Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giáo dục đạo đức người công an cách mạng cho học viên trường cao đẳng cảnh sát n...

Tài liệu Giáo dục đạo đức người công an cách mạng cho học viên trường cao đẳng cảnh sát nhân dân i trong tình hình hiện nay

.PDF
88
587
125

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------------------ NGUYỄN THỊ MINH PHƢƠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGƢỜI CÔNG AN CÁCH MẠNG CHO HỌC VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN I TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY Chuyên ngành: Triết học Mã số : 60 22 03 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS.ĐẶNG THÁI GIÁP HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Đặng Thái Giáp. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Học viên Nguyễn Thị Minh Phƣơng DANH MỤC VIẾT TẮT CNXH Chủ nghĩa xã hội CNĐQ Chủ nghĩa đế quốc CAND Công an nhân dân CSND Cảnh sát nhân dân CBCS Cán bộ chiến sĩ LLCT, KHXH&NV Lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn ANQG An ninh quốc gia TTATXH Trật tự an toàn xã hội XHCN Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1 Chƣơng 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGƢỜI CÔNG AN CÁCH MẠNG ...........................................................8 1.1. Một số khái niệm ................................................................................................8 1.2. Công tác giáo dục đạo đức người Công an cách mạng ..................................21 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGƢỜI CÔNG AN CÁCH MẠNG CHO HỌC VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG ......26 CẢNH SÁT NHÂN DÂN I ...................................................................................26 2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến công tác giáo dục đạo đức của học viên Trường Cao đẳng CSND I.......................................................................................26 2.2. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức người Công an cách mạng đối với học viên Trường Cao đẳng CSND I hiện nay ...............................................................33 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGƢỜI CÔNG AN CÁCH MẠNG CHO HỌC VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG CẢNH SÁT NHÂN DÂN I GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ................................................................................................58 3.1. Những yếu tố tác động tới công tác giáo dục đạo đức người Công an cách mạng cho học viên Trường Cao đẳng CSND I trong tình hình hiện nay .............54 3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục đạo đức người Công an cách mạng cho học viên Trường Cao đẳng CSND I trong tình hình hiện nay ...........................................................................................62 KẾT LUẬN .............................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................79 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, của ý thức xã hội, một mặt bị quy định bởi cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội; mặt khác nó cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi, nền tảng kinh tế thay đổi, đạo đức xã hội cũng phải thay đổi theo cho phù hợp và tác động tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế. Xu thế hội nhập quốc tế đã và đang tác động mạnh mẽ đến đạo đức xã hội và ngược lại, để phát triển nền kinh tế thị trường rất cần xây dựng và củng cố, phát triển những chuẩn mực đạo đức truyền thống trên cơ sở mới và bổ sung những chuẩn mực đạo đức phù hợp. Giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng cho thanh niên trong thời kỳ đổi mới có nhiều thuận lợi song cũng đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Dưới tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, của hội nhập với thế giới, của âm mưu “Diễn biến hòa bình”… đã làm phát sinh nguy cơ “tự diễn biến’, “tự chuyển hóa”, một bộ phận nhỏ thanh niên sinh ra tâm lý coi thường các giá trị nhân văn, bất chấp đạo lý, giảm sút tình cảm, đạo đức cách mạng. Trong những năm qua, xu thế hội nhập đã và đang tạo ra những chuyển biến sâu sắc đối với mọi mặt của đời sống xã hội nước ta. Việc đi vào kinh tế thị trường, mở rộng hội nhập quốc tế, chúng ta có nhiều thành tựu to lớn rất đáng tự hào về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế thì về mặt xã hội, trong đó có đạo đức đang nảy sinh ngày càng nhiều những