LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước được thực
hiện ở nước ta từ năm 1945. Từ đó đến nay chính sách BHXH không ngừng được sửa
đổi, bổ sung phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Sau Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với đường
lối phát triển kinh tế của đất nước, ngày 23/6/1995, trong đó có chương XII quy định
về chính sách BHXH. Tiếp đó Luật BHXH (gồm 11 chương; 141 điều) đã được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày
29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007.
Để tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH theo cơ chế mới, Chính
phủ ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 thành lập BHXH Việt Nam là cơ
quan thuộc chính phủ trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH từ TW đến địa phương
thuộc hệ thống Lao động Thương binh xã hội và Liên đoàn lao động với chức năng
nhiệm vụ chính là thực hiện giải quyết các chế độ chính sách, tổ chức thu, chi bảo tồn
giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH.
Từ 01/01/2003 thực hiện quyết định số 20/2002/QĐ-TTg ngày 24/01/2002 của
Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển Bảo hiểm y tế (BHYT) Việt Nam sang BHXH
Việt nam và Nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức BHXH Việt Nam. Bảo hiểm xã hội
huyện Mỹ Đức thuộc BHXH tỉnh Hà Tây được giao chức năng, nhiệm vụ thực hiện
chính sách BHXH, BHYT đối với người lao động và các đối tượng khác trên địa bàn
tỉnh theo đúng các quy định của Nhà nước. Từ thời điểm này tổ chức bộ máy của Bảo
hiểm xã hội huyện Mỹ Đức thuộc BHXH tỉnh Hà Tây được điều chỉnh, gồm 6 phòng
nghiệp vụ.
* Với chức năng, nhiệm vụ của ngành được giao, hoạt động của Bảo hiểm xã hội
tỉnh Hà Tây qua 12 năm thực hiện luôn xác định rõ 4 mục tiêu chủ yếu sau:
- Từng bước mở rộng, tăng nhanh đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH,
BHYT ở mọi thành phần kinh tế phù hợp với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phấn
đấu thực hiện các mục tiêu do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X và Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây đề ra trong lĩnh vực BHXH, BHYT.
- Đảm bảo cho mọi người được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong việc
tham gia và thụ hưởng chế độ BHXH, BHYT.
1
- Tổ chức thu BHXH, BHYT, đảm bảo chi trả các chế độ BHXH, BHYT kịp
thời, đúng chế độ, đúng đối tượng, quản lý chặt chẽ và sử dụng nguồn kinh phí được
phân bổ đúng nguyên tắc quy định.
- Vừa thực hiện nhiệm vụ vừa xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy. Không
ngừng nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo, quản lý; tổ chức thựchiện chuyên môn
nghiệp vụ, trình độ chính trị, ý thức trách nhiệm phục vụ đối tượng của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức trong ngành. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, từng bước
hiện đại hóa phương tiện làm việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Chính vì vậy mà trong quá trình thực tập để làm đề tài tốt nghiệp em đã chọn
đề tài: "Hoàn thiện quản lý thu quỹ BHXH trên địa bàn huyện Mỹ Đức - tỉnh Hà
Tây".
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương I : Cơ sở lý luận về BHXH và công tác quản lý thu quỹ
Bảo hiểm xã hội.
Chương II : Thực trạng công tác thu và quản lý thu quỹ BHXH ở
BHXH huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây thời gian qua.
Chương III : Các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu quỹ BHXH
huyện Mỹ Đức.
Đề tài được thực hiện với sự giúp đỡ của: PGS.TS Phan Kim Chiến.
Khoa:
Khoa học Quản lý.
Chuyên ngành: Quản lý Kinh Tế
Trường:
Đại học Kinh tế Quốc dân.
Cùng Ban Giám Đốc và tập thể cán bộ công chức viên chức BHXH huyện Mỹ
Đức, tỉnh Hà Tây.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình đó, đã giúp em hoàn thành tốt
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
2
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BHXH VÀ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH
I- BẢO HIỂM XÃ HỘI
1. Tính tất yếu của Bảo hiểm xã hội:
Đất nước ta ngày nay, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, là định hướng chủ đạo nó tạo thêm nhiều việc làm mới cho
người lao động. Các khu công nghiệp mới tăng nhanh đã làm hoàn thiện cơ cấu kinh tế
vùng, nền kinh tế Quốc dân bằng những chính sách ưu đãi, hỗ trợ của mình nhà nước
đã định hướng thực hiện được các mục tiêu nhiệm vụ cụ thể làm động lực thúc đẩy
sự phát triển nền kinh tế của cả nước và từng bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta.BHXH mang tính nhân
văn sâu sắc, vì cuộc sống an lành, an sinh xã hội.
BHXH được Nhà nước ta quan tâm rất nhiều ngay từ ngày đầu thành lập và
được cụ thể hóa bằng các sắc lệnh của Chính phủ, các chính sách này đã giúp cho đội
ngũ cán bộ công nhân viên chức, người lao động và người làm việc trong lực lượng
vũ trang như công an, quân đội yên tâm, nhiệt tình trong công tác góp phần không nhỏ
vào việc xây dựng, đấu tranh thống nhất đất nước. Trong công cuộc đổi mới, phát triển
đất nước ngày nay chính sách BHXH càng được củng cố, hoàn thiện theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quỹ
BHXH được bảo tồn tăng trưởng và phát triển đồng thời được sử dụng có hiệu quả để
chi trả các chế độ, trợ cấp BHXH cho người lao động tham gia đóng BHXH ở các
thành phần kinh tế một cách ổn định lâu dài. Sự xuất hiện nhanh chóng của các loại
hình Bảo hiểm, các quỹ tương hỗ, đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình
tồn tại và phát triển xã hội loài người. Từ đó những nỗi lo toan, phiền muộn về các
biến cố, sự cố bất lợi xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của con người đã được giải
toả. Tâm lý con người cảm thấy an toàn vui vẻ hơn với sự giúp đỡ của các công ty, các
doanh nghiệp, các đơn vị ,các tổ chức BHXH, hoạt động của các loại hình Bảo hiểm
này đã đem lại chỗ dựa, niềm tin vững chắc trong cuộc sống của người lao động, tạo
sự ổn định của các doanh nghiệp, các công ty và các tổ chức. Như vậy có thể thấy sự
3
xuất hiện của BHXH là một nhu cầu tất yếu khách quan của cuộc sống. việc quản lý
quỹ BHXH là việc làm rất cần thiết bởi vì BHXH là chi phí giúp đỡ về mặt tài chính
cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho người lao động.
