức
thông thường mà có đủ cơ sở kết luận người nam này là đồng phạm cùng
thực hành trong tội hiếp dâm.
Họ không có năng lực TNHS hoặc chưa đạt độ tuổi chịu TNHS
theo luật định [9, tr.136]. Như đã phân tích ở phần trên, nếu người thực
hiện tội phạm chưa đạt độ tuổi luật định thì người đó không phải chịu
TNHS về việc làm của mình. Đối với trường hợp không có NLTNHS
cũng tương tự như vậy.
Tại Khoản 1 Điều 17 BLHS 2015 đã quy định: “Đồng phạm là
trường hợp hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm”. Việc
quy định bắt buộc phải có nội dung“cùng cố ý thực hiện một tội
phạm”được coi là yếu tố quyết định của đồng phạm. Trong ví dụ này
người bị tác động đã không có lỗi đối hoặc chỉ là lỗi vô ý để dẫn đến hậu
quả của việc phạm tội mà họ không có nhận thực hoặc mong muốn cùng
14
thực hiện tội phạm. Do vậy không có đồng phạm và TNHS trong trường
hợp này cũng chỉ áp dụng đối với người đã có hành vi thông qua sự tác
động tới người khác để phạm tội.
Chúng ta có thể dựa vào hành vi trực tiếp gây ra tội phạm của họ
để định tội và lượng hình chính xác. Từ đó giải quyết đúng đắn TNHS
của từng người đồng phạm cụ thể.
1.1.3.3.
Người tổ chức
Người tổ chức trong Quốc triều hình luật với các tên gọi người
khởi xướng, người đứng đầu, kẻ chủ mưu, trong nguyên tắc trừng trị
người tổ chức được đặt ra là: “kẻ chủ mưu nặng tội nhất, còn kẻ khác
đều xử giảm một bậc”. Hoàng Việt luật lệ cũng có những quy định tương
tự, chỉ khác ở một điểm gọi là người tổ chức, người tạo ý đầu tiên.
Hoàng Việt hình luật mặc du quy định người tổ chức thuộc phạm trù
người chánh yếu phạm, những cũng đã chỉ ra được một số dấu hiệu của
người tổ chức như: Người gây việc hoặc tạo ý trong một tội đại hình
hoặc trừng trị; người đề xướng hoặc người xúc sử trong một tội đại hình
hoặc trừng trị.
Người tổ chức giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và là mấu chốt
trong vụ án có yếu tố đồng phạm, người này cũng có thể được coi là
xương sống của đồng phạm.
Người chủ mưu là người đưa ra những âm mưu, kế hoạch, phương
án hoạt động của nhóm người thực hiện tội phạm[9, 137]. Những người
đồng phạm khác hoặc người thực hành dựa dựa vào âm mưu của người
tố chức để thực hiện hành vi phạm tội của mình.
Tuy nhiên, thực tế điều tra cho thấy người chủ mưu luôn mong
muốn những người tham gia cùng thực hiện việc phạm tội làm theo
15
những kế hoạch, phương án đã lên từ trước đề đạt được kết quả như
mong muốn của mình.
Ví dụ: Trong một nhóm tội phạm được tổ chức khá chặt chẽ do
Nguyễn Văn A cầm đầu.
Bên cạnh A luôn có Phạm Quốc B (B là cố vấn cho A). B cũng là
người đưa ra mọi sáng kiến thành lập nhóm, vạch kế hoạch chiến lược
cho hoạt động của cả nhóm trong thời gian đầu.
Người cầm đầu được xem như là người đã đứng lên thành lập ra
nhóm tội phạm hoặc là người đừng ra chỉ huy, chỉ đạo những người
tham gia thực hiện tội [9, 137].
Nếu “chủ mưu ” là người đề xướng, có sáng kiến trong việc thành
lập tổ chức tội phạm, làm tham mưu cho tổ chức tội phạm, thì người cầm
đầu đứng ra thành lập tổ chức tội phạm, lôi kéo người khác vào tổ chức
đó, trực tiếp bắt tay vào việc soạn thảo kế hoạch phạm tội, phân công,
giao nhiệm vụ cho những người đồng phạm.
Trong tổng thể mối quan hệ giữa những người đồng phạm trong
một vụ án thì người tổ chức là người giữ vai trò thành lập nhóm đồng
phạm hoặc chỉ đạo hoạt động của nhóm đó. Tuy nhiên có một điều đặc
biệt là hành vi của người tổ chức không được mô ta trong CTTP mà
người tổ chức phải thông qua hành vi của người thực hành mà gây ra
những hậu quả tội phạm.
1.1.3.4.
Người giúp sức
Trong lịch sự lập pháp hình sự Việt Nam, các Bộ luật Quốc triều
hình luât, Hoàng Việt luật lệ chưa có quy định về khái niệm người giúp
sức nhưng trong những điều luật cụ thể đã có sự phân biệt trường hợp
thiếu trách nhiệm với trường hợp giúp sức tạo điều kiện cho người khác
phạm tội ở dạng không hành động.
16
- Xem thêm -