vấn đề, những tình huống phức tạp, nhức nhối, những mất mát giá trị truyền thống, những lệch lạc trong định hướng giá trị và lối sống trong nhiều tầng lớp xã hội, trong đó có thanh niên, học viên. Một bộ phận học viên suy thoái về đạo đức, lối sống, thiếu ước mơ và hoài bão, lập thân, lập nghiệp. Trong thi cử, hiện tượng quay cóp, gian lận đang có xu hướng gia tăng, ý thức tổ chức kỷ luật kém, tinh thần trách nhiệm, ý thức 1 cộng đồng thấp. Thêm vào đó, sự du nhập văn hóa phẩm đồi trụy phản nhân văn thông qua các phương tiện như phim ảnh, games, mạng internet... làm ảnh hưởng đến những quan điểm về tình bạn, tình yêu, ảnh hưởng đến đạo đức trong lứa tuổi thanh thiếu niên và học sinh hiện nay. Đây là nỗi lo chung của toàn xã hội. Thực tế đó cho thấy, việc giáo dục đạo đức trong xã hội ta, nhất là đối với thanh niên, học viên là nhiệm vụ hết sức cần thiết và cấp bách. Ở đây, nhấn mạnh đến việc giáo dục đạo đức cho học viên không chỉ xuất phát từ tình huống suy thoái đạo đức hiện nay, cần phải cứu chữa mà còn quan trọng hơn vì định hướng phát triển lâu dài trong tương lai với tầm nhìn và hành động chiến lược. Bởi vì, sinh viên, học viên là tầng lớp xã hội đặc thù, là bộ phân ưu tú, là nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai của đất nước. Việc xây dựng đội ngũ tri thức tương lai đủ sức đủ tài đáp ứng sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I cũng nằm trong vấn đề chung đó. Mặt khác, đối với các trường công an nhân dân, việc đào tạo ra những chiến sỹ công an có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng tư duy sáng tạo trong công tác điều tra được là một đòi hỏi khách quan. Đặc biệt, do đặc thù của công tác công an luôn phải trực tiếp tiếp xúc với mọi mặt của đời sống xã hội, kể cả những hiện tượng tiêu cực trong xã hội; vì vậy, việc giáo dục đạo đức trong các trường công an nhân dân cần phải được chú ý nhiều hơn để đào tạo ra những người chiến sỹ có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt và có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới và nhiệm vụ chính trị được giao. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Giáo dục đạo đức ngƣời Công an cách mạng cho học viên Trƣờng Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I trong tình hình hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học triết học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức từ nhiều góc độ khác nhau. Đó là: 2 + Quan điểm về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường của các nhà lý luận Việt Nam được trình bày trong quyển sách “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên) (Nxb Chính trị quốc gia, 2003). Các tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng và những phương hướng, giải pháp để xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay khá sâu sắc, tuy nhiên, đây mới là tập hợp những bài viết riêng lẻ của nhiều tác giả với những quan niệm khác nhau. + Cuốn “Giáo dục đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) đã đề cập một cách có hệ thống nội dung lý luận cũng như thực tiễn đạo đức xã hội của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời đã khái quát một cách cô đọng những chuẩn mực, truyền thống giá trị đạo đức của dân tộc ta, những nguyên tắc phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm thực hiện đường lối cách mạng Việt Nam. + Quyển sách “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp” do Nguyễn Duy Quý chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, 2006) tìm hiểu vấn đề đạo đức xã hội dưới tác động, ảnh hưởng của kinh tế, chính trị của nước ta hiện nay và phân tích đạo đức của từng nhóm đối tượng, hoàn cảnh cụ thể đạo đức của cán bộ, đảng viên và công chức, đạo đức của sinh viên, đạo đức trong lao động, giao tiếp, đạo đức trong gia đình. + Quyển sách “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Trịnh Duy Huy (Nxb Chính trị quốc gia, 2009), có nội dung khá đầy đủ và hệ thống lý luận, về thực trạng và một số phương hướng, giải pháp để xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Tác giả cho rằng xây dựng và phát triển đạo đức phải dựa trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và chỉ ra những chuẩn mực cơ bản của đạo đức đang được xây dựng ở nước ta 3 bao gồm: chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế trong sáng; tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng; tinh thần lao động tự giác, sáng tạo; tinh thần nhân đạo và một số giá trị khác nhau như: bình đẳng, công lý, nhân quyền, yêu