Xét từ các doanh nghiệp: các Doanh nghiệp phải thực hiện đóng góp đầy đủ,
thường xuyên vào quỹ BHXH theo mức quy định chung của nhà nước và pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần hiện nay mối quan hệ cơ bản giữa các
chủ Doanh nghiệp và người lao động là mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó ràng buộc nhau
bởi các quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên. Các doanh nghiệp vừa phải tạo điều
kiện làm việc tốt cho người lao động vừa phải trả tiền lương, tiền công cho họ vừa
phải có trách nhiệm bảo vệ, giúp đỡ khi họ không may gặp phải những rủi ro trong
quá trình lao động, trong cuộc sống. Chính từ các chi phí phát sinh này đã làm ảnh
hưởng đến tình hình tài chính của các doanh nghiệp, đặc biệt là những khi dịch bệnh,
rủi ro mang tính thảm hoạ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
các Doanh nghiệp khi phải trang trải cho các chi phí đó. Đối với chủ sử dụng lao động
cũng phải tham gia đóng góp đầy đủ và thường xuyên vào quỹ BHXH theo mức quy
định chung của nhà nước của pháp luật. Sau đó người sử dụng lao động có quyền yêu
cầu về quyền lợi hưởng các chế độ trợ cấp về BHXH căn cứ vào sự đóng góp và theo
chế độ quy định.
Xét từ nhà nước và xã hội: xây dựng hệ thống pháp luật về chính sách BHXH,
tổ chức thực hiện tốt các chính sách về BHXH đồng thời cũng có trách nhiệm tham gia
đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo quỹ BHXH tăng trưởng phát triển thực hiện đầy
đủ các chế độ BHXH đối với người lao động. Việc tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm
quỹ BHXH của nhà nước là thể hiện cụ thể vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết
kinh tế xã hội và trách nhiệm của Nhà nước thể hiện trong việc giữ gìn ổn định chính
trị xã hội. Sự vận động của các quy luật trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là quy
luật cạnh tranh nhiều trường hợp một số doanh nghiệp vào rơi vào tình trạng bất ổn về
tài chính, thậm trí phá sản dẫn đến một loạt người lao động bị mất công ăn việc làm,
không đảm bảo được cuộc sống hàng ngày và tạo ra nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh
trong xã hội.
Cùng với sự phát triển kinh tế, tiến bộ của xã hội việc quản lý thu BHXH được
coi như là nhu cầu tất yếu của con người nó có thể thấy được xem như là một trong
4
những quyền cơ bản nhất của con người, được Đại hội đồng liên hợp quốc thừa nhận
và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10 tháng 12 năm 1948 " Tất cả mọi người với
tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH. quyền đó đặt cơ sở trên
sự thoả mãn các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát
triển con người" (trích từ: Một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm xã hội
Việt Nam, Hà Nội tháng 4/2001);
2. Chức năng của BHXH.
BHXH có một số chức năng chủ yếu như sau :
+ Chức năng hạn chế bớt một phần khó khăn về kinh tế của người lao động.
Với chức năng này BHXH cho phép tất cả các hoạt động kinh tế xã hội hoặc các đối
tượng đã tham gia trong quá trình kinh tế xã hội trước đây hoặc tất cả các công
dân...hình thành các quyền lợi đảm bảo để duy trì một chuẩn mực sống tương đối ổn
định ngay cả khi trong trường hợp có sự cố bất ngờ rủi ro xảy ra.
+ Chức năng hình thành một hệ thống an sinh, an toàn xã hội. Với chức năng
này rất cần thiết cho người lao động, Người sử dụng lao động mà còn đảm bảo sự ổn
định chính trị, an toàn xã hội cho quốc gia, đảm bảo chắc chắn đối với mọi thành viên
trong xã hội gặp cảnh nghèo đói đều được cung cấp một khoản thu nhập bằng tiền
cũng như các dịch vụ chăm sóc về ytế và dịch vụ xã hội đầy ý nghĩa.
+ Hai chức năng trên này hỗ trợ cho nhau. Đảm bảo ổn định kinh tế tài chính
cho người lao động, khuyến khích họ yên tâm làm việc phát huy hết khả năng, năng
lực chuyên môn giúp cho nền kinh tế phát triển, ổn định xã hội, đảm bảo an toàn cho
quốc gia về kinh tế chính trị và an ninh quốc phòng. Chính vì thế mà hiện nay đã có
182 nước có luật về BHXH. Có thể nói BHXH là một trong những hoạt động mà tất cả
các quốc gia đều quan tâm không phân biệt thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế
xã hội.
Bảo hiểm xã hội đã đóng góp vai trò to lớn trong việc bảo đảm an sinh xã hội,
ổn định và phát triển kinh tế, được thể hiện thông qua các tác động chủ yếu cụ thể sau:
-Bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm thu nhập hoặc bị
mất thu nhập do bị suy giảm sức khỏe hoặc mất khả năng lao động bị mất việc làm.
Đây là sự đảm bảo chắc chắn sẽ xảy ra vì mọi người sẽ mất khả năng lao động khi họ
hết tuổi lao động, theo các điều kiện quy định của BHXH. Đây là chức năng cơ bản
5
của BHXH nó quyết định tính chất, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của hệ thống
BHXH.
-Thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
đóng góp quỹ BHXH. Tham gia BHXH có người sử dụng lao động, người lao động
và nhà nước hỗ trợ đóng góp hình thành xây dựng lên quỹ BHXH . Quỹ BHXH này
được sử dụng để chi trả trợ cấp BHXH cho những người tham gia BHXH không may
gặp tai nạn, rủi ro. Thực tế chỉ ra rằng số tiền trợ cấp được hưởng thường nhỏ hơn rất
nhiều so với số số tiền mình tham gia, do áp dụng theo quy luật số đông bù ít, quỹ
BHXH đã thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Sự phân
phối này thể hiện phân phối thu nhập giữa những người có thu nhập cao với những
người có thu nhập thấp, giữa những người đang làm việc khoẻ mạnh với những người
tuổi cao sức yếu, già cả, ốm đau đang nghỉ việc. chức năng này của BHXH đã góp
phần tạo nên sự công bằng trong xã hội mang tính nhân văn sâu sắc.
- Góp phần thúc đẩy, kích thích tinh thần lao động, khuyến khích người lao
động hăng hái sản suất nâng cao chất lợng, năng xuất lao động tạo ra nhiều của cải
cho xã hội. Quỹ BHXH thực hiện chức năng này là do họ không may gặp phải các tai
nạn rủi ro, phần thu nhập của họ bị giảm sút hoặc không còn nhưng sự suy giảm này
đã được bù đắp một phần, hay toàn bộ từ quỹ BHXH. Vì vậy mà đời sống sinh hoạt
hàng ngày của người lao động và gia đình họ không còn bị sáo trộn. Hay nói một cách
khác là họ luôn luôn được bảo đảm ổn định cuộc sống và có chỗ dựa về mặt vât chất,
tinh thần. Chính vì vậy họ luôn yên tâm để sản xuất nâng cao chất lượng, năng xuất
lao động và đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Gắn bó lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động giữa người sử
dụng lao động với xã hội. Thông qua BHXH những mâu thuẫn giữa những người lao
động và người sử dụng lao động. Như mâu thuẫn về tiền lương, tiền thưởng, thời gian
lao động … sẽ được hoà giải và giải quyết kịp thời. Đặc biệt nhờ có BHXH mà cả hai
bên này đều thấy được quyền lợi của mình được quan tâm bảo vệ. Từ đó làm cho họ
hiểu nhau hơn và gắn bó chặt chẽ lợi ích với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội thì chi
hỗ trợ cho BHXH là khoản chi rất nhỏ nhưng lại đem lại hiệu quả đạt được rất cao
đảm bảo ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần ổn định sản
xuất và phát triển kinh tế xã hội.
6
3. Tính chất của bảo hiểm xã hội.
BHXH ra đời gắn liền với đời sống của người lao động do vậy BHXH có một
số tính chất cơ bản sau:
- BHXH mang tính tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế xã hội.
- BHXH mang tính ngẫu nhiên phát sinh không đồng đều theo thời gian và
không gian. Những rủi ro không may đem lại trong BHXH đã hình thành nên tính
ngẫu nhiên của nó. Bởi vì các rủi ro này được áp dụng BHXH đều không thể lường
trước được sự việc xảy ra, các rủi ro này thường xảy ra một cách bất ngờ. Do vậy mà
không phải tất cả những người lao động của một tổ chức hay tất cả các tổ chức đều
phải chịu chung một rủi ro hay nhiều rủi ro cùng một lúc, cùng một thời điểm.
- BHXH vừa mang tính xã hội, vừa mang tính kinh tế và có cả tính chất dịch
vụ. Tính chất kinh tế của BHXH được biểu hiện thông qua cơ chế hình thành và sử
dụng quỹ BHXH, Quỹ BHXH khi được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng quỹ thì
nhất thiết phải có sự tham gia đóng góp tài chính của tất cả các bên liên quan. Mức
tham gia đóng góp của các bên được xác định rất cụ thể dựa trên nguyên tắc hoạt động
cơ bản của Bảo hiểm xã hội tr ên cơ sở lấy số đông bù cho số ít vì thực chất mức tham
gia đóng góp của từng nguời lao động là không đáng kể so với mức họ được thụ hưởng
quyền lợi. Xét về góc độ kinh tế thì người sử dụng lao động, được lợi rất nhiều khi
quan hệ BHXH, khi tham gia BHXH người sử dụng lao động sẽ không phải chi trả các
khoản chi phí cho người lao động bị suy giảm sức khỏe hoặc mất khả năng lao động.
Xét về phía Nhà nước thì việc tạo lập, hoạt động của quỹ BHXH đã góp phần giảm
nhẹ gánh nặng cho Ngân sách nhà nước (NSNN). Đồng thời nó còn góp phần đầu tư
phát triển cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tạo lập và sử dụng, hoạt động của quỹ
BHXH đã đem lại rất nhiều quyền lợi, lợi ích cho nguời lao động, người sử dụng lao
động và Nhà nước.
BHXH là một bộ phận quan trọng chủ yếu trong hệ thống đảm bảo an toàn xã
hội, vì tính chất xã hội của BHXH được thể hiện rất rõ nét về tính chất lâu dài mọi
nguời lao động trong xã hội đều có quyền tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Ngược
lại BHXH phải có trách nhiệm Bảo hiểm đảm bảo quyền lợi cho mọi người lao động
và gia đình họ kể cả khi họ đang còn trong độ tuổi lao động. Tính chất xã hội của
BHXH luôn gắn chặt chẽ với tính dịch vụ của nó, khi nền kinh tế xã hội ngày càng
7
phát triển mạnh thì tính chất dịch vụ, tính chất xã hội hoá của hệ thống BHXH ngày
càng được nâng cao.
3.1, Đặc điểm của quỹ BHXH:
+ Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập chung giữ vị trí trong khâu tài chính nằm
giao thoa giữa ngân sách Nhà nước với các Tổ chức tài chính doanh nghiệp, tài chính
Nhà nước, tài chính dân cư.
