Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam...

Tài liệu Hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

.PDF
92
80
136

Mô tả:

Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương LỜI MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành và chính thức đi vào hoạt động từ năm 2000. Trong thời gian hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh tập trung và phân phối các nguồn vốn của nền kinh tế một cách hiệu quả, tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Để làm được điều này phải kể tới vai trò của các định chế tài chính trung gian tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Các định chế này có thể là các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán. Họ giữ vai trò cầu nối trung gian giữa tổ chức cần vốn và những người cung cấp vốn, tham gia vào việc huy động các nguồn tài chính từ thị trường tiền tệ và thị trường tài chính để đáp ứng nhu cầu về tài trợ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ. Các định chế này cũng có thể là các tổ chức giữ vai trò của người nhận tiền huy động từ công chúng và thay mặt họ để thực hiện việc đầu tư vào các công cụ tài chính trên thị trường chứng khoán. Người ta thường biết đến các tổ chức này với tên là các quỹ đầu tư tập thể. Các quỹ đầu tư tập thể được hình thành từ cuối thể kỷ 19 tại các thị trường chứng khoán có lịch sử phát triển lâu đời. Các quỹ này với vai trò là các nhà đầu tư có tổ chức tