BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC
GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TRẦN THỊ TÙNG LÂM
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KỸ THUẬT)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC
GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TRẦN THỊ TÙNG LÂM
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KỸ THUẬT)
Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số
: 62 31 02 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS NGUYỄN VŨ TIẾN
2. TS. NGUYỄN THỊ HỒNG
HÀ NỘI 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án
tiến sĩ “Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường
đại học ở Hà Nội hiện nay (qua khảo sát một số trường đại học đào tạo
các ngành kỹ thuật)” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các
đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận án
Trần Thị Tùng Lâm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI ......................................................................................................................... 7
1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa học đường và giáo dục văn hóa học
đường ...................................................................................................................... 7
1.2. Nghiên cứu về hiệu quả và hiệu quả giáo dục văn hoá học đường ...............25
1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu ......................................................30
Chƣơng 2. HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG CHO SINH VIÊN
ĐẠI HỌC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ...........................................................35
2.1. Văn hóa học đường và giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên đại học .35
2.2. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường đại học.....48
2.3. Những yếu tố chi phối đến hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh
viên .......................................................................................................................67
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG
CHO SINH VIÊN QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO
CÁC NGÀNH KỸ THUẬT Ở HÀ NỘI ................................................................78
3.1. Thực trạng giáo dục văn hóa học đường trong các trường đại học đào tạo các
ngành kỹ thuật ở Hà Nội ......................................................................................78
3.2. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên trong các trường đại
học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội ............................................................94
3.3. Đánh giá chung về hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên và
những vấn đề đặt ra ............................................................................................116
Chƣơng 4. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO
DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở
HÀ NỘI HIỆN NAY ...........................................................................................128
4.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên 128
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên hiện
nay ......................................................................................................................133
KẾT LUẬN ........................................................................................................156
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................159
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ ................................169
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Cán bộ nhân viên
Chủ nghĩa xã hội
Giảng viên
Giáo dục văn hóa học đường
Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường
Sinh viên
Văn hóa học đường
: CBNV
: CNXH
: GV
: GDVHHĐ
: HQGDVHHĐ
: SV
: VHHĐ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Cách tiếp cận khác nhau về văn hóa ......................................................... 9
Biểu đồ 3.2.1: Tỷ lệ % sắp xếp các tiêu chí mà sinh viên muốn phấn đấu đạt
được thể hiện HQGDVHHĐ từ tiêu chí tinh thần ................................................... 99
Biểu đồ 3.2.2a: Tỷ lệ % kết quả sinh viên rèn luyện (đức dục) .........................106
Biểu đồ 3.2.2b: Kết quả học tập của sinh viên tại trường qua hàng năm (tỷ lệ %
thể hiện HQGDVHHĐ xét từ tiêu chí thực tiễn) ...............................................110
Biểu đồ 3.3.3: Kết quả học tập của, sinh viên của trường qua hàng năm (tỷ lệ %
thể hiện HQGDVHHĐ xét từ tiêu chí thực tiễn) ...............................................121
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được Đại hội Đảng XI (năm 2011) thông qua, đã định hướng phát triển văn hóa:
“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân
chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống
xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của
phát triển…” [6; Tr.37].
Văn hóa được coi là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế,
làm hài hòa, lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ các nền văn minh sớm nhất, văn
hóa luôn luôn gắn liền với giáo dục và giáo dục cũng song hành với văn hóa.
Ngày nay, đào luyện lực lượng sinh viên phát triển toàn diện cả đức, trí, thể mỹ
là vun bồi một nguồn lực quý báu của đất nước, là kiến tạo tiền đồ, tương lai của
dân tộc. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến nhiệm vụ này, đã phải ra 2 nghị
quyết chuyên đề chỉ đạo trong một nhiệm kỳ. Đó là Nghị quyết hội nghị Trung
ương 8 khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) “Về đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập” và Nghị quyết hội
nghị Trung ương 9 khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) “Về Xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững đất
nước”. Hai nghị quyết này đã xác định những nội dung và giải pháp xây dựng
văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới. Đây
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, trụ cột của công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay. Trách nhiệm đó trước hết thuộc về ngành giáo dục, nhất là giáo dục
bậc đại học. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, một trong những biện pháp quan
trọng là xây dựng trường đại học thật sự trở thành môi trường văn hóa và làm
những giá trị, chuẩn mực hành vi văn hóa đó thấm sâu và chuyển hóa thành
những phẩm chất và năng lực tốt đẹp trong sinh viên, định hình nên nhân cách
sinh viên phù hợp với mục tiêu giáo dục và đào tạo và đáp ứng được yêu cầu của
xã hội, thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam
theo Nghị quyết của Đảng.
2
Trên thực tế ở các trường đại học hiện nay, phần lớn sinh viên vẫn giữ
được những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống như: tôn sư trọng đạo, tích cực,
chủ động, sáng tạo trong học tập; nêu cao ý thức trách nhiệm, rèn luyện phẩm
chất đạo đức, lối sống lành mạnh, dám đấu tranh chống lại những tiêu cực; tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tương lai của đất nước. Bên cạnh đó, trước
sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, sự bùng nổ thông tin qua Internet,
các mạng xã hội; sự du nhập ào ạt các trào lưu văn hóa, quan niệm sống lai căng
cùng với sự chống phá, lôi kéo từ hệ tư tưởng thù địch với những sản phẩm
mang danh văn hóa, một bộ phận thanh niên, trong đó có sinh viên trong các
trường đại học chạy theo lối sống thực dụng, xa lạ với các giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp, vô tổ chức, vô kỷ luật… không có ý chí vươn lên. Tình trạng tội
phạm và tệ nạn xã hội trong sinh viên có chiều hướng gia tăng về quy mô, phức
tạp về tính chất, gây nhức nhối cho gia đình, nhà trường và xã hội. Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII chỉ rõ: “Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo
dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy
trò, bè bạn, môi trường sư phạm xuống cấp; lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn
chơi, nghiện ma túy, tệ nạn xã hội…ở một bộ phận học sinh, sinh viên; việc coi
nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và coi nhẹ các bộ môn chính trị, khoa học xã hội
và nhân văn” [24, tr.47].
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đánh giá: “Chất lượng giáo dục và đào
tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao
vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa
giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng,
giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc
hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề
đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất
cập. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn
chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội.”[28, tr. 167, 168]
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm
3
vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020 có đề cập đến vấn đề giáo dục:
“Phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học, công nghệ còn chậm. Chất
lượng giáo dục, đào tạo, nhất là giáo dục đại học và đào tạo nghề cải thiện còn
chậm; thiếu lao động chất lượng cao. Hệ thống giáo dục còn thiếu tính liên
thông, chưa thật hợp lý và thiếu đồng bộ. Công tác phân luồng và hướng nghiệp
còn hạn chế. Đổi mới giáo dục, đào tạo có mặt còn lúng túng. Tình trạng mất cân
đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo khắc phục còn chậm, công tác
đào tạo chưa gắn chặt chẽ với nhu cầu xã hội. Cơ chế, chính sách có mặt chưa
phù hợp; xã hội hóa còn chậm và gặp nhiều khó khăn, chưa thu hút được nhiều
nguồn lực ngoài nhà nước cho phát triển giáo dục, đào tạo. Cơ sở vật chất vẫn
còn thiếu và lạc hậu. Chất lượng dạy và học ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số còn thấp. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu
cầu.”[32, tr.248- 249]
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là nhiều trường chỉ tập
trung vào việc dạy tri thức, kỹ năng… mà ít chú trọng giáo dục nhân cách, đạo
đức, lối sống lành mạnh, tích cực cho sinh viên. Kết quả là môi trường học
đường nơi văn hoá đáng được coi trọng lại đang diễn ra thực trạng thiếu văn hoá.
Điều này chứng tỏ kết quả giáo dục văn học đường chưa cao, nhận thức về văn
hóa học đường chưa đúng, giáo dục văn hóa học đường trong các trường đại học
chưa thực sự đạt hiệu quả. Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục văn hóa học đường là
một bộ phận của công tác tư tưởng. Định hướng và chuẩn mực của nó phải phù
hợp với lý tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tuân thủ pháp luật của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao hiệu quả giáo dục văn học đường trong trường đại học là điều
kiện để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo và nâng cao chất lượng, để
đào tạo ra những sinh viên có đủ đức, đủ tài đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
sự nghiệp đổi mới và xu thế hội nhập quốc tế nhất là trong điều kiện cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, của thị trường lao động trong kỷ nguyên số nền sản xuất
của con người đạt đỉnh cao của sự thông minh, với các ứng dụng kỹ thuật sáng
tạo không ngừng, với nền tảng công nghệ số, với mạng lưới internet của vạn vật
và trí tuệ nhân tạo… Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả chọn: Hiệu
quả giáo dục văn học đường cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay
4
(qua khảo sát một số trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật) làm đề tài luận
án tiến sĩ của mình. Kết quả nghiên cứu thành công có thể ứng dụng ở nhiều
trường đại học đào tạo các khối ngành khác nhau, góp thêm một căn cứ lý luận
và thực tiễn vào hệ thống những giải pháp thực hiện đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả giáo
dục văn hóa học đường cho sinh viên, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả
giáo dục văn hóa học đường, luận án đánh giá thực trạng hiệu quả giáo dục văn
hóa học đường và đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
văn hóa học đường cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả luận án cần hoàn thành những
nhiệm vụ:
- Tổng quan và có đánh giá, nhận định về tình hình nghiên cứu có liên quan
đến hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường đại học.
- Làm rõ khái niệm, nội dung, biểu hiện đặc trưng của văn hóa học đường
và giáo dục văn hóa học đường trong trường đại học. Xây dựng tiêu chí đánh giá
hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh viên ở các trường đại học.
- Khảo sát thực tế, phân tích thực trạng văn hóa học đường, giáo dục văn
hóa học đường và hiệu quả giáo dục văn học đường của sinh viên các trường đại
học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội. Phát hiện nguyên nhân và những vấn
đề đặt ra trong giáo dục văn hóa học đường và hiệu quả giáo dục văn học đường
cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội.
- Xây dựng hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa
học đường cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh
viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay (Khảo sát một số trường đào tạo các
kỹ thuật)
5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho
sinh viên các trường đại học ở Hà Nội qua khảo sát các trường: Đại học Công
nghiệp Hà Nội, Đại học Thành Đô, Đại học Giao thông vận tải, Đại học Xây
dựng, Đại học Kiến trúc Hà Nội. Chủ thể giáo dục VHHĐ cho sinh viên là các
trường đại học, các thiết chế văn hóa xã hội, gia đình, bạn bè… Luận án giới hạn
phạm vi chủ thể giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên là các trường đại học
đào tạo các ngành kỹ thuật. Chọn trường đại học Xây dựng Hà Nội, đại học Giao
thông vận tải là các trường tốp đầu trong đào tạo các ngành kỹ thuật (cả lý thuyết
và thực hành), trường đại học Kiến trúc Hà nội là trường đại học đào tạo kỹ thuật
liên quan đến nghệ thuật, trường đại Công nghiệp Hà nội là trường đào tạo đa
ngành, đa cấp và đào tạo các ngành kỹ thuật theo hướng ứng dụng và thực hành,
trường đại học Thành đô là trường dân lập.
Thời gian khảo sát thực trạng hiệu quả giáo dục văn hóa học đường từ 2012
đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển văn hóa, con người trong điều kiện hiện nay, Luật Giáo
dục đại học (2012), Đề án đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa
học nói chung; các phương pháp của những bộ môn liên quan như Văn hóa
học, Quản lý văn hóa - Tư tưởng, Tâm lý học, Giáo dục học và Xã hội học…
Các phương pháp chính cụ thể là:
- Phương pháp thu thập thông tin, phân tích tài liệu từ các tác phẩm kinh
điển, nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định và các công trình khoa học… cập
nhật thông tin chuyên ngành từ các tạp chí chuyên ngành và các phương tiện
truyền thông khác.
- Phương pháp điều tra bằng trưng cầu ý kiến các cán bộ quản lý, các cán
bộ Đoàn thanh niên trong nhà trường, đại diện sinh viên trong các kỳ giao ban.
Điều tra xã hội học bằng bảng hỏi (anket).
6
- Phương pháp xử lý thông tin và trình bày kết quả nghiên cứu: phân loại
thông tin, hệ thống hóa thông tin, diễn giải, quy nạp, phương pháp phân tích và
tổng hợp, lôgic và lịch sử; phương pháp so sánh; chứng minh, khái quát hóa,
tổng kết kinh nghiệm và phương pháp chuyên gia…
5. Đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa các tri thức về văn hóa học đường, chỉ ra rõ hơn vai trò và
nội dung của văn hóa học đường.
- Nhận diện những giá trị cốt lõi của văn hóa học đường trong trường đại
học so sánh với thực tiễn từ đó có các kết luận làm sơ sở để xây dựng phương
hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh
viên. Rút ra những bài học có tính lý luận về giáo dục văn hóa học đường cho
sinh viên đại học, qua đó làm sâu sắc hơn, sinh động hơn công tác tư tưởng trong
trường đại học.
- Xây dựng hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học
đường cho sinh viên trong các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà
Nội hiện nay. Những giải pháp đó có thể mở rộng sử dụng cho các trường đại
học khác
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của văn học đường cũng như sự
cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường, nhằm góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, thực hiện mục tiêu giáo dục.
- Đề xuất một số phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh viên của các trường đại học.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo và vận dụng trong nghiên cứu
và giảng dạy cho chuyên ngành Công tác tư tưởng nói riêng, ngành Chính trị học
nói chung và các ngành có liên quan như Triết học, CNXH khoa học, Văn hóa
học, Quản lý văn hóa, Quản lý giáo dục… ở hệ thống các học viện, các trường
đại học và cao đẳng của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận án được kết cấu thành 4 chương 11 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Xuất phát từ vai trò của văn hóa học đường và thực trạng xây dựng văn hóa
học đường ở Việt Nam, trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu
có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài. Nâng cao hiệu quả giáo dục
VHHĐ đã thực sự trở thành vấn đề cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực
tiễn, nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý, các nhà khoa học.
Trong phạm vi bao quát của chúng tôi, có thể khái quát một số công trình tiếp
cận đề tài theo các hướng:
1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa học đường và giáo dục
văn hóa học đường
1.1.1. Những nghiên cứu về văn hoá và văn hóa học đường
Thuật ngữ “văn hóa” xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ loài người. Cùng
với sự phát triển của lịch sử nhân loại, nhận thức của con người về văn hóa, khái
niệm văn hóa cũng không ngừng thay đổi và luôn được bổ sung những nội dung
mới, những cách nhìn mới.
Chưa bao giờ vấn đề văn hóa lại giành được sự quan tâm như hiện nay cả
về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều này càng chứng tỏ vai trò quan trọng
của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội. Khái niệm “văn hóa” (Cultura) có
nguồn gốc từ phương Tây, theo tiếng Latinh có nghĩa là: cày, cấy, vun trồng, làm
ruộng, chăm bón, cải thiện, gìn giữ trong sản xuất nông nghiệp. Xét theo nguồn
gốc thuật ngữ, văn hóa là khái niệm gắn với lao động sản xuất, một hoạt động
sáng tạo mang bản chất người nhất. Về sau thuật ngữ văn hóa được bổ sung thêm
những nghĩa mới trừu tượng hơn, nói về tính có học vấn, tính có giáo dục, sự mở
mang trí tuệ của con người.
Chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng đã đi tìm nội dung tích cực và bổ sung
những nhận thức mới mẻ về văn hóa. Thời kỳ này được xem như thời kỳ phát
hiện lại con người. Bởi vậy, “văn hóa” được nhìn nhận như lĩnh vực tồn tại chân
chính của con người, lĩnh vực “tính người” thật sự đối lập với lĩnh vực “tính tự
8
nhiên”, “tính động vật”. Văn hóa được xem như sự phát triển của con người phù
hợp với bản chất của nó.
Từ nguyên nghĩa của văn là xăm thân, và nghĩa gốc của văn hóa là nét xăm
mình mà qua đó người khác nhìn vào để nhận ra mình Theo cách triết tự Hán
Việt (bộ Từ Hải năm 1989), văn có nghĩa là “vẻ đẹp” (= có giá trị), hóa là “trở
thành”, là “giáo dục”. Như vậy, văn hóa có nghĩa là trở thành đẹp, giáo dục đẹp,
thành có giá trị. Sau này, văn hóa thường được dùng với nghĩa: cái chứa cái đẹp,
chứa các giá trị, là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.
Theo quan điểm của C. Mác, văn hóa gắn liền với sức sáng tạo và năng lực
bản chất của con người. Sự sáng tạo đó bao giờ cũng bắt đầu từ lao động. Lao
động sáng tạo ra con người và xã hội loài người, làm cho con người ngày càng
trở thành thật sự người. Vì vậy, văn hóa là năng lực tạo nên sáng tạo, là sự phát
triển những năng lực bản chất của con người. V.I. Lênin khi bàn về văn hóa cho
rằng, nó là tổng thể các dạng hoạt động sáng tạo của con người và tất cả giá trị
vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của chính
mình. Theo đó, có thể hiểu văn hóa là “thiên nhiên thứ hai” được “nhân hóa” qua
thực tiễn của con người [36, tr.27, 90].
Văn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử bằng lao động của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất
tinh thần. Theo nghĩa này, tại “Mục đọc sách” viết xen tập “Nhật ký trong tù”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh
hoạt cùng sự biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [82, tr. 431]
F.Gonzles quan niệm văn hóa bao gồm các giá trị, quan niệm, thái độ, hành
vi và các mối quan hệ tạo nên ý nghĩa, niềm tin và sự thống nhất của một nhóm
người [138].
Tiếp cận văn hóa dưới góc độ tổ chức, Ehlers (2009) tổng hợp các tác giả
và cách tiếp cận văn hóa.
9
Tác giả
Gerent
Hofstede
(1991)
Edgar
Schein
(1992)
Johannes
Rsegg
(2002)
Cách tiếp cận
Văn hóa là quy ước về tinh thần hỗ trợ
mọi người thực hiện thuận lợi các hoạt
động thông qua biểu hiện, nhân cách, lễ
nghi và giá trị.
Văn hóa là một lại quy ước cơ bản do
một nhóm người đưa ra để giải quyết
các vấn đề thích ứng với bên ngoài và
hòa hợp với bên trong.
Văn hóa có thể so sánh với các quy luật
ngữ pháp và ngữ nghĩa trong một hệ
thống quy ước của một nhóm người.
Các yếu tố văn hóa
Biểu hiện, hình mẫu, lễ
nghi, giá trị.
Giá trị, sự việc hữu hình,
quy ước.
Quy tắc và giá trị, quan
điểm và thái độ, hiện
thực và huyền thoại, cách
nghĩ, thói quen, ngôn
ngữ, mong đợi của tập
thể.
Gareth
Văn hóa là một hiện tượng của tập thể Giá trị, kiến thức, niềm
Mogan
và xã hội liên quan đến các ý tưởng, giá tin, chuẩn mực, lễ nghi
(2002)
trị và ảnh hưởng đến hoạt động của
một nhóm người mà họ không nhận
thấy rõ.
Bảng 1. Cách tiếp cận khác nhau về văn hóa [137, tr.343-363]
Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm xuất phát từ lý thuyết hệ thống,
trình bày mô hình văn hóa gồm ba thành tố cơ bản:
Văn hóa nhận thức: Mỗi nền văn hóa đều là tài sản của một cộng đồng
người nhất định - một chủ thể văn hóa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng
đồng người - chủ thể văn hóa đó luôn có nhu cầu tìm hiểu, tích lũy được một
lượng kinh nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ và bản thân con người - đó
chính là văn hóa nhận thức.
Văn hóa tổ chức: Là những giá trị văn hóa tổ chức của cộng đồng như văn
hóa tổ chức đời sống tập thể (những vấn đề liên quan đến tổ chức sản xuất trong
một quy mô rộng lớn như tổ chức nông thôn, đô thị, quốc gia) và văn hóa tổ
chức đời sống cá nhân (những vấn đề liên quan đến đời sống của mỗi con người
như tín ngưỡng, phong tục, tập quán, đạo đức, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật...)
10
Văn hóa ứng xử (đối với tự nhiên và đối với xã hội): Cộng đồng người chủ thể văn hóa - tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường - môi trường tự
nhiên (thiên nhiên, khí hậu...v.v) và môi trường xã hội (hiểu ở đây là các xã hội,
dân tộc, quốc gia). Do đó có văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hóa
ứng xử với môi trường xã hội [107, tr.28-29].
Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor khái quát khái niệm văn hóa,
cho rằng: “Văn hóa là tổng số sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ
và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ
thống các giá trị, truyền thống và thị hiếu những yếu tố xác định đặc tính riêng
của mỗi dân tộc” (Tạp chí Người đưa tin UNESCO, Tháng 11-1989, tr. 5)
Tổng hợp các định nghĩa trên, cho thấy văn hóa bao gồm các nội dung sau:
- Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra.
- Văn hóa là hoạt động của con người, yếu tố quyết định sự hình thành và
phát triển của văn hóa.
- Văn hóa là sự thể hiện trình độ phát triển và đặc tính riêng của mỗi cộng
đồng người, mỗi dân tộc.
Văn hóa là sản phẩm của hoạt động người, là kết quả sáng tạo ra của nhiều
thế hệ nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần không ngừng tăng lên
của con người. Văn hóa bao gồm các giá trị văn hóa và hoạt động sáng tạo ra
những giá trị đó. Khi tạo ra thế giới văn hóa, con người không chỉ làm biến đổi
những điều kiện khách quan, mà còn làm biến đổi chính bản thân con người,
phát triển những năng lực tiềm tàng trong bản thân mình. Không chỉ có vậy, con
người còn có khả năng tự đánh giá trình độ phát triển của bản thân mình thông
qua các sản phẩm do chính mình tạo ra. Bởi vì trong quá trình hoạt động con
người đã đối tượng hóa bản thân mình vào các giá trị ấy. Mỗi giá trị văn hóa đều
hàm chứa trong bản thân nó năng lực trí tuệ, tinh thần, cảm xúc, những lực lượng
vật chất nhất định.
Văn hóa là khái niệm phức tạp, cách nhìn nhận về cấu trúc của văn hóa
cũng phong phú và đa dạng. Từ hướng tiếp cận của triết học, xem văn hóa như
cái được sinh ra từ sự tồn tại của con người trong hoạt động thực tiễn, con người
là chủ thể hoạt động và điểm khởi đầu của văn hóa, nhà triết học M.S. Kagan
[63, tr.188-208] đã mô tả cấu trúc của văn hóa như “vòng xoắn chập ba” (3 thành
11
tố) gồm có: hoạt động mang tính vật thể của con người là cơ sở của văn hóa; sự
giao tiếp của con người diễn ra ở bình diện không gian văn hóa và thời gian văn
hóa xã hội và sự sáng tạo nghệ thuật, một phương thức để nhân đôi đời sống
hiện thực của con người, tạo nên một đời sống ảo và qua “ảo” để hiểu hiện thực
sâu sắc hơn.
Cũng có thể xem xét văn hóa với cấu trúc gồm văn hóa sinh hoạt vật chất,
văn hóa sinh hoạt tinh thần. Hoặc xem xét dưới góc độ văn hóa sản xuất, văn hóa
tiêu dùng. Văn hóa nếu tiếp cận từ những lĩnh vực cụ thể, sẽ có văn hóa doanh
nghiệp, văn hóa đạo đức, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa nghệ thuật, văn hóa công sở,
văn hóa trang phục, văn hóa học đường, văn hóa giao thông,… Dù được diễn đạt
theo cách nào nó cũng có nội dung chung: văn hóa là sự phát triển những năng
lực bản chất của con người hướng tới các giá trị nhân văn. Mỗi một hình thức
cộng đồng người, cộng đồng xã hội có một mô thức văn hóa riêng. Trường đại
học là một thiết chế xã hội, vì vậy việc hình thành văn hóa riêng để góp phần
thực hiện mục tiêu đào tạo, sứ mệnh của mình là một tất yếu khách quan.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm đến vấn đề văn hóa. Điều này
thể hiện trong mỗi kỳ đại hội đều có phần xác định đường hướng phát triển văn
hóa. Thậm chí Đảng còn ra cả một Nghị quyết Trung ương về xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bàn sắc dân tộc. Ở đó nhấn mạnh: “Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội” [24, tr 55]. Nghị quyết tập trung vào những lĩnh vực lớn:
tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, giáo dục, khoa học, văn học
nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa với thế giới, các thể chế và
thiết chế văn hóa… và khái quát: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn
năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều
nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã
hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang
của dân tộc”.[24, tr 40].