+ Việc phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất
không hoàn trả. Tính chất không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng đối với những
người lao động đã tham gia BHXH trong suốt quá trình lao động nhưng không bị ốm
đau, sinh con, tai nạn lao động.
+ Sự ra đời tồn tại và phát triển ngày càng lớn mạnh của quỹ BHXH gắn liền
với chức năng vốn có của Nhà nước là vì nó đảm bảo quyền lợi cho người lao động
chứ không vì mục đích lợi nhuận, kiếm lời. Đồng thời quỹ BHXH cũng phụ thuộc vào
trình độ phát triển của kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ của mỗi
một quốc gia. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển lớn mạnh thì càng có nhiều các
chế độ BHXH được thực hiện hơn và các chế độ cũng sẽ được áp dụng rộng rãi hơn,
thoả mãn nhu cầu về BHXH của người lao động ngày càng được nâng cao.
Mặt khác khi nền kinh tế phát triển mạnh thì mức thu nhập của người lao động
càng cao, họ sẽ tham gia vào nhiều chế độ BHXH.
+ Ngoài ra quỹ BHXH mang tính chất tiêu dùng được thể hiện thông qua các
mục tiêu, mục đích của nó là chi trả đầy đủ các chế độ BHXH. Ngoài ra quỹ BHXH lại
mang tính chất dự trữ và thông thường khi người lao động tham gia đóng góp vào quỹ
BHXH thì họ không được quỹ BHXH này chi trả ngay khi gặp tai nạn rủi ro mà phải
có thời gian dự bị đủ thủ tục mới thanh toán.
+ Hoạt động của quỹ BHXH đã đặt ra yêu cầu tất yếu sẽ hình thành chế độ tiết
kiệm bắt buộc của xã hội và của người lao động để dành khi ốm đau, tai nạn, hưu trí,
Đây cũng là quá trình phân phối lại thu nhập của cá nhân người lao động và cộng
đồng xã hội.
3.2, Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn cơ bản sau:
- Sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động.
8
- Sự đóng góp của người lao động tham gia BHYT bắt buộc và tự nguyện.
- Sự đóng góp Nhà nước đóng để đảm bảo thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH
đối với người lao động.
- Nhà nước hỗ trợ về BHYT đối với người nghèo và các đối tượng chính sách
khác.
- Tiền sinh lời từ đầu tư do thực hiện các biện pháp bảo toàn, tăng trưởng quỹ
BHXH.
- Các nguồn thu hợp pháp khác
Phần lớn đối với các nước trên thế giới hiện nay thì quỹ BHXH đều được tạo
lập hình thành từ các nguồn trên. Tuy nhiên do từng điều kiện hoàn cảnh lịch sử của
mỗi quốc gia mà tỉ lệ tham gia đóng góp giữa các bên, mức độ tham gia đóng góp của
từng bên, mức độ can thiệp của Nhà nước, hay hình thức tham gia đóng góp sẽ khác
nhau.
Phương thức đóng góp vào quỹ BHXH của người sử dụng lao động và người
lao động hiện nay còn có hai quan điểm đó là:
+Việc xác định mức đóng góp phải căn cứ vào mức lương của từng cá nhân và
quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp.
+ Phải căn cứ vào thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định nên mức đóng góp.
Việc chọn lựa quan điểm nào là tuỳ thuộc ở mỗi quốc gia nhưng phải bảo đảm
rằng mức tham gia đóng góp của mỗi bên phải đủ để cân đối việc thu, chi của quỹ
BHXH. Trong thực tế việc xác định mức tham gia đóng góp của các bên ( thực chất là
xác định mức phí BHXH) được tính toán một cách khoa học cho việc xác định mức
phí. BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu và người ta thường dùng các phương pháp
toán học khác nhau để xác định. Phí BHXH được xác định theo công thức:
P = f1 + f2 + f3
Trong đó:
f1: là phí thuần BHXH
f2: là phí quản lý
f3: là phí dự trữ
Phí thuần của BHXH là một bộ phận cấu thành quan trọng nhất của phí BHXH,
phí thuần được xác định để bảo đảm chi trả đầy đủ cho tất cả các chế độ BHXH. Chính
9
vì vậy việc xác định mức phí BHXH là rất khó, phức tạp nó phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau như: Cơ cấu lao động theo các độ tuổi, kết cấu giới tính trong lực lượng
lao động, đặc điểm cấu tạo sinh học của con người trong một nước, tuổi thọ bình quân
của người dân, điều kiện làm việc chung của người lao động…
Ngoài sự tham gia đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và
Nhà nước. Quỹ BHXH còn được hình thành từ các nguồn khác như: tiền sử phạt đối
với các đơn vị vi phạm theo điều lệ BHXH, các khoản hỗ trợ, viện trợ của các tổ chức
trong và ngoài nước, các khoản lãi từ hoạt động đầu tư tài chính từ phần quỹ BHXH
nhàn rỗi…
3.3, Mục đích sử dụng quỹ BHXH .
Như ta đã biết phí BHXH bao gồm 3 bộ phận đó là: phí thuần, phí dự trữ, phí
quản lý, như vậy rõ ràng ta thấy quỹ BHXH được sử dụng cho 3 mục đích đó là: chi
trả cho các chế độ trợ cấp BHXH, chi cho việc quản lý hệ thống BHXH, chi trích lập
quỹ dự phòng, dự trữ giải quyết trong trường hợp gặp những tổn thất lớn.
Trong cơ cấu chi từ quỹ BHXH thì chi trả cho các chế độ BHXH là rất lớn,
chiếm phần lớn nguồn quỹ BHXH vì đây là mục tiêu cơ bản nhất của BHXH là: bảo
đảm ổn định cuộc sống cho người lao động, cho các hoạt động của các đơn vị, tổ chức.
Trong thực tế việc chi trả cho các chế độ BHXH diễn ra thường xuyên, liên tục với số
lượng chi phí lớn trên phạm vi rộng lớn. Một trong những khoản chi thường xuyên
hàng tháng đó là chi lương hưu cho những người lao động đã nghỉ công tác và chi trả
trợ cấp BHXH hàng tháng cho thân nhân của người lao động, người đang nghỉ hưu khi
họ không may qua đời .
Nguồn chi thứ hai trong quỹ BHXH đó là chi phí dự trữ, thực chất đây là quá
trình tích luỹ lâu dài trong qúa trình sử dụng quỹ BHXH. định kỳ hàng tháng, quý,
năm cơ quan BHXH giữi hay trích lại một phần quỹ BHXH của mình để thành lập nên
quỹ dự phòng, dự trữ BHXH. Quỹ này chỉ được sử dụng trong những trường hợp khi
nhu cầu chi trả quá lớn dẫn đến thâm hụt quỹ BHXH như trong lúc đồng tiền mất giá
và do hội đồng quản lý quyết định.
3.4, So sánh quỹ BHXH và ngân sách Nhà nước.
Nguồn Ngân sách nhà nước là tổng thể các mối quan hệ kinh tế xã hội phát
sinh, trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực, chính trị của mình để tập trung lại một
10
phần thu nhập của quốc gia, nhằm tạo lập lên một quỹ tiền tệ chung của Nhà nước và
dùng cho việc thực hiện các chức năng phát triển kinh tế xã hội theo mục tiêu kế hoạch
của Nhà nước.
Qua khái niệm trên về quỹ NSNN chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm giống
nhau và khác nhau giữa quỹ BHXH và nguồn NSNN, từ đó ta sẽ hiểu rõ hơn, được
đầy đủ hơn về quỹ BHXH cụ thể:
+ Sự giống nhau giữa quỹ BHXH và NSNN:
- Việc tạo lập và sử dụng của mỗi nguồn quỹ đều được biểu hiện dưới hình thái
tiền tệ, quá trình này đều được thực thi theo các văn bản quy định của pháp luật và
việc quản lý, sử dụng quỹ được tiến hành theo nguyên tắc cơ bản cân bằng giữa thu,
chi.
- NSNN và Quỹ BHXH là những khâu tài chính quan trọng, độc lập trong hệ
thống tài chính mỗi quốc gia, chức năng nhiệm vụ của NSNN mang tính rộng hơn so
với quỹ BHXH.
- Hoạt động của cả NSNN và quỹ BHXH đều không phải là nhằm mục đích
kinh doanh kiếm lời, mà hoạt động của chúng đều mang đậm nét tính chất xã hội, tính
cộng đồng dân tộc và trong nhiều trường hợp hoạt động của hai quỹ này còn mang tính
nhân văn sâu sắc.
+ Sự khác nhau giữa quỹ BHXH và NSNN:
- Về điều kiện ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ NSNN, gắn liền với sự ra đời
tồn tại và phát triển của Nhà nước và thực hiện đầy đủ các chức năng kinh tế xã hội
của Nhà nước. Còn sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ BHXH, gắn liền với sự phát
triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với các quan hệ thuê mướn nhân
công. Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thu nhập của người lao động ngày
càng cao thì phạm vi các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, mức độ thoả mãn về nhu
cầu của người lao động khi tham gia BHXH càng nhiều.
- Tính chất pháp lý của NSNN cao hơn so với quỹ BHXH, quá trình phân phối
của NSNN chủ yếu dựa vào quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước. Nhà nước ban
hành các văn bản luật để thực hiện việc thu, chi quỹ NSNN. Quá trình này được sự
kiểm tra, giám sát và quản lý chặt chẽ của Quốc hội. Còn đối với quỹ BHXH thì hoạt
động thu, chi quỹ BHXH cũng được thực hiện dựa vào các văn bản quy định pháp
11
luật, nhưng chủ yếu dựa vào mối quan hệ kinh tế, quan hệ về lợi ích của những người
lao động tham gia theo nguyên tắc có đóng góp mới được hưởng và ngược lại người
lao động không tham gia đóng góp thì sẽ không được hưởng quyền lợi.
- Trong quan hệ phân phối thì NSNN chủ yếu là phân phối lại và không mang
tính chất hoàn trả. Chủ thể tham gia đóng góp và hưởng thụ từ NSNN thông thường là
tách rời nhau, còn quan hệ phân phối quỹ BHXH thì mang tính chất hoàn trả. Việc
hoàn trả lại cho người tham gia đóng góp là không thể biết trước được chính xác về
quy mô, về thời gian và không gian.
- Trong quan hệ phân phối của NSNN thường phản ánh đến quan hệ lợi ích của
xã hội, lợi ích quốc gia và việc chi phối các quan hệ lợi ích bộ phận, lợi ích cá nhân
nhằm bảo đảm cho sự ổn định của nền kinh tế xã hội.
Trong quan hệ phân phối của quỹ BHXH thì ngược lại, trước hết vì lợi ích của
từng cá nhân sau người lao động tham gia, sau đó là lợi ích của đơn vị và cuối cùng
mới đến lợi ích xã hội.
II- QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH
1. Khái niệm :
+ Quỹ BHXH là : Một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ các bên tham
gia BHXH, ở nước ta hiện nay thì quỹ được hình thành từ:
- Người sử dụng lao động tham gia đóng bằng 15 % quỹ tiền lương.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương hàng tháng.
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để góp phần bảo đảm thực hiện đầy đủ các chế
độ BHXH đối với người lao động ngoài ra quỹ BHXH còn hình thành từ khoản lãi do
đầu tư tăng trưởng và các khoản thu khác.
Quỹ BHXH được hình thành do ba bên đóng góp đó là (nguời lao động, người
sử dụng lao động và nhà nước) chính vì vậy quỹ BHXH là của ba bên nhưng hiểu rộng
ra đó là Nhà nước là của dân. Người lao động, người sử dụng lao động cũng là người
dân, do vậy thực chất quỹ BHXH là quỹ xã hội của Nhà nước. Quỹ BHXH không phải
của bất kỳ một tổ chức nào, một ngành nào, quỹ cũng không thuộc Ngân sách nhà
nước. Về nguyên tắc cơ bản quỹ của ai thì người đó có quyền quản lý, chính vì thế mà
quỹ BHXH là quỹ chung, được điều hành thông qua một hội đồng quản lý, hội đồng
đó có đầy đủ đại diện của ba bên.
12
Mô hình quỹ BHXH do hội đồng quản lý có đại diện của các bên tham gia là
mô hình phổ biến được áp dụng ở tất cả các nước trên thế giới .
Ở nước ta hiện nay các thành viên trong hội đồng quản lý quỹ BHXH bao gồm:
Đại diện có thẩm quyền của Bộ Tài chính, Bộ lao động Thương binh và xã hội, Tổng
giám đốc BHXH Việt Nam. Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam có nhiệm vụ chỉ đạo
và giám sát, chỉ đạo để thực hiện thu, chi quản lý quỹ của BHXH Việt Nam.
Người sử dụng lao động và người lao động khi tham gia Bảo hiểm xã hội bắt
buộc đóng. Nguời sử dụng lao động và người lao động tham gia bảo hiểm Y tế bắt
buộc, tự nguyện đóng và đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm gồm
Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước nhằm mục đích chi trả đầy đủ
các chế độ BHXH và bảo đảm các hoạt động của hệ thống BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập tập chung nằm ngoài Ngân sách nhà
nước.
2- Nội dung quản lý thu BHXH.
2.1. theo quy trình quản lý thu:
Bảo hiểm xã hội huyện Mỹ Đức là một đơn vị trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh
Hà Tây, do đó phải thực hiện tốt các nhiệm vụ, các chỉ tiêu kế hoạch thu BHXH hàng
năm do BHXH tỉnh Hà Tây giao cho đến các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn
mình quản lý cụ thể:
Hàng năm BHXH huyện căn cứ vào danh sách lao động, quỹ tiền lương trích
nộp BHXH tháng 9 của các đơn vị sử dụng lao động do BHXH huyện trực tiếp quản lý
thu BHXH. Thực hiện kiểm tra, đối chiếu tổng hợp và lập kế hoạch thu BHXH trên địa
bàn cho năm sau (theo mẫu số 4 - KHT), đồng thời gửi về BHXH Tỉnh Hà Tây trước
ngày 20/10.
Lập kế hoạch thu BHXH đến các đơn vị sử dụng lao động hàng quý;
Tổ chức thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch thu BHXH trong năm do BHXH
tỉnh Hà Tây giao.
Hướng dẫn đơn vị lập danh sách lao động, quỹ tiền lương đóng BHXH từ đầu
năm và danh sách chỉnh tăng giảm mức lương đóng BHXH hàng tháng;
Kiểm tra đối chiếu danh sách, điều chỉnh tăng giảm hàng tháng, có biên bản đối
chiếu kết quả tham gia đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động;
13
Vào sổ sách theo dõi chi tiết kết quả thu nộp BHXH đến từng người lao động ở
từng cơ quan, đơn vị sử dụng lao động phát sinh hàng tháng;
Thông báo kịp thời cho các đơn vị sử dụng lao động còn nợ đọng tiền BHXH.
Xác nhận các mức đóng, thời gian đóng BHXH khi thực hiện giải quyết chế độ
BHXH cho người lao động hoặc di chuyển nơi làm việc của người lao động.
Tổng hợp số liệu báo cáo kết quả thu BHXH trong tháng, quý, năm về BHXH
tỉnh Hà Tây theo định kỳ quy định:
+ Báo cáo nhanh 10 ngày/lần;
+ Báo cáo tháng vào ngày 02 tháng sau;
+ Báo cáo quý vào ngày 10 tháng đầu quý sau;
+ Báo cáo năm vào ngày 20 tháng đầu năm sau;
+ Kiểm tra danh sách chứng từ thu tổng hợp số liệu thu BHXH của các đơn vị
sử dụng lao động trên địa bàn huyện quản lý lập báo cáo quyết toán thu BHXH hàng
quý gửi BHXH tỉnh Hà Tây
+ Hàng quý, năm BHXH tỉnh Hà Tây tổ chức kiểm tra thẩm định số liệu thu
BHXH trong kỳ của BHXH huyện Mỹ Đức. Việc tổ chức kiểm tra thẩm định số liệu
thu được thực hiện sau kỳ báo cáo, biên bản kiểm tra số liệu thu BHXH sau khi được
thẩm định là tài liệu gốc kèm theo hồ sơ quyết toán tài chính quý, năm của BHXH các
cấp.
BHXH
Tỉnh Hà
Tây
BHXH
Các huyện,
thị xã
Các đơn vị
sử dụng
lao động
Chú thích:
: Lập và giao chỉ tiêu kế hoạch thu BHXH hàng năm.
14
: Lập kế hoạch, báo cáo số thu BHXH định kỳ.
: Hướng dẫn, theo dõi các đơn vị thực hiện tham gia đóng BHXH, chuyển
tiền thu BHXH vào tài khoản của BHXH kịp thời, giải quyết đầy đủ quyền lợi cho đơn
vị, người lao động.
: Kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động tham gia đóng BHXH theo quy
định của pháp luật.
2.2, Theo các khối thu BHXH:
Công tác thu BHXH tại BHXH huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây chủ yếu ở các khối
như sau:
- Khối các cơ quan hành chính sự nghiệp;
- Khối Doanh nghiệp nhà nước;
- Khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
- Khối cán bộ xã, thị trấn;
- Khối sự nghiệp giáo dục;
- khối ytế;
3- Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu BHXH:
3.1, Công tác thu BHXH ở khối cơ quan hành chính sự nghiệp:
Khối các cơ quan hành chính sự nghiệp có nhiều thuận lợi do đặc thù là 100%
người lao động đều hưởng lương từ ngân sách nhà nước cấp; hơn nữa cán bộ được
giao nhiệm vụ làm công tác thu BHXH đều có trình độ chuyên môn tốt, có nghiệp vụ
kế toán. Việc lập danh sách, đăng ký lao động và quỹ tiền lương tham gia BHXH, đến
việc lập danh sách tăng, giảm lao động, hàng tháng luôn đầy đủ, chính xác, đúng văn
bản quy định của nhà nước. Song bên cạnh đó đơn vị còn trích nộp tiền BHXH không
kịp thời theo tháng mà thường dồn vào cuối mỗi quý.
3.2, Công tác thu BHXH ở khối Doanh nghiệp nhà nước:
Công tác thu BHXH ở khối Doanh nghiệp nhà nước tương đối phức tạp vì còn
phụ thuộc vào các đơn vị làm ăn có hiệu quả hay không. Chính vì vậy mà BHXH
huyện Mỹ Đức cần phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để tuyên truyền các chế độ
chính sách BHXH, đối chiếu tăng, giảm kịp thời cho đối tượng tham gia, đối chiếu với
15
quỹ tiền lương, hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động trích nộp BHXH đúng quy
định;
3.3, Khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh :
Công tác thu ở khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn gặp rất nhiều khó
khăn bởi còn phụ thuộc vào các đơn vị làm ăn có hiệu quả hay không, ngoài ra các
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều trốn tránh không đăng ký thực thiện đầy đủ nghĩa
vụ BHXH cho người lao động theo quy định tại điều 149 của bộ luật lao động.
+ Về phía chủ doanh nghiệp: chủ sử dụng lao động ở các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh nhận thức chưa đầy đủ về nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm trong việc thực
hiện đóng BHXH cho người lao động; Còn cố tình né tránh việc thực hiện chế độ
BHXH cho người lao động. Khi sử dụng người lao động các doanh nghiệp không có
hợp đồng lao động cụ thể, luôn lợi dụng kẽ hở của pháp luật, như không hợp đồng với
người lao động, hợp đồng miệng, hợp đồng theo công trình, hợp đồng ngắn hạn dưới 3
tháng, hợp đồng theo mùa vụ …
Do đó BHXH huyện Mỹ Đức không có cơ sở để xác định hợp đồng lao đồng lao
động, để khai thác các đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Bên cạnh đó đa
số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều chưa có tổ chức công đoàn. Do vậy chưa
có người đại diện hợp pháp để bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của người lao
động .
Chính vì thế mà công tác thu BHXH ở khối Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
còn rất nhiều hạn chế, số thu BHXH không đạt theo quy định.
3.4, Công tác thu BHXH Khối cán bộ xã , thị trấn :
Công tác thu BHXH còn rất nhiều hạn chế trong việc trích nộp tiền BHXH cho
cán bộ xã còn chậm, có xã còn nộp thiếu tiền BHXH, lý do thường các xã nộp BHXH
dồn vào cuối năm. Trình độ của các bộ của kế toán ngân sách còn nhiều hạn chế bất
cập, nên công tác thu gặp rất nhiều khó khăn trong việc đối chiếu tăng, giảm số lao
động. Việc báo cáo số người tăng, giảm không kịp thời lập danh sách trích nộp tiền
BHXH không chính xác, do vậy phải làm đi, làm lại nhiều lần.
3.5, Công tác thu BHXH ở khối giáo dục.
Đây là khối có số lao động tham ra BHXH so với các khối khác là rất lớn, Các
trường đã tích cực phối hợp với Bảo hiểm xã hội huyện lập bảng danh sách tăng, giảm
16
trích nộp BHXH theo quy định hàng tháng đối chiếu tăng, giảm để cấp phiếu khám
chữa bệnh kịp thời cho người lao động. Cuối mỗi quý đều lập biên bản đối chiếu với
Bảo Hiểm Xã Hội để xác định số tiền phải nộp BHXH trong quý đầy đủ, đúng quy
định.
Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế do cán bộ kế toán trường học không có
nghiệp vụ kế toán, chỉ là kế toán kiêm nhiệm cho nên còn lúng túng về nghiệp vụ
chuyên môn và trích nộp BHXH nhiều lúc còn chậm thường dồn vào cuối quý.
3.6, Về Công tác thu ở khối Y tế :
Các trạm y tế xã đã thực hiện tốt việc trích nộp bảo hiểm cho người lao động do
tỉnh Hà Tây đã chuyển tiền khối ytế về nguồn ngân sách của xã, ủy ban nhân dân các
xã có trách nhiệm cân đối thu, chi cho các trạm. Kế toán xã duyệt chi và cấp chuyển
mọi khoản kinh phí thay cho trạm ytế.
Tuy nhiên cũng có những bất cập khó khăn là sau khi trạm đề nghị thanh toán,
phải lập dự toán nộp cho ủy ban nhân dân xã và đề nghị duyệt chi do vậy, cũng làm
chậm việc trích nộp BHXH.
Chương II
17
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU VÀ QUẢN LÝ THU QUỸ BHXH CỦA
BHXH HUYỆN MỸ ĐỨC, TỈNH HÀ TÂY TRONG THỜI GIAN QUA
I- GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HUYỆN MỸ ĐỨC TỈNH HÀ TÂY
1- Đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội huyện Mỹ Đức ảnh hưởng đến thu
BHXH:
- Mỹ Đức là một huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Hà Tây, có diện tích tự nhiên:
230,4 km2. Trong đó đất nông lâm nghiệp có 12.681,23 km 2, chiếm 55%. Còn lại là
các loại đất khác; và số dân là: 174.847 người chủ yếu là người Kinh. Trong đó có 21
xã, 1 thị trấn, 1 xã miền núi có dân số trên 7.195 người. Dân tộc Mường là 5.010
người.
Đặc điểm địa lý:
- Mỹ Đức có địa bàn tiếp giáp và các huyện và các tỉnh sau: Phía Đông giáp
huyện Ứng Hòa chạy dọc con sông Đáy. Phía Tây giáp với huyện Kim Bôi (tỉnh Hòa
Bình). Phía Nam giáp với huyện Kim Bảng (tỉnh Hà Nam). Phía Bắc giáp với huyện
Chương Mỹ.
- Địa hình huyện Mỹ Đức được trải dài theo con sông Đáy từ đầuhuyện là phía
Bắc, chạy dọc theo cuối huyện là huyện Kim Bảng. Với dãy núi đá vôi được chạy dài
theo hướng Tây có địa hình hiểm trở tạo thành ranh giới giữa huyện Mỹ Đức và tỉnh
Hòa Bình. Từ đầu xã Đồng Tâm chạy xuôi xã Hợp Tiến đó là khu du lịch Quan Sơn
với con đường 22 chạy từ Hà Nội qua huyện Mỹ Đức đi sang tỉnh Hòa Bình tham
quan thủy điện Sông Đà và khu du lịch suối khoáng huyện Kim Bôi. Về địa hình phía
Nam huyện Mỹ Đức có khu du lịch Hương Sơn - chùa Hương. Lễ hội chùa Hương
được khai hội vào đầu năm, được tổ chức lễ hội dài 3 tháng từ rằm tháng giêng đến hết
tháng 3 (âm lịch). Khu du lịch chùa Hương được đánh giá là khu du lịch mang kỳ quan
thế giới. Phong cảnh trên bến dưới thuyền cho du khách thăm quan vãn cảnh. Ước tính
hàng năm khách du lịch vè tham quan trên 50 vạn lượt người tạo điều kiện thuận lợi
cho nền kinh tế của huyện phát triển. Thu hút nhiều dịch vụ và lao động trong và ngoài
tỉnh. Khu du lịch Chùa Hương đã đóng góp cho ngân sách huyện đáng kể.
- Với địa hình của dài đơn vị hành chính sự nghiệp là 310 đơn vị đóng rải rác trên
địa bàn huyện trong đó phi nông nghiệp trên 20.000 người.
18
- Địa hình như vậy đã ảnh hưởng tới công tác thu BHXH ở các khối hành chính
sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, khối giáo dục.
Đường xá không thuận tiện làm cho công tác thu gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến
thời gian thu ở các đơn vị.
2- Giới thiệu về BHXH huyện Mỹ Đức
Thực hiện Nghị định số 12/CP ngày 16/01/1995 của Chính phủ về việc ban
hành điều lệ Bảo hiểm xã hội.
Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Thủ tướng chính phủ thành lập Bảo
hiểm xã hội Việt Nam.
Quyết định số 606/TTg ngày 26/9/1995 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy
chế tổ chức và hoạt động BHXH Việt Nam.
Thông tư số 58 TC/HCSN ngày 24/7/1995 của Bộ Tài chính hướng dẫn phương
thức thu nộp bảo hiểm xã hội.
Nhằm thống nhất quản lý, tổ chức thu BHXH trong toàn hệ thống BHXH Việt
Nam, từ đó BHXH được thành lập từ Trung Ương đến địa phương.
Bảo hiểm xã hội huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây được thành lập dựa trên cơ sở
được hợp nhất công tác BHXH cuả Sở lao động Thương binh xã hội và Liên đoàn lao
động tỉnh Hà Tây, cũng từ đó BHXH các huyện, thị xã trực thuộc được thành lập.
Bảo hiểm xã hội huyện Mỹ Đức là một trong những đơn vị BHXH trực thuộc
BHXH tỉnh Hà Tây, nằm trong hệ thống Bảo hiểm Việt Nam và chịu sự quản lý theo
ngành dọc của BHXH tỉnh Hà Tây theo quy định của pháp luật.
BHXH huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây nằm trong Bảo hiểm xã hội Việt Nam như
sau:
Bảo hiểm xã hội
Việt Nam
Bảo hiểm xã hội Tỉnh Hà Tây
Trực thuộc BHXH Việt Nam
(có 8 phòng chức năng và 6 huyện, thị)
19
Bảo hiểm xã hội
huyện, thị
Thành phố Huyện
Hà Đông
Mỹ
Huyện
ĐứcỨng
Huyện
HòaThanh
Huyện
Oai
HoàiHuyện
Đức Huyện
Đan Phúc
Huyện
ThọHuyện
Ba VìThường
HuyệnTín
Phú Xuyên
Phượng
Như vậy, BHXH huyện Mỹ Đức cũng thư BHXH các huyện khác đều là những
đơn vị trực thuộc nhỏ nhất của BHXH Việt Nam, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp
từ BHXH Việt Nam.
Bảo hiểm xã hội huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây chính thức được thành lập theo
quyết định số 94 ngày 4/8/1995 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và đi vào hoạt động kể
từ tháng 8/1995, BHXH huyện được đặt trụ sở làm việc tại trung tâm thị trấn Mỹ Đức,
huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây. Do vậy hoạt động của BHXH huyện Mỹ Đức có nhiều
thuận tiện cơ bản.
* Chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội huyện Mỹ
Đức, tỉnh Hà Tây.
a, Chức năng nhiệm vụ:
BHXH huyện Mỹ Đức, là một đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh Hà Tây, do vậy
phải thực hiện tốt các nhiệm vụ, các chỉ tiêu kế hoạch do BHXH tỉnh giao cho cụ thể
như sau:
+ Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc các cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn huyện Mỹ
Đức, lập danh sách lao động quỹ tiền lương thuộc diện áp dụng loại hình bắt buộc để
thực hiện việc tham gia đóng BHXH theo luật định.
+ Theo dõi, đôn đốc các cơ quan đơn vị tham gia BHXH trích nộp đủ tiền
BHXH và BHYT theo quy định so với tổng quỹ tiền lương.
20
- Xem thêm -