thiên nhiên, sự lương thiện, thận trọng, tự giác, tự trọng. + “Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong tình hình mới” của Phạm Đình Nghiệp (Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000). + “Phát huy kết quả 65 năm CAND học tập và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình mới”, GS - TS Trần Đại Quang, Tạp chí KHGD & AN 5/2013. + “Giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên CAND theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nguyễn Xuân Lý, Tạp chí KHGD & AN 5/2013. Ngoài ra có rất nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên, học viên và thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay. Đó là: + Đề tài “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của Lê Thị Hoài Thanh (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003). Đề tài phân tích quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho sinh viên. Trên cơ sở đó, đề tài nêu một số giải pháp cụ thể: Kết hợp giáo dục truyền thống và hiện đại trong gia đình, nhà trường và xã hội, tạo môi trường giáo dục lành mạnh và thống nhất; kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục pháp luật, tạo mội trường pháp lý cho việc kết hợp truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức; đổi mới hình thức và phương pháp giáo dục. + “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế một số trường cao đẳng, đại học ở Hà Nội)”, Luận văn thạc sĩ của Doãn Thị Chín (2004). + Đề tài “Đạo đức của sinh viên trong điều hiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp” của Vũ Thanh Hương (Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004). Qua khảo 4 sát một số trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội, đề tài phân tích thực trạng đạo đức sinh viên trong điều kiện hiện nay và nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay như: Tạo lập môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh, nâng cao ý thức tự giác giáo dục đạo đức của sinh viên, đổi mới nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên. Như vậy, vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức là vấn đề rất được xã hội quan tâm. Đối với học viên trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I là đối tượng có những nét đặc thù riêng. Vì thế, việc giáo dục đạo đức người Công an cách mạng cho đối tượng này cần tiếp tục tìm hiểu, lý giải khoa học thêm để có được phương hướng và những giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức hiện nay trong trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I. Những công trình trên là nguồn tài liệu quý giá để chúng tôi kế thừa và tiếp tục đi sâu nghiên cứu về vấn đề “Giáo dục đạo đức ngƣời Công an cách mạng cho học viên Trƣờng Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I trong tình hình hiện nay”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Phân tích tầm quan trọng, thực trạng, nguyên nhân của giáo dục đạo đức mới cho học viên trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I trong thời gian qua từ đó, đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức người Công an cách mạng cho đối tượng này trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích nội dung những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giáo dục đạo đức người Công an cách mạng cho học viên trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I trong tình hình ở Việt Nam hiện nay. 5 - Đánh giá thực trạng, rút ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức cho học viên trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I trong tình hình hiện nay. - Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho học viên trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I trong tình hình hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu - Vấn đề đạo đức và đạo đức người Công an cách mạng. - Thực tiễn giáo dục, rèn luyện đạo đức đối với học viên trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Học viên trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I và vấn đề giáo dục đạo đức cho học viên trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I. - Thời gian từ 8/2010 đến 8/2015. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách giáo dục pháp luật của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản quy định của Bộ Giáo dục, Bộ Công an có liên quan đến giáo dục lý luận chính trị, lối sống trọng các trường Đại học, Cao đẳng và trong các trường Công an nhân dân. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng về đạo đức và giáo dục đạo đức. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phân tích tổng hợp, lịch sử - logic , so sánh, điều tra xã hội học và thống kê toán học. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm rõ cở sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục đạo đức người Công an cách mạng cho học viên trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I trong tình hình hiện nay, từ đó, đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức cho học viên Trường Cao đẳng CSND I. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu khoa học, ứng dụng vào công tác giảng dạy và giáo dục đạo đức người Công an cách mạng nói chung và giáo dục đạo đức cho học viên Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I và các trường Công an nhân dân trong cả nước. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài bao gồm 3 chương, 6 tiết. 7 Chƣơng 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGƢỜI CÔNG AN CÁCH MẠNG 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Đạo đức và đạo đức người Công an cách mạng 1.1.1.1. Đạo đức Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội ra đời từ rất sớm trong lịch sử, nó phản ánh khả năng tự chủ của con người. Do lịch sử hình thành và phát triển của mỗi cộng đồng khác nhau. Do vậy, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc có nhiều quan điểm khác nhau về đạo đức. * Quan niệm Nho giáo Người đặt nền móng, xây dựng nên học thuyết Nho giáo là Khổng Tử (551- 479 tr.CN) , với việc đề ra học thuyết Nhân - Lễ - Chính danh. Nhân theo Khổng Tử gồm: trung, hiếu, kính, khoan, hòa, cần mẫn, thật thà, khiêm tốn, dũng cảm, học gắn với hành, tự trách mình hơn trách người, thận trọng, biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng ghét… Nhân là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người và những mối quan hệ giữa người với người từ trong gia đình, gia đình đến ngoài xã hội. Nhân là gốc của đạo đức con người, là đạo làm người. Lễ theo Khổng Tử là hình thức biểu hiện của “nhân”, là những quy phạm, nguyên tắc đạo đức của nhà Chu (thế kỷ IX tr.CN), tức là những phong tục, tập quán, những quy tắc trật tự xã hội, những thể chế pháp luật của nhà nước. Chính danh là con đường để đạt tới điều nhân, để đưa xã hội từ loạn thành trị. Khổng Tử kịch liệt phản đối đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn trong xã hội, ông chủ trương “lấy hòa làm quý”, lấy “nghèo làm vui”, ông khuyên mọi người hãy an phận. Ông cho rằng mỗi cá nhân, sự sống, cái chết, phú quý hay nghèo hèn đều là do “thiên mệnh” (mệnh trời) quy định. Nhưng bằng nỗ lực chủ quan của mình con người có thể thay đổi được “thiên tính” 8 ban đầu qua quá trình tiếp xúc, học tập và “tu thân”. Đây là điểm rất đáng chú ý trong quan niệm của Khổng Tử. Người tiếp tục phát triển Nho giáo là Mạnh Tử (371 - 289 tr.CN). Theo Mạnh Tử “bản tính con người ta là thiện, còn như người ta làm những điều bất thiện chẳng qua là họ theo dự định của mình, chứ không phải bản tính con người ta là như vậy”. Theo ông, tính thiện của con người vốn sinh ra đã có. Tính thiện bắt nguồn từ tâm, nhờ tâm mà phân biệt được phải trái, thiện ác. Nhờ tâm mà nhận biết được nhân, lễ, nghĩa, trí, vì “tâm” có “lương năng” không học mà biết và “lương tri” - không suy nghĩ mà biết. Để bảo tồn và phát triển “tâm, tính” - lương tâm, tính thiện của con người, Mạnh Tử chủ trương cần phải có sự rèn luyện, giáo dục đạo lý cho con người. Nhược điểm lớn của Mạnh Tử là lảng tránh hiện thực, tìm về con đường nội tỉnh, tự suy xét, tự kiểm điểm mình về đạo đức làm chính, coi đó là niềm vui duy nhất, phải “chờ thời”, phải “đợi mệnh trời”, không được “làm việc nguy hiểm để cầu may”. Tuy nhiên, có điểm đúng là ông khuyên mọi người phải luôn tự sửa mình, giữ tâm mình cho chính thì mới giáo dục được người khác, vì theo ông “mình cong queo không thể nào sửa cho người khác ngay thẳng được”. Nho giáo coi tu thân là gốc, là nền tảng để củng cố các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội. Nho giáo cho rằng bản thân mình có tốt, có thiện, có hiểu biết, sống có nhân nghĩa, nói có tín thực và giao tiếp đúng lễ thì mới làm gương cho người khác noi theo, mới có khả năng “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nho giáo coi trọng đạo tu thân, tu dưỡng đạo đức theo “lễ”, ứng xử đúng với danh phận, tích cực rèn luyện bản thân bằng học tập đi đôi với thực hành đạo đức và phải hàng ngày tự kiểm điểm bản thân. Như vậy, Nho giáo có cả mặt tích cực và tiêu cực, nó hướng cá nhân mỗi người cũng như mọi người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, tích cực học tập để tiến bộ giúp ích cho nước, cho dân, nhưng nó cũng kích thích tính gia trưởng độc đoán, không khuyến khích phát triển các ngành 9 khoa học tự nhiên. Do đó đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất, kìm hãm sự phát triển xã hội. * Quan điểm của Đạo giáo Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr.CN) là ông tổ của Đạo giáo, với việc đề ra: học thuyết về “đạo”; tư tưởng về phép biện chứng và học thuyết “vô vi” hay những vấn đề về đạo đức nhân sinh, chính trị - xã hội. Ông cho rằng “Đạo” vừa là duy nhất, vừa thiên bình, vạn trạng, biến hóa vô cùng và mang tính bất biến, vừa là “hữu”, vừa là “vô”. “Đạo” sinh ra vạn vật, không có ý chí dục vọng và không có mục đích định trước, nó không làm chúa tể để chi phối vạn vật mà thuộc theo sự phát triển tự nhiên của vạn vật. Mở rộng quan điểm về “đạo” trong đời sống xã hội, Lão Tử chủ trương thuyết “vô vi”, nghĩa là sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không hành động có tính giả tạo, gò ép, trái bản tính tự nhiên của mình, không can thiệp vào guồng máy của tự nhiên. “Vô vi” là “không làm gì”, mà chỉ bảo vệ, giữ gìn bản tính tự nhiên của mình và của vạn vật, không ham muốn, không dục vọng, không thể chế, không pháp luật, không bị ràng buộc bởi truyền thống đạo đức. Từ đó ông phản đối hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội, phản đối sự áp bức, bóc lột của bọn quý tộc, nhưng trong hành động lại thụ động, tiêu cực, thủ tiêu đấu tranh. Một trong những nhà tư tưởng lớn của trường phái Đạo giáo là Trang Tử (369-286 tr.CN), với việc ngã theo chủ nghĩa hoài nghi, tương đối luận và chủ nghĩa thần bí. Ông cho rằng những điều phải trái, thiện ác không có tiêu chuẩn khách quan, không thể biết được chân lý khách quan, mọi vật đều chỉ là tương đối, mỗi người đều có chỗ phải, chỗ trái, chỗ tốt, chỗ xấu của riêng mình, không người nào giống người nào. Từ đó ông khẳng định những hiện tượng thiện ác, đẹp xấu, lớn nhỏ, sang hèn, sống chết, còn mất… đều là những thể như nhau, cần phải có thái độ làm ngơ để mặc cho phải trái tự nhiên phát triển, không cần phân biệt chân lý và sai lầm, nên thực hiện “vô vi, vô sự”, không nên “lấy người hại trời, lấy việc hại mệnh, làm tổn hại đến tự do bình đẳng của vạn vật và con người”. Như vậy, quan điểm đạo đức của 10 Trang Tử thực chất cũng là thoát ly thực tiễn, phủ nhận mọi giá trị đạo đức, phủ nhận đấu tranh giai cấp trong xã hội phong kiến mục nát, suy tàn, bảo vệ hình thái ý thức chủ nô thời chiến quốc. * Quan điểm Phật giáo Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni, còn gọi là Siddharta (563 - 483 tr. CN). Đạo Phật ra đời là sự phản kháng sự ngự trị của Đạo Bàlamôn và chế độ phân chia đẳng cấp cực kỳ hà khắc trong xã hội Ấn Độ cổ đại. Phật giáo cho rằng đời người là bể khổ, cái khổ đó tồn tại triền miên trong suốt con người từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi. Phật giáo đã lý giải căn nguyên của nỗi khổ ấy và tìm con đường giải thoát khỏi nỗi khổ trầm luân. Con đường giải thoát khỏi bể khổ nằm trong “Tứ diệu đế”: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Theo con đường “bát chính đạo”, “tiêu diệt vô minh” con người có thể diệt trừ được vô minh, giải thoát và lên cõi Niết bàn, là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt vòng sinh tử luân hồi. Phật giáo khuyên con người ta tự giác tu luyện, điều chỉnh nhận thức đúng đắn, kiên trì hành vi hướng thiện thì sẽ chuyển ác thành hiện, sửa tà thành chính để đạt tới sự giải thoát. Phật giáo không thừa nhận có thần thánh, đồng thời “còn tích cực chống chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo bất công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội; nói lên khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, kêu gọi lòng từ bi, hỉ xả, nêu cao thiện tâm, bình đẳng, bác ái hướng con người “vào con đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức”. * Quan điểm đạo đức trong xã hội Hy Lạp cổ đại Đêmôcrít (khoảng 460 - 370 tr. CN) quan niệm đối tượng nghiên cứu của đạo đức học là cuộc sống, hành vi, số phận của mỗi cá nhân. Hạt nhân trung tâm trong đạo đức của ông là lương tâm trong sáng, là sự lành mạnh về tinh thần của từng cá nhân. Ông yêu cầu “mỗi người phải sống đúng mực, ôn hòa, không vô độ mà gây hại cho người khác”, ông chống lại sự giàu có quá đáng và thu lợi bất lương. Ông cho rằng, hạnh phúc hay bất hạnh, giàu có hay 11 nghèo nàn, thành công hay thất bại đều do hoạt động kinh tế (thủ công và thương mại) tạo ra, không do “Thượng đế” chi phối. Ông đề ra tiêu chuẩn đánh giá đạo đức tốt hay xấu của từng cá nhân là để nhận ra người trung thực ra không trung thực, phải căn cứ không chỉ vào việc làm của họ mà còn vào ý muốn của họ, gắn động cơ, ý thức với hành động, đó là quan niệm tiến bộ của ông. Platôn (427 - 347 tr.CN), là học trò của Xôcrát nên ông tiếp thu và phát triển quan niệm đạo đức của Xôcrát theo hướng duy tâm khách quan. Nếu Xôcrát thừa nhận đạo đức con người và tri thức thống nhất là một, cái thiện phổ biến (cái chung) là cơ sở của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức hạnh, thì Platôn lại cho rằng linh hồn được tạo ra bởi “Thượng đế” mới là cơ sở, nền tảng tạo nên đời sống đạo đức. Theo Platôn, giữa linh hồn và thể xác hoàn toàn đối lập nhau, thể xác chỉ là chỗ trú ngụ tạm thời của linh hồn. Thể xác không bất diệt, chỉ có linh hồn mới bất diệt. Nhưng linh hồn cũng bao gồm ba phần: lý tính, xúc cảm và cảm tính, trong ba phần ấy chỉ có lý tính là bất diệt; tương ứng với ba phần của linh hồn con người, xã hội sẽ có ba hạng người, ba đẳng cấp tùy thuộc người ấy có bộ phận linh hồn nào giữ vai trò chủ đạo. Theo ông, sở hữu tư nhân là nguồn gốc sinh ra điều ác, các mối bất hòa làm băng hoại đời sống đạo đức, nên cần loại bỏ sở hữu tư nhân khỏi đời sống xã hội, nhưng cần phải duy trì các hạng người khác nhau do giữa các hạng người này không có sự bình đẳng hoàn toàn. Như vậy về đạo đức học của Platôn là nhà đạo đức duy tâm, phân biệt đẳng cấp, bênh vực, bảo vệ lợi ích của tầng lớp quý tộc chủ nô, chống lại nền dân chủ Aten, đối lập với đạo đức học tiến bộ duy vật của Đêmôcrít . Mặc dù ông đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra mọi bất công xã hội là sở hữu tư nhân. Sau thời kỳ cổ đại, với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất, cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt của giai cấp nô lệ chống giai cấp chủ nô và các cuộc đấu tranh liên miên, tàn khốc giữa các nhà nước chủ nô đã dẫn đến sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ ở cả phương Đông lẫn phương Tây làm xuất hiện chế độ xã hội mới: xã hội phong kiến. Nho giáo, Đạo giáo, Bàlamôn giáo, 12 Phật giáo… ở phương Đông trở thành tư tưởng thống trị đời sống tinh thần của xã hội, còn ở phương Tây là thần học, giáo hội, nhà thờ và tín ngưỡng tôn giáo. Các vua, chúa phong kiến trở thành những “thiên tử”, những “đấng tối cao” thống trị xã hội, bóc lột, đàn áp thậm tệ người nông dân. * Quan niệm mác - xít về đạo đức Những quan niệm đạo đức trước Mác tuy có những hạn chế do hoàn cảnh lịch sử, do địa vị giai cấp và nhận thức, nhưng cũng có những sự đóng góp nhất định để hình thành một bộ môn khoa học mới - đạo đức học mác xít. Đạo đức học mác - xít đã khắc phục mặt hạn chế, kế thừa yếu tố tiến bộ để đưa ra quan niệm đúng đắn, khoa học về đạo đức. Theo quan niệm Mác - xít, “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy chuẩn, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [50, tr.8]. Định nghĩa trên cho thấy, triết học, chính trị, pháp quyền, nghệ thuật, tôn giáo… đạo đức là hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống xã hội dưới các góc độ, khía cạnh khác nhau. Đời sống xã hội (xét đến cùng là chế độ kinh tế - xã hội) là nguồn gốc nảy sinh các quan điểm về đạo đức của con người - như Ph.Ăngghen đã khẳng định trong tác phẩm Chống Đuyrinh: “Chung quy mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [68, tr.161]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin , đạo đức được sinh ra trước hết từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội, quản lý xã hội, phân phối sản phẩm và trong quan hệ giữa con người với con người để con người tồn tại và phát triển. Chính lao động là giá trị đạo đức hàng đầu của mọi thang bậc giá trị, vì nó sáng tạo ra giá trị cao nhất, sáng tạo ra con người, hoàn thiện phẩm cách con người để xã 13 hội tồn tại và phát triển vì: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người” [15, tr.641]. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, xã hội tư bản tất yếu sẽ bị diệt vong, xã hội cộng sản chủ nghĩa nhất định sẽ thay thế xã hội tư bản, người thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy là giai cấp công nhân, giai cấp vô sản. Sau khi giành được chính quyền, thiết lập sự thống trị chính trị của mình, cùng với việc xây dựng xã hội mới tiến bộ, giai cấp vô sản sẽ xây dựng nên nền đạo đức mới của mình, đó là đạo đức cộng sản. Đạo đức cộng sản là giai đoạn cao trên con đường phát triển của đạo đức nhân loại, theo V.I.Lênin, đạo đức cộng sản đó là: “Những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo xã hội mới của người cộng sản” [69, tr.41], vì vậy đạo đức cộng sản phản ánh lợi ích căn bản của giai cấp công nhân xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa. 1.1.1.2. Đạo đức người Công an cách mạng Kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng. Theo Hồ Chí Minh, tiêu chí để đánh giá chính xác đạo đức con người là ở hành động, việc làm, cách đối nhân xử thế. Đạo đức phải được xem xét trong 3 mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với công việc. Trong 3 mối quan hệ đó, hoạt động của con người hình thành nên những hành vi, chuẩn mực đạo đức. Đó là việc mình có nghiêm khắc với bản thân hay không? Thái độ của mình với ông bà, bố mẹ, anh chị, em, đối với đồng chí, đồng đội, cấp trên, cấp dưới, đối với quần chúng nhân dân, đối với Đảng, với 14 Nhà nước, đối với kẻ thù như thế nào? Mình có hết lòng, toàn tâm, toàn ý với công việc này không? Điều đó xác định đạo đức của mỗi con người. Trong thư gửi đồng chí Hoàng Mai - Giám đốc Sở Công an khu XII, Người viết: Tư cách người Công an cách mạng là: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính. Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ. Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép. Đối với công việc, phải tận tụy. Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo” [35, tr.406]. Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức không phải chỉ là những lý tưởng cao xa mà đó là những thái độ, hành vi, việc làm cụ thể của mỗi người hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống sinh hoạt, trong học tập, trong lao động và trong chiến đấu. Mặt khác, Hồ Chí Minh còn chỉ ra đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường là hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ không có đạo đức đời thường tách rời với đạo đức cách mạng và cũng không thể có đạo đức cách mạng đứng ngoài với đạo đức đời thường. Vì vậy, không thể bào chữa cho khuyết điểm của bản thân mình đó là việc riêng của mình không liên quan gì với cái chung. Cái riêng phải phù hợp với cái chung, cái riêng mà đi ngược với cái chung là chủ nghĩa cá nhân là vi phạm đạo đức. Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc công, từ học tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày, từ gia đình tới xã hội, từ giai cấp đến dân tộc và từ quốc gia đến quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động của đời sống xã hội và mỗi con người. Đồng thời, Hồ Chí Minh đã nêu những chuẩn mực chung có ý nghĩa cơ bản và có tính phổ cập đối với mọi người, mọi tầng lớp, đồng thời Người cũng chỉ rõ những chuẩn mực cụ thể đối với từng tầng lớp như: công nhân, nông dân, thanh niên, 15 phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng, Bộ đội, Công an... Song đối tượng Người chú ý nhiều nhất là đạo đức của người cách mạng, người cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh xem đạo đức là nền tảng của người cách mạng cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người còn ví đạo đức đối với người cách mạng như là sức khỏe của người gánh nặng và đi xa. Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ cách mạng hoàn toàn không dễ dàng, đơn giản mà bao giờ cũng khó khăn, phức tạp. Thực hiện nhiệm vụ cách mạng, đòi hòi người cách mạng phải có quyết tâm phấn đấu thật cao, phải dám hy sinh, phải kiên trì bền bỉ. Vì thế: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang” [42, tr.283]. Người cán bộ đảng viên lại càng cần phải có đạo đức cách mạng. Vì “không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [35, tr.253]. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo không phải là ra lệnh mà chủ yếu bằng lôi kéo, thuyết phục. Để lôi kéo thuyết phục con người, trước hết phải từ cái tâm, cái đức của con người, phải miệng nói, tay làm, phải đầu tầu gương mẫu. Hồ Chí Minh cho rằng, lấy đạo đức làm gốc, không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, “hồng” và “chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia, Tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ II, Người nói: “Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người” [42, tr.172]. Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Như vậy, đạo đức theo quan niệm của Hồ Chí Minh được hiểu là toàn bộ những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan