PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam với đường bờ biển trải dài 3.260 km suốt từ Bắc vào Nam cùng 112
cửa sông và nhiều eo biển, hồ, đầm phá ven biển là tiềm năng, lợi thế to lớn cho phát
triển thủy sản. Đảng và nhà nước ta khẳng định: Thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn,
có vị trí hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, cũng như
trong việc giải quyết việc làm cho người lao động, ổn định và cải thiện đời sống của
nhân dân.
Trong những thập kỷ qua, đặc biệt từ năm 1986 đến nay, ngành thủy sản đã
có những chuyển biến tích cực, là một trong những ngành kinh tế năng động khi đất
nước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Hiện nay ngành thủy sản đã đóng góp từ 4 - 5%
trong tổng GDP cả nước, chiếm từ 9 - 10% tổng kim ngạch xuất khẩu, nhiều sản phẩm
của ngành thủy sản đã được thế giới và khu vực biết đến. Trong tương lai thủy sản còn
nhiều tiềm năng để phát triển mạnh hơn nữa như khai thác xa bờ, nuôi trồng, chế biến,
đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu… Một trong những hướng đi mới đang được chú
trọng là nuôi trồng thủy sản với nhiều chủng loại vật nuôi và hình thức nuôi đa dạng.
Tỉnh Thừa Thiên Huế với hệ thống đầm phá Tam Giang – Cầu Hai là vùng
đầm phá lớn nhất Đông Nam Á có lợi thế trong phát triển nuôi trồng thủy sản, trong
đó tôm sú là đối tượng nuôi chính đem lại giá trị kinh tế lớn.
Thị trấn Thuận An thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế nằm dọc theo
phá Tam Giang. Nơi đây, NTTS mà đặc biệt là nuôi tôm đã có từ lâu đời nhưng chỉ
thật sự phát triển từ năm 2002 và đã trở thành ngành kinh tế chủ lực ở địa phương giúp
tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân đồng thời cải tạo bộ mặt kinh
tế xã hội trên địa bàn.
Tuy nhiên, trong nuôi trồng thủy sản cũng đã thể hiện nhiều bất cập. Do tốc
độ mở rộng sản xuất quá nhanh theo nhu cầu thị trường và lợi nhuận trước mắt dẫn
đến phát triển diện tích nuôi và số hộ nuôi một cách tự phát, thiếu quy hoạch, khiến
cho đầm phá trở thành “thiên la địa võng” của những loại hình ao nuôi. Phong trào
nuôi tôm chủ yếu theo kinh nghiệm mà ít quan tâm đến vấn đề kỹ thuật đã không đem
lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Bên cạnh đó, diện tích ao nuôi qua nhiều năm
không được chú trọng cải tạo xử lý khiến cho dịch bệnh xảy ra liên tục, ảnh hưởng đến
1
kết quả nuôi trồng, thu nhập trở nên bấp bênh. Tình hình ô nhiễm nguồn nước trên địa
bàn ngày càng trở nên nghiêm trọng, NTTS không chú ý đến môi trường làm tăng
nhanh quá trình lắng đọng, bồi đắp, hình thành các “đồng bằng ven biển”… NTTS
không chú ý đến tính bền vững đã và đang gây ra những hệ lụy không thể tránh khỏi
cho môi trường, cho hệ sinh thái đầm phá và cho cả cuộc sống của người dân ở nơi
đây.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi chọn đề tài “Hiệu quả kinh tế nuôi tôm ở thị trấn
Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế” làm đề tài khóa luận của mình .
* Mục đích của đề tài:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả kinh tế nói chung cũng
như hiệu quả kinh tế nuôi tôm nói riêng.
- Đánh giá thực trạng đầu tư sản xuất, kết quả và hiệu quả nuôi tôm cùng với
việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả nuôi tôm trên địa bàn.
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn đối với nghề nuôi tôm ở địa phương.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy lợi thế vùng nhằm đạt hiệu quả kinh
tế trong nuôi tôm ở thị trấn Thuận An.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Địa bàn nghiên cứu: Thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên
Huế
- Thời gian nghiên cứu: vụ xuân hè năm 2009
Nội dung cơ bản của đề tài:
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Phần II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ CỦA VẤN ĐÈ NGHIÊN CỨU
Chương 1: Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Tình hình cơ bản của thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa
Thiên Huế
Chương 3: Kết quả và hiệu quả nuôi tôm ở thị trấn Thuận An
Chương 4: Định hướng và giải pháp
Phần III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
2
PHẦN II
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ
1.1.1 Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả kinh tế
* Có thể hiểu hiệu quả kinh tế (HQKT) hay hiệu quả sản xuất kinh doanh
(HQSXKD) là một phạm trù kinh tế, biểu hiện của sự tập trung phát triển chiều sâu,
phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong
quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh.
HQKT cũng có thể hiểu theo nghĩa là phạm trù kinh tế trong đó sản xuất đạt
cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả yếu tố hiện vật và yếu
tố giá trị đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực. Chỉ khi nào việc sử
dụng nguồn lực đạt cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ thì khi đó sản xuất mới
đạt HQKT.
Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi phí
đầu vào hay nguồn lực sản xuất vào trong những điều kiện cụ thể về kỹ thuật hay công
nghệ áp dụng vào sản xuất nông nghiệp. Như vậy, hiệu quả kỹ thuật của việc sử dụng
các nguồn lực thể hiện thông qua mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, giữa các đầu
vào với nhau và giữa các loại sản phẩm.
Hiệu quả phân bổ là chỉ tiêu hiệu quả trong đó yếu tố giá sản phẩm và giá đầu
vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí thêm về
đầu vào hay nguồn lực. Thực chất của hiệu quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính
đến các yếu tố về giá của đầu vào và giá của đầu ra.
HQKT = Hiệu quả kỹ thuật * Hiệu quả phân bổ
Ngày nay, HQKT là cụm từ được quan tâm hàng đầu của mọi doanh nghiệp khi
tiến hành sản xuất kinh doanh. Bởi lẽ nó là thước đo quan trọng phản ánh chất lượng,
trình độ tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh của các chủ doanh nghiệp.
3
Thực chất của HQKT là nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, tiết kiệm chi
phí để đạt được mục đích sản xuất kinh doanh. Do vậy có thể hiểu HQKT của doanh
nghiệp là đạt kết quả kinh tế tối đa với mức chi phí nhất định hay đạt được kết quả
kinh tế nhất định với mức chi phí tối thiểu.
Nâng cao HQKT có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp. Nó giúp tận dụng và tiết kiệm các nguồn lực hiện có trong điều kiện
khan hiếm hiện nay, giúp các chủ doanh nghiệp tăng cường đầu tư và áp dụng khoa
học công nghệ vào quá trình sản xuất để nâng cao năng suất lao động, giúp nền kinh tế
tăng trưởng và nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho người dân. Đạt
HQKT là mục tiêu cao nhất và nâng cao HQKT là vấn đề quan tâm hàng đầu của từng
doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa hiện
nay. Một nền kinh tế đạt được hiệu quả chính là một nền kinh tế thành công và vững chắc.
1.1.2 Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
Hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất kỳ doanh nghiệp nào là một quá trình tái
sản xuất thống nhất trong mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra. Các chỉ tiêu hiệu
quả kinh tế được xác lập trên cơ sở so sánh giữa kết quả kinh tế (đầu ra) và chi phí
kinh tế (đầu vào). Chúng được đo lường bằng các chỉ tiêu tương đối cường độ:
- Ở dạng thuận H = Kq/C biểu thị mỗi đơn vị đầu vào có khả năng tạo ra bao
nhiêu đơn vị đầu ra.
- Ở dạng nghịch h = C/Kq cho biết để có một đơn vị đầu ra cần hao phí bao
nhiêu đơn vị đầu vào.
Trong đó Kq là kết quả kinh tế, C là chi phí kinh tế.
Hai chỉ tiêu hiệu quả này có vai trò khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Chỉ tiêu H được dùng để xây dựng ảnh hưởng của hiệu quả sử dụng nguồn
lực hay chi phí thường xuyên đến kết quả kinh tế. Còn chỉ tiêu h là cơ sở để xác định
quy mô tiết kiệm hay lãng phí nguồn lực, chi phí thường xuyên.
4
1.2 ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - KỸ THUẬT CỦA NGHỀ NUÔI TÔM
1.2.1 Đặc điểm sinh vật học của tôm
1.2.1.1 Vùng phân bố
Tôm sú có tên khoa học là Penaeus monodon. Loại tôm này có phạm vi phân bố
khá rộng trong vùng nước nhiệt đới và cận nhiệt đới, từ Ấn Độ Dương qua hướng Nhật
Bản, phía Đông Thái Bình Dương, phía Nam châu Úc và phía Tây châu Phi.
Tại vùng biển các nước Đông Nam Á, chúng phân bố nhiều ở Indonesia,
Philippines, Malaysia và Việt Nam…
1.2.1.2 Tập tính sống, ăn và loại thức ăn
Giai đoạn nhỏ và gần trưởng thành, tôm sú sống ven bờ biển, vùng cửa sông
hay vùng rừng ngập mặn. Khi trưởng thành chúng chuyển xa bờ, sống vùng nước sâu
hơn tới 110m, trên nền đáy bùn hoặc cát.
Tôm sú thuộc loại ăn tạp, đặc biệt ưa các loại giáp xác, thực vật, mảnh vụn hữu
cơ, giun nhiều tơ, côn trùng. Chúng bắt mồi bằng càng, đưa thức ăn vào miệng, thời
gian tiêu hóa trong dạ dày từ 4 – 5h, hoạt động bắt mồi nhiều vào thời gian sáng sớm
và chiều tối.
1.2.1.3 Sự lột xác
Trong quá trình tăng trưởng, khi trọng lượng cơ thể và kích thước tăng lên tới
mức độ nhất định, tôm phải lột xác cởi bỏ lớp vỏ cũ bên ngoài để lớn lên trong lớp vỏ
mới. Chu kỳ lột các giảm dần theo sự tăng trưởng. Giai đoạn PL ngày lột xác một lần.
Khi trọng lượng các thể tăng trên 25g thì 14 – 16 ngày lột xác một lần. Sự lột xác xảy
ra cả ngày và đêm nhưng vào ban đêm xảy ra nhiều hơn.
1.2.1.4 Sự thích nghi
Tôm sú từ giai đoạn PL8 trở đi có thể sống được trong vùng nước có độ mặn
thay đổi rộng. Chúng thích ứng được độ mặn rộng, nhưng phải thay đổi từ từ, thay đổi
đột ngột ảnh hưởng tới sức khỏe của tôm và có thể gây chết. Tôm sú sống được cả
trong môi trường có độ mặn 1 - 2‰. Trong tự nhiên, khi tôm gần trưởng thành và
trưởng thành, chúng sẽ di chuyển tới vùng có điều kiện môi trường tương đối ổn định
để sống. Trong nuôi tôm thương phẩm, độ mặn thích hợp nhất là 15 - 20‰, độ mặn 5 31‰ không ảnh hưởng tới sự tăng trưởng.
5
1.2.1.5 Một số chỉ tiêu môi trường khác
- Oxi: Tôm có kích thước nhỏ chịu đựng hàm lượng O2 thấp tốt hơn tôm có
kích thước lớn, bởi vì diện tích bề mặt mang so với diện tích bề mặt cơ thể của tôm
nhỏ lớn hơn tôm lớn.
Trong ao nuôi tôm sú, lượng oxi tốt cho sự tăng trương phải lớn hơn 3,7 mg/l,
hàm lượng O2 gây chết tôm khi xuống mức 0,5 – 1,2 mg/l, tùy thuộc vào thời gian
thiếu O2 dài hay ngắn. Khi O2 trong ao không đầy đủ, tôm giảm ăn và giảm sự hấp thụ
thức ăn ảnh hưởng đến sự tăng trưởng.
- pH: Độ pH giới hạn cho phép trong nuôi tôm là từ 6,5 - 9,3, tốt nhất là từ 7,5 –
8,5, sự dao động sáng và chiều tốt nhất nhỏ hơn 0,5 đơn vị.
- Nhiệt độ: Tôm sú có trong lượng 1 – 5g sống trong môi trường có nhiệt độ
trong khoảng 18 - 31°C, sự tăng trưởng tốt nhất trong khoảng 27 - 33°C. Sự tăng
trưởng tăng khi nhiệt độ tăng trong phạm vi 21 - 27°C. Nhiệt độ giới hạn nuôi tôm sú
thương phẩm có hiệu quả là 21 - 31°C.
1.2.2 Các hình thức nuôi tôm chuyên canh
1.2.2.1 Nuôi tôm quảng canh
Nuôi tôm quảng canh là hình thức nuôi sơ khai nhất, phụ thuộc hoàn toàn vào
điều kiện tự nhiên. Người nuôi tôm theo hình thức này khai thác tôm từ tự nhiên, ao
nuôi chỉ được đắp đập, be bờ một cách thô sơ rồi để tôm tự tìm kiếm nguồn thức ăn có
sẵn trong môi trường mặt nước ao hồ để phát triển. Bên cạnh đó, người nuôi tôm cũng
không cần áp dụng các biện pháp gì để tác động vào quá trình nuôi. Do phụ thuộc
hoàn toàn vào điều kiện tự nhiên nên diện tích mặt nước nuôi trồng thường lớn, từ vài
đến vài chục ha và thời gian nuôi dài, trọng lượng tôm thu được thấp do không có biện
pháp thúc đẩy sự sinh trưởng và phát triển tôm. Thời gian nuôi dài ảnh hưởng đến sự
phát triển của tôm nuôi do chịu tác động của sự thay đổi thời tiết trong suốt quá trình
nuôi.
1.2.2.2 Nuôi tôm quảng canh cải tiến
Là hình thức nuôi cao hơn hình thức sơ khai ban đầu, người nuôi theo hình thức
QCCT đã bắt đầu chú ý đến việc nuôi trồng. Ngoài nguồn giống tự nhiên là chủ yếu,
họ có bổ sung thêm một lượng ít con giống nhân tạo. Với hình thức nuôi này, người
6
nuôi cũng đã chú trọng đến việc cung cấp thêm thức ăn cho tôm nuôi, chủ yếu là thức
ăn tươi, bên cạnh nguồn thức ăn có sẵn trong ao hồ. Diện tích nuôi bắt đầu thu hẹp
dần, thời gian nuôi cũng được rút ngắn lại. Sản lượng tôm thu được cao hơn nhưng
dịch bệnh thường xuyên xảy ra do nguồn thức ăn tươi cung cấp chứa mầm bệnh gây
hại cho tôm.
Bảng 1: Tiêu chí phân loại hình thức nuôi
Tiêu chí
Giống
QC
Tự nhiên
Thức ăn
Cải tạo ao,
CSHT
Tự nhiên
Hầu như không
QCCT
BTC
Tự nhiên
Nhân tạo
+
+
Nhân tạo
Tự nhiên
Tự nhiên
Nhân tạo
+
+
Nhân tạo
Tự nhiên
Có (ít)
TC
Nhân tạo
Nhân tạo
Khá kỹ
Rất kỹ
+
+
CSHT, MMTB
CSHT, MMTB
(Nguồn: Bài giảng Kinh tế thuỷ sản – Tôn Nữ Hải Âu)
1.2.2.3 Nuôi tôm bán thâm canh
Nuôi tôm BTC là hình thức nuôi tiên tiến, đây là hình thức nuôi chủ yếu bằng
giống và thức ăn nhân tạo nhưng có kết hợp nguồn thức ăn tự nhiên trong thủy vực.
Ngoài ra hệ thống ao hồ được đầu tư CSHT, chủ động nguồn nước cung cấp. Người
nuôi tôm theo hình thức này hiểu rõ để đạt được hiệu quả cao cần có sự đầu tư trong
công tác nuôi trồng. Họ đã chú trọng trong công tác XDCB và đầu tư mua sắm MMTB
phục vụ cho hoạt động sản xuất của mình. Nguồn thức ăn tự nhiên giảm dần vì đây là
nguồn thức ăn có thể mang mầm bệnh gây hại cho tôm nuôi. Bên cạnh đó thức ăn công
nghiệp chứa dinh dưỡng tổng hợp, không gây hại cho tôm được sử dụng chủ yếu.
Người nuôi cũng đã biết chú trọng đến công tác chăm sóc để rút ngắn thời gian thu
hoạch. Diện tích nuôi trở nên hợp lý hơn.
7
1.2.2.4 Nuôi tôm thâm canh hay nuôi công nghiệp
Đây là hình thức nuôi hoàn toàn bằng con giống và thức ăn nhân tạo, mật độ thả
giống dày, năng suất cao, được đầu tư CSHT đầy đủ. Sử dụng các máy móc thiết bị
nhằm tạo cho vật nuôi một môi trường sinh thái và các điều kiện sống tối ưu, sinh
trưởng tốt nhất, không phụ thuộc vào thời tiết và mùa vụ, trong thời gian ngắn nhất đạt
mục tiêu sản xuất và lợi nhuận. Diện tích nuôi thu hẹp đến mức thích hợp, hình dáng
ao nuôi đảm bảo yêu cầu kỹ thuật để tiện cho công tác nuôi trồng và chăm sóc.
1.3 TÌNH HÌNH NUÔI TÔM TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC
1.3.1 Tình hình nuôi tôm trên thế giới
Trên thế giới có không ít quốc gia có vùng đất ngập nước ven biển và đường bờ
biển trải dài. Nhiều nước đã nhận rõ tiềm năng và thế mạnh của vùng ven biển là nuôi
trồng và đánh bắt thuỷ hải sản. Mặc dù điều kiện địa hình của nhiều nước không thuận
lợi trong việc hình thành các ao hồ, đầm NTTS, nhưng đa số các nước đã tận dụng mặt
nước ven bờ để nuôi trồng nhiều loại thuỷ hải sản và coi đó là một trong những ngành
có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là nuôi tôm.
Trong thập kỷ qua, ngành sản xuất tôm, bao gồm đánh bắt và nuôi trồng, đã
được mở rộng từ 2,4 triệu tấn năm 1987 lên đến 4,2 triệu tấn năm 2000. Từ đó đến
nay, ngành sản xuất tôm đã dần trở nên ổn định hơn.
Từ giữa thế kỷ 80, bên cạnh đánh bắt thì nuôi trồng bắt đầu có ý nghĩa quan
trọng trong ngành sản xuất tôm và đã đóng góp hơn 30% tổng sản lượng trong đầu
những năm 1990. Trong năm 2004, nghề nuôi tôm cung cấp 2,4 triệu tấn, chiếm đến
46% tổng sản lượng tôm thế giới. Hiện nay, nghề nuôi tôm đã mở rộng ra trên tất cả
các châu lục và đặc biệt phát triển ở châu Á.
Nghề nuôi tôm thật sự phát triển ở châu Á từ những năm 1990 và trở thành một
trong những ngành kinh tế chủ lực cho các vùng ven biển, đưa những nơi này trở thành
các khu vực có điều kiện thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại. Và hiện nay, châu
Á đang là châu lục sản xuất tôm nhiều nhất trên thế giới bởi điều kiện khí hậu nơi đây
thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loài giáp xác. Từ năm 1980, hơn
50% lượng tôm được cung cấp bắt nguồn từ châu Á và tỷ lệ này tăng lên đến 60% từ
8
năm 1990 trở về sau. Trong năm 2004, tổng lượng tôm cung ứng của châu Á ước đạt 4
triệu tấn trong đó có hơn 1,8 triệu tấn là từ nuôi trồng.
Biểu đồ: Tổng sản lượng tôm toàn thế giới
(Nguồn: www.globefish.org/files/SHRIMPMadrid_171.pdf)
MT: nghìn tấn
7 trong 10 nước sản xuất tôm lớn nhất thế giới vào năm 2003 thuộc về châu Á.
Đó là: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam, Malaysia và Philippines.
Những nước này sản xuất đến 3,2 triệu tấn chiếm 2/3 tổng sản lượng tôm thế giới.
Trong đó Trung Quốc cung cấp 1,3 triệu tấn vào năm 2003 và con số này là 1,7 triệu
tấn năm 2004. Trung Quốc đã sớm nhận ra những loài thuỷ sản có giá trị và nhanh
9
chóng ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ để nâng cao năng suất thủy sản nuôi
trồng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới. Về phần Ấn Độ, nước này cung
cấp khoảng 499 nghìn tấn năm 2003 và 2004. Từ đầu những năm 1990 trở lại đây,
ngành sản xuất tôm của Việt Nam bắt đầu phát triển và hiện nay nơi đây trở thành một
trong những nước sản xuất tôm chính của thế giới.
1.3.2 Tình hình nuôi tôm trong nước
* Tình hình NTTS ở Việt Nam
Bờ biển Việt Nam trải dài hơn 3000 km suốt từ Bắc vào Nam cùng với hệ thống
sông ngòi chằng chịt trên khắp đất nước là tiềm năng to lớn cho đánh bắt và nuôi trồng
thủy hải sản. Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng, bên cạnh
nguồn lợi đánh bắt thì nuôi trồng cũng đang là tiềm năng to lớn cho phát triển ngành
thủy sản. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2008, trong 4.602,03 tấn thủy sản
của cả nước, tỷ lệ đánh bắt và nuôi trồng xấp xỉ 50% nhưng giá trị ngành NTTS đóng
góp đến 66% trong tổng giá trị sản xuất của ngành thủy sản.
Bảng 2: Sản lượng và giá trị thủy sản phân theo địa phương năm 2008
Chỉ tiêu
Cả nước
1. ĐB sông Hồng
2. TD&MN PB
3. BTB&DH MT
4. Tây Nguyên
5. Đông Nam Bộ
6. ĐB sông Cửu Long
Sản lượng
Nghìn tấn
Giá trị sản xuất
%
Tỷ đồng
%
4.602,03
100
50.081,9
100
497,20
10,80
3,843,0
7,67
60,91
1,32
463,6
0,93
985,56
21,42
8.897,6
17,77
18,43
0,40
146,3
0,29
339,08
7,35
2.840,3
5,67
2.701,93
58,71
33.891,1
67,67
(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam năm 2008)
Trong 6 vùng kinh tế của đất nước thì vùng ĐB sông Cửu Long, BTB&DH
MT là nơi có điều kiện thuận lợi để phát triển ngành thủy sản. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Năm 2008, sản lượng thủy sản sản xuất của khu vực ĐB sông Cửu Long đạt 2.701,93
nghìn tấn, chiếm 58,71% trong tổng sản lượng thủy sản cả nước. Còn đối với khu vực
10
BTB&DH MT, con số này là 985,56 nghìn tấn, tương ứng 21,42% tổng sản lượng thủy
sản. Khu vực BTB&DH MT được tạo hoá ban tặng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai là
đầm phá lớn nhất Đông Nam Á. Nơi đây có điều kiện thuận lợi để phát triển nghề
NTTS có HQKT cao. Ngoài ra nơi đây còn có hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ rất thuận lợi
cho ngành Thuỷ sản.
Về giá trị sản xuất, ngành Thủy sản của ĐB sông Cửu Long tạo ra được
33.891,1 tỷ đồng, tương ứng 66,67% giá trị sản suất của cả nước. Còn khu vực
BTB&DH MT tạo ra được 8.897,6 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 17,77%. ĐB sông Cửu Long
được mệnh danh là nơi “gạo trắng nước trong”. Nơi đây được nhiên nhiên ưu đãi với
hệ thống kênh ngòi chằng chịt, khí hậu ôn hòa, là nơi có điều kiện lý tưởng cho các
loài sinh vật dưới nước phát triển. Thủy sản chính là hướng đi cho phát triển kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, nâng cao thu nhập, tạo việc làm
cho người dân ở hai khu vực này.
Tuy nước ta có đường bờ biển trải dài qua nhiều tỉnh thành nhưng không phải
bất kỳ vùng nào cũng có thể phát triển ngành thủy sản và coi đó là ngành kinh tế mũi
nhọn. Từ bảng số liệu ta thấy, hai khu vực thiên nhiên không ưu đãi cho ngành thủy
sản là TDMN PB và Tây Nguyên. Về sản lượng, hai khu vực này chỉ sản xuất được
79,34 nghìn tấn thủy sản, chiếm 1,72% sản lượng cả nước. Về giá trị sản xuất, năm
2008, hai khu vực này tạo ra được 60,99 tỷ đồng, chiếm 1,22% giá trị sản xuất của cả
nước.
* Tình hình nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế
Với hệ thống đầm phá Tam Giang – Cầu Hai rộng 22.000 ha, Thừa Thiên
Huế có điều kiện thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Từ bảng số liệu ta thấy,
diện tích NTTS tăng lên hàng năm, từ 5.282,5 ha năm 2006 lên 5.473,4 ha năm 2008
với tỷ lệ tăng trung bình hàng năm xấp xỉ 1,7%. Diện tích nuôi tôm tăng lên từ
3.024,4 ha năm 2006 đến 3 053,1 ha năm 2007, nhưng lại giảm xuống còn 2.733,0 ha
năm 2008, tương ứng giảm 10,48% so với năm 2007. Mặc dù có sự giảm sút về diện
tích nuôi trồng nhưng sản lượng tôm thu hoạch nhìn chung vẫn có xu hướng tăng lên,
từ 3.861 tấn năm 2006 lên 4.056 tấn năm 2008, tương ứng tăng 5,05%. Diện tích nuôi
tôm chiếm đến 50% trong tổng diện tích NTTS. Điều này chứng tỏ nghề nuôi tôm với
11
HQKT cao đã và đang là một trong những ngành nghề thu hút sự quan tâm của người
dân.
Bảng 3: Tình hình nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế qua 3 năm (2006 – 2008)
Chỉ tiêu
ĐVT
2006
2007
2008
So sánh (%)
07/06
08/07
1. DT NTTS
Ha
5.282,5
5.381,3
5.473,4
1,87
1,71
Trong đó nuôi tôm
Ha
3.024,4
3.053,1
2.733,0
0,95
- 10,48
2. Sản lượng TS nuôi trồng
Tấn
7.737,0
8.335,3
9.251,2
7,73
10,99
Trong đó nuôi tôm
Tấn
3.861
3.710,5
4.056
- 3,90
9,31
3. Năng suất tôm
Tấn/ha
1,28
1,22
1,61
4,69
22,13
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2008)
Năng suất tôm năm 2007 giảm 0,06 tấn/ha so với năm 2006, tương ứng giảm
4,69%, nhưng đến năm 2008, năng suất đã tăng trở lại và có sự tiến bộ vượt bậc, đạt
1,61 tấn/ha, tăng 22,13% so với năm 2007. Đây quả là một kết quả khả quan.
Trong thời gian qua, tình hình nuôi tôm ở Thừa Thiên Huế đã có những chuyển
biến tích cực từ 0,67 tấn/ha vào năm 2002 thì đến năm 2008, năng suất đã đạt được
1,61 tấn/ha. Có được kết quả đó là nhờ sự quan tâm của chính quyền địa phương và
chính từ sự nỗ lực của người dân trong việc đầu tư và chăm sóc.
Thừa Thiên Huế mặc dù không có được khí hậu mát mẻ nhưng với đường bờ
biển kéo dài chính là tài nguyên quý giá để phát triển dịch vụ du lịch, kinh tế biển và
kinh tế đầm phá.
* Tình hình nuôi tôm ở huyện Phú Vang
Phú Vang có lợi thế về biển và đầm phá với bờ biển dài 40 km (1/3 chiều dài bờ
biển tỉnh Thừa Thiên Huế) kéo dài từ cửa Thuận An đến giáp xã Vinh Hưng (Phú
Lộc). Phú Vang còn có 6800 ha mặt nước đầm phá bao gồm đầm Sam – Chuồng, đầm
Hà Trung – Thủy Tú và một phần đầm Cầu Hai chạy dọc bờ biển. Nguồn lực tự nhiên
thuận lợi đã thúc đẩy sự phát triển của ngành NTTS nơi đây.
12
Bảng 4: Tình hình nuôi tôm 2 năm 2007 – 2008 ở huyện Phú Vang
2008/2007
Chỉ tiêu
ĐVT
2007
2008
+/-
%
1. DT nuôi
Ha
1.172
1.150
- 22
- 1,88
2. Sản lượng
Tấn
1.864
1.988
124
6,65
3. Năng suất
Tấn/ha
1,59
1,73
0,14
8,81
(Nguồn: Báo cáo thống kê hàng năm của huyện Phú Vang)
Cùng với sự hình thành của ngành sản xuất tôm ở Việt Nam cũng như trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, nghề nuôi tôm ở huyện Phú Vang cũng bắt đầu phát triển từ
những năm 1990.
Năm 2007, diện tích nuôi tôm của huyện đạt 1.171 ha, con số này là 1.150 ha
vào năm 2008, chiếm 42% diện tích nuôi tôm của toàn tỉnh. Diện tích tôm năm 2008
giảm 22 ha so với năm 2007, tương ứng giảm 1,88%. Diện tích nuôi tôm năm 2008 so
với năm 2007 có sự giảm sút là do trong những năm gần đây, chất lượng nguồn nước
cung cấp trên địa bàn không ổn định, môi trường xung quanh ao nuôi bị ô nhiễm, thời
tiết thường xuyên thay đổi khiến cho dịch bệnh xảy ra liên tục, một số hộ dân đã
ngưng nuôi tôm sú, chuyển sang nuôi trồng các loài thuỷ sản khác. Tuy diện tích giảm
nhưng năng suất nuôi lại có xu hướng tăng từ 1,59 tấn/ha năm 2007 lên đến1,73 tấn/ha
vào năm 2008, tương ứng tăng 8,81%. Diện tích nuôi chỉ giảm 1,88% trong khi đó
năng suất tăng 8,81% khiến cho sản lượng tăng lên từ 1.864 tấn năm 2007 đến 1988
tấn năm 2008, tương ứng tăng 6,65%. Tuy năng suất tôm năm 2007 giảm sút so với
năm 2006 là 1,72 tấn/ha nhưng đến năm 2008, năng suất tôm đã tăng lên đạt giá trị
tương đương năm 2006 và cao hơn mức bình quân chung của toàn tỉnh là 1,61 tấn/ha.
Hiện nay, chính quyền huyện đã thực hiện chỉ đạo phát triển nuôi tôm bán thâm canh
và thâm canh trên địa bàn nhằm thu được kết quả cao, giúp giảm rủi ro về thời tiết gây
ảnh hưởng xấu đến kết quả nuôi trồng.
13
1.4 HỆ THỐNG CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU
* Các chỉ tiêu về chi phí sản xuất
- TC là toàn bộ chi phí thương xuyên về vật chất và chi phí dịch vụ được sử
dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất và hoạt động dịch vụ khác của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định (thường tính cho một năm), kể cả KH TSCĐ và
tiền công lao động.
- IC là một bộ phận cấu thành của TC bao gồm toàn bộ chi phí thường xuyên
về vật chất như nguyên nhiên vật liệu, động lực, chi phí vật chất (không kể KH TSCĐ)
và chi phí dịch vụ (kể cả dịch vụ vật chất và dịch vụ phi vật chất) được sử dụng trong
quá trình sản xuất ra của cải vật chất và hoạt động dịch vụ khác của doanh nghiệp
trong một thời gian nhất định (thường tính cho một năm)
IC của hoạt động nông nghiệp bao gồm:
+ Chi phí vật chất: chi phí giống cây trồng, phân bón, nhiên liệu, thức ăn chăn
nuôi, chi sửa chữa thường xuyên TSCĐ…
+ Chi phí dịch vụ: chi cày bừa, vận tải thuê ngoài hay thuê sức kéo, chi tiền
thủy lợi phí…
* Các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh tế
Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những sản phẩm mang lại
lợi ích tiêu dùng xã hội được thể hiện là những sản phẩm vật chất hay phi vật chất.
Những sản phẩm này phải phù hợp với lợi ích kinh tế và trình độ văn minh của tiêu
dùng xã hội. Nó phải được người tiêu dùng chấp nhận.
- GO là toàn bộ của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một thời
kỳ nhất định của doanh nghiệp (thường tính cho một năm)
GO = Σ Pi * Qi
Trong đó Pi là giá bán từng loại sản phẩm
Qi là sản lượng từng loại sản phẩm
- VA là toàn bộ kết quả dịch vụ, lao động hữu ích mới sáng tạo ra và
giá trị hoàn vốn cố định (KH TSCĐ) của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian
nhất định (thường tính cho một năm)
VA = GO – IC
14
- LN là chỉ tiêu phản ánh phần giá trị thặng dư (lãi) hay phần giá trị tổn thất (lỗ)
mà doanh nghiệp có được hay phải chịu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh.
LN = GO – TC
* Các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế
- Năng suất (N) là chỉ tiêu phản ánh sản lượng sản phẩm thu được tính trên
một đơn vị diện tích trong một khoảng thời gian nhất định
N=Q/S
Q là sản lượng sản phẩm
S là diện tích sử dụng để sản xuất ra sản phẩm
- Chỉ tiêu GO/IC: chỉ tiêu này cho biết 1 đồng IC tạo ra được bao nhiêu đồng GO
- Chỉ tiêu VA/IC cho biết 1 đồng IC bỏ ra thu về được bao nhiêu đồng VA
15
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA THỊ TRẤN THUẬN AN, HUYỆN
PHÚ VANG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
2.1.1 Vị trí địa lý
Thuận An là thị trấn ven biển thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế,
được thành lập vào năm 1999 trên cơ sở sát nhập 2 xã là Thuận An và Phú Tân cũ. Thị
trấn nằm cách thành phố Huế 12 km về phía Đông Nam, dọc theo quốc lộ 49A.
Vị trí địa lý của thị trấn: Phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp xã Phú Thanh
và xã Phú Dương, phía Nam giáp xã Phú Thuận và xã Phú An, phía Bắc giáp huyện
Hương Trà và xã Phú Thanh.
Thị trấn gốm có 12 thôn bao gồm Hải Thành, Minh Hải, An Hải, Hải Bình, Hải
Tiến, Tân Cảng, Tân Lập, Tân Mỹ, Tân Bình, Tân An, Tân Dương và Diên Trường.
2.1.2 Địa hình, đất đai
Thuận An là một thị trấn đồng bằng ven biển và đầm phá nằm dọc theo quốc lộ
49A với cảng biển Thuận An là vị trí chiến lược và có tiềm năng về kinh tế của tỉnh
Thừa Thiên Huế. Với 902 ha mặt nước đầm phá và đường bờ biển dài, thị trấn có lợi
thế để phát triển đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản.
Thị trấn là vùng đồng bằng thấp trũng, nơi cao nhất từ 1 – 2 m, với độ dốc
trung bình nhỏ hơn 5 m. Đất đai chủ yếu là đất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
2.1.3 Thời tiết, khí hậu
Thuận An cũng như các xã khác của huyện Phú Vang đều chịu sự chi phối của
vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa ven biển, có 2 mùa mưa nắng rõ rệt.
Mùa mưa kéo dài từ tháng 8 năm trước đến tháng 1 năm sau với lượng mưa
3.000 mm/năm. Lượng mưa cả năm tập trung từ tháng 9 đến tháng 12 gây úng lụt toàn
bờ, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và khai thác thủy sản cũng như
đời sống của người dân.
16
Mùa nắng gió Tây Nam khô nóng oi bức kéo dài từ tháng 3 đến tháng 8. Lượng
bốc hơi cao nhất từ tháng 2 đến tháng 4, lúc nước thủy triều xuống thấp, làm cho độ
mặn trong các ao hồ nuôi thủy sản tăng lên, gây trở ngại cho ngành NTTS.
Thuận An có 2 chế độ thủy triều: bán nhật triều đều và bán nhật triều không
đều. Biên độ thủy triều từ 0,5 – 2 m. Độ cao triều trong các vùng đầm phá, vũng vịnh
thường nhỏ hơn các vùng biển. Nhìn chung chế độ thủy triều ở đây thuận lợi cho nghề
NTTS.
Lượng bốc hơi bình quân 977 mm, nhiều nhất từ tháng 6 đến tháng 8, thấp nhất
là 36,6 mm vào tháng 2.
Độ ẩm trung bình 88%, cao nhất từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau với trên 90%,
thấp nhất tháng 7, 8 nhỏ hơn 70%.
Chế độ gió: Gió mùa Tây Nam từ tháng 4 đến tháng 8 khô nóng, gió
mùa Đông Bắc từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau khiến cho khí hậu lạnh ẩm, gây mưa,
dễ lũ lụt.
Bão thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 10. Tốc độ gió lớn có thể đạt từ 15
– 20 m/s trong gió mùa Đông Bắc và từ 30 – 40 m/s trong lốc bão.
2.2 ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI
2.2.1 Tình hình dân số và lao động của thị trấn
Tình hình dân số và lao động của thị trấn qua 2 năm 2008 và 2009 biểu hiện
trong bảng 5 dưới đây.
Năm 2008, tổng dân số của thị trấn là 20.445 người với 3.916 hộ, trong đó số
hộ nuôi tôm là 344 hộ chiếm 8,78%
Tổng dân số năm 2009 của thị trấn là 20.567 người, tăng 122 người tương ứng
tăng 0,6% so với năm 2008, với 4.473 hộ và 448 hộ nuôi tôm. Trong 577 hộ tăng lên
của năm 2009 so với năm 2008 thì có đến 104 hộ nuôi tôm chiếm 18,02%, cho thấy
nuôi tôm hiện vẫn đang là ngành nghề hấp dẫn với người dân nơi đây. Điều đó còn thể
hiện ở chỗ năm 2009, toàn thị trấn chỉ có 153 LĐ tăng thêm nhưng lại có thêm đến
208 LĐ tham gia vào nuôi tôm.
17
Bảng 5: Tình hình dân số và lao động của thị trấn qua 2 năm (2008 – 2009)
Chỉ tiêu
ĐVT
1. Tổng số NK
Khẩu
2. Tổng số hộ
2008
Số lượng
2009
%
Số lượng
2009/2008
%
+/-
%
20.445
100
20.567
100
122
0,6
Hộ
3.916
100
4.473
100
577
14,22
Trong đó số hộ nuôi tôm
Hộ
344
8,78
448
10,02
104
30,23
3.Tổng LĐ
LĐ
9.284
100
9.437
100
153
1,65
- LĐ NN
LĐ
7.621
82,09
7.733
91,94
112
1,47
Trong đó số LĐ nuôi tôm
LĐ
688
9,03
896
11,59
208
30,23
- LĐ phi NN
LĐ
1.663
17,91
1.704
18,06
41
2,47
4. BQ LĐ/hộ
LĐ/hộ
2,37
-
2,12
-
- 0,25 - 10,55
5. BQ NK/hộ
Khẩu/hộ
5,22
-
4,60
-
- 0,62 - 11,88
(Nguồn: Báo cáo thống kê hàng năm của UBND thị trấn)
Do thị trấn nằm ven đầm phá nên phần lớn ruộng lúa ở đây đều bị ngập mặn
dẫn đến năng suất thấp. Trái lại nhờ thuận lợi về mặt địa thế, ngành ngư nghiệp phát
triển mạnh và trở thành ngành kinh tế chủ lực đầy tiềm năng của thị trấn. Từ những
năm 1990, UBND thị trấn đã xác định: Khai thác và NTTS cùng với dịch vụ du lịch là
các ngành kinh tế chủ lực của thị trấn, trong đó NTTS được xem là ngành kinh tế mũi
nhọn. Từ đó chính quyền nơi đây đã phối hợp với các cơ quan chuyên ngành mở nhiều
lớp tập huấn, xây dựng nhiều mô hình nuôi trồng và đưa ra các thí dụ điển hình NTTS
giỏi nhằm kêu gọi, thu hút người dân tham gia vào lĩnh vực này.
Số lượng lao động BQ hộ năm 2008 và 2009 không chênh lệch nhiều, trên dưới
2 LĐ/hộ. Trong khi đó BQNK hộ năm 2008 là 5,22 còn năm 2009 là 4,60. Năm vừa
qua, các cơ quan chức năng trên địa bàn đã thực hiện tốt công tác DS & KHHGĐ, duy
trì tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở mức dưới 1%. Số lượng nhân khẩu bình quân hộ giảm
sẽ giảm gánh nặng về kinh tế lên đơn vị hộ cũng như gánh nặng về kinh tế xã hội và
môi trường đối với toàn thể xã hội.
18
2.2.2 Tình hình sử dụng đất của thị trấn
Đặc điểm đất đai có ảnh hưởng lớn đến việc xác định quy mô, cơ cấu và phân
bố các hoạt động kinh tế. Nghiên cứu sự biến động của tình hình sử dụng đất đai giúp
ta biết được tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Sự thay đổi trong cơ
cấu sử dụng đất đai của thị trấn Thuận An được thể hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 6: Tình hình sử dụng đất của thị trấn qua 2 năm (2008 – 2009)
2008
2009
Chỉ tiêu
Ha
Tổng DT tự nhiên
1. Đất NN
- Đất trồng lúa
- Đất NTTS
Trong đó đất chuyên nuôi tôm
2. Đất lâm nghiệp
3. Đất phi nông nghiệp
4. Đất chưa sử dụng
%
Ha
%
1.703,00
100
1.703,00
100
429,35
25,21
429,35
25,21
42,54
9,91
44,32
10,32
312,00
72,67
300,00
69,87
43,00
13,78
38,00
13,03
74,1
4,35
74,6
4,38
1.125,21
66,07
1125,21
66,07
74,34
4,37
73,84
4,34
(Nguồn: Báo cáo thống kê hàng năm của UBND Thị trấn)
Từ năm 2005, UBND thị trấn đã thực hiện quy hoạch sử dụng đất hợp lý theo
chủ trương chính sách của Đảng. Do đó diện tích sử dụng đất về cơ bản không có biến
động giữa 2 năm 2008 và 2009. Thị trấn có 1.703 ha diện tích đất tự nhiên, trong đó có
429,35 ha đất NN, chiếm 25,21% và đất phi NN là 1.125,21 ha, chiếm 66,07%.
Trồng lúa nước vẫn là một trong những ngành nghề sản xuất nông nghiệp
truyền thống của địa phương. Chính quyền nơi đây vẫn chú ý hỗ trợ người dân phát
huy nghề trông lúa vốn có của mình nhằm đảm bảo cung cấp lương thực cho bản thân
họ và người dân trong vùng. Vụ đông xuân năm 2008 - 2009, cán bộ địa phương đã
chỉ đạo triển khai sản xuất 44,32 ha, tăng 1,78 ha so với năm 2008, năng suất ước đạt
55,06 tạ/ha. Điều này rất khả quan bởi các phòng ban chức năng đã chú trọng không
để các hộ dân chuyển hết diện tích sản xuất nông nghiệp của mình sang NTTS, một
19
trong những nghề nóng ở nơi đây, nhằm làm giàu một cách nhanh chóng, tránh gây ra
hiện tượng phát triển không theo quy hoạch, ảnh hưởng đến môi trường vùng đầm phá.
Diện tích NTTS năm 2008 của thị trấn là 312 ha, đến năm 2009, nhờ sự quy
hoạch của chính quyền địa phương, sắp xếp và thu gọn diện tích nò sáo nhằm lưu
thông dòng chảy nên diện tích giảm còn 300 ha. Với diện tích nuôi chuyên tôm năm
2009 là 38 ha, chiếm 13,03% tổng diện tích NTTS của toàn thị trấn, giảm 5 ha so với
43 ha nuôi tôm năm 2008. Năm 2008, tình hình nuôi tôm có nhiều diễn biến phức tạp:
dịch bệnh xảy ra hàng loạt, một số hồ nuôi đã qua nhiều năm sử dụng không chú ý cải
tạo khiến cho môi trường ao nuôi ô nhiễm, nền đáy bị thoái hóa. Lại thêm việc ngưng
sản xuất một trong ba trại tôm giống của thị trấn khiến lượng tôm cung cấp không đáp
ứng đủ nhu cầu, người dân phải nhập tôm từ các vùng lân cận không qua kiểm dịch
khiến cho sản lượng tôm thu được không cao dẫn đến thua lỗ, một số hộ không đủ khả
năng duy trì diện tích nuôi như cũ.
Diện tích đất lâm nghiệp ở địa phương vẫn được chú trọng gìn giữ bởi hầu hết
đất ở đây đều là đất cát, dễ bị sạt lở khi thủy triều lên xuống. Năm 2009, UBND thị
trấn đã chỉ đạo tổ chức lễ phát động trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ”, đã trồng
được 5.000 cây tràm hoa vàng và 0,5 ha rừng phi lao phòng hộ ven biển, góp phần
chống xâm thực biển và bảo vệ môi trường sinh thái. Điều này sẽ khiến người dân nơi
đây yên tâm chăm lo sản xuất.
Toàn thị trấn hiện nay vẫn còn 73,84 ha đất chưa sử dụng, chủ yếu là đất cát.
Chính quyền địa phương nên sử dụng diện tích đất này để xây dựng cở hạ tầng phục
vụ cho phát triển dịch vụ du lịch nơi đây.
2.2.3 Điều kiện cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật của thị trấn
* Về hệ thống giao thông
Thuận An là thị trấn của huyện Phú Vang, cách thành phố Huế 12 km, nằm dọc
theo quốc lộ 49A. Nơi đây còn có bãi biển Thuận An phục vụ du khách đến tham quan
và du lịch. Cảng Thuận An là nơi trung chuyển, trao đổi hàng hóa khắp mọi miền.
Hệ thống giao thông trên địa bàn đã được quan tâm đầu tư xây dựng. Ngoài ra tại đây
còn có hàng trăm km đường bê tông được tạo ra trên cơ sở “Nhà nước và nhân dân
cùng làm”.
20
- Xem thêm -