Sau hơn 15 năm, từ năm 1998 đến năm 2014, nhận thức về văn hóa và vai
trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã phát
12
triển thêm một bước dài. Trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo, trong đó có 2 quan điểm phát triển,
bổ sung rất sâu sắc. Đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn hóa:
Một là, Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là
chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ
bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết cần cù, sáng tạo và quan
điểm: xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng.
Hai là, Phát triển hài hòa kinh tế và văn hóa, cần chú ý đầy đủ đến yếu tố
văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Khi nghiên cứu văn hóa, giới chuyên môn đã sử dụng phạm trù “môi
trường văn hóa” để thể hiện mối quan hệ giữa con người và văn hóa.
Trong cuốn “Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin” (1981, Nxb. Văn hóa,
tr.75) các tác giả quan niệm: “Môi trường văn hóa là một tổng thể ổn định
những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau.
Chúng ảnh hưởng tới hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn hóa, tới nhu
cầu tinh thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa
không chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hóa vật thể mà còn có những con
người hiện diện văn hóa”.
Huỳnh Khái Vinh trong tác phẩm “Những vấn đề văn hoá Việt Nam đương
đại” nhấn mạnh: “Với tính chất là tổng thể (các hoạt động và sinh hoạt của con
người và các giá trị vật chất tinh thần cũng như điều kiện và cơ chế vận hành các
hoạt động và giá trị vật chất ấy), môi trường văn hóa luôn luôn can thiệp và quy
định các hoạt động sống, cách thức sống và cả lẽ sống của con người. Cái cốt lõi
tạo nên khuôn mẫu và chiều hướng vận động của môi trường văn hóa là chuẩn
mực giá trị xã hội” [128, tr. 382]
Từ góc nhìn giá trị học, tác giả Đỗ Huy trong “Xây dựng môi trường văn
hóa ở nước ta hiện nay - Từ góc nhìn giá trị học” nhấn mạnh vai trò của con
người khi đưa ra định nghĩa: “Môi trường văn hóa chính là sự vận động của các
quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và
hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình” [59, tr. 35]
13
Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định 129 ngày 2/8/2007 về Quy chế
văn hóa công sở tại các cơ quan nhà nước. Quyết định này có thể được xem như
căn cứ xây dựng và thực hiện VHHĐ như một loại hình văn hoá cộng đồng cần
được đặc biệt quan tâm.
Thuật ngữ VHHĐ hay văn hóa trường học bắt đầu xuất hiện tại các nước
nói tiếng Anh vào những năm 1990. Một số nước như Mỹ, Úc đã có trung tâm
nghiên cứu, khảo sát thực tiễn và đánh giá vấn đề này. Từ điển Tiếng Anh định
nghĩa văn hóa trường học : school culture can be defined as the guiding beliefs
and values evident in the way a school operates (Văn hóa trường học có thể
được định nghĩa là niềm tin hướng dẫn do những giá trị rõ ràng trong cách một
trường hoạt động) hay “school culture” can be used to encompass all the
attitudes, expected behavior and values that impact how the school operates (Văn
hóa trường học có thể được sử dụng bao gồm tất cả những thái độ, hành vi
mong đợi và những giá trị tác động đến cách hoạt động của trường). Dù có
nhiều ý kiến khác nhau nhưng đều thống nhất mỗi trường học ngoài là tấm
gương phản chiếu những giá trị văn hóa, sự phát triển chung của cộng đồng đều
có những nét văn hóa riêng độc đáo tác động đến hoạt động của nhà trường .
Nghiên cứu của GS. Peter Smith Đại học Sunderlans cho thấy VHHĐ ảnh
hưởng vô cùng to lớn đối với chất lượng và hiệu quả hoạt động của một nhà
trường. Các lý do cần phải nuôi dưỡng vun trồng VHHĐ tích cực, lành mạnh có
thể tóm tắt như sau:
-Sự phát triển của học sinh chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường văn hóa xã hội mà họ lớn lên
- Văn hóa học đường lành mạnh giảm bớt sự không hài lòng của giáo viên
và giúp giảm thiểu hành vi cử chỉ không lịch sự của học sinh
- Văn hóa học đường tạo ra môi trường thuận lợi hỗ trợ việc dạy và học,
khuyến khích GV và học sinh nỗ lực trong rèn luyện, học tập đạt thành tích
mong đợi...
Tổng hợp các quan niệm về VHHĐ của các học giả nước ngoài đã làm nổi
bật vị trí, vai trò của VHHĐ đối với sự duy trì và phát triển của trường học. Họ
đều khẳng định văn hóa là tài sản của tổ chức trường học, nó luôn chi phối trực
14
tiếp đến sự phát triển và tiến bộ của nhà trường cũng như nét đặc sắc riêng của
từng trường.
Ở Việt nam thuật ngữ VHHĐ được sử dụng chưa lâu nhưng nội dung của
VHHĐ trong các nhà trường ở Việt Nam từ xa xưa đã có và trở thành các truyền
thống quý báu của dân tộc ta như: tôn sư trọng đạo, kính thầy yêu bạn, nhất tự vi
sư bán tự vi sư, kính trên nhường dưới,... Nhiều thập kỷ qua, các nhà trường ở tất
cả các cấp học đều liên tục cố gắng phấn đấu để “thầy ra thầy, trò ra trò, trường
ra trường” với mục tiêu giáo dục nhân cách cho học sinh, sinh viên, xây dựng
trường học lành mạnh. Văn hóa học đường trở thành mối quan tâm đặc biệt của
các nhà lý luận, và tùy góc độ tiếp cận, VHHĐ được thể hiện với những nội
dung khác nhau:
Phạm Thị Kim Anh trong bài viết Văn hóa học đường – một góc nhìn từ
thực tiễn đăng trên tạp chí Dạy và học ngày nay số 10-2007 có một cách nhìn
và cách tiếp cận độc đáo về VHHĐ. Theo tác giả, VHHĐ bao gồm 4 yếu tố
cụ thể là văn hóa ứng xử, văn hóa dạy, văn hóa học, văn hóa thi cử.
Trên tạp chí Tâm lý học số 10 (10 - 2008) tác giả Đào Thị Oanh cho rằng:
VHHĐ là giá trị cần có của một nhà trường. Văn hóa học đường là một cấu trúc
gồm 3 thành tố có sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau là:
- Hệ thống thái độ và niềm tin của những cá nhân trong nhà trường.
- Hệ thống các chuẩn mực văn hoá của nhà trường.
- Hệ thống các mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân, thành viên bên trong
trường với nhau, giữa các cá nhân của trường với cộng đồng
Trên mục “Bàn tròn văn hóa”, báo Lao động số 117 ra ngày 26 tháng 5 năm
2008, các tác giả khẳng định “Xây dựng văn hóa học đường có ý nghĩa quyết
định chất lượng đào tạo của các trường đại học”, VHHĐ được nhìn nhận trên 2
khía cạnh là khung cảnh sư phạm bao gồm vị trí xây dựng trường học, cơ sở vật
chất… và môi trường sư phạm với nội hàm phong cách giao tiếp trong nhà
trường giữa thầy với trò, thầy với thầy, trò với trò.
Trên tạp chí Tuyên giáo tháng 11-2009, nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc
cho rằng VHHĐ Việt Nam cần đảm bảo 3 yếu tố: cơ sở vật chất đảm bảo, môi
trường giáo dục tốt và văn hóa ứng xử, giao tiếp chuẩn mực (TC Tuyên giáo,
tháng 11 năm 2009, tr.41). Tác giả Phạm Ngọc Trung sau khi khảo cứu các quan
- Xem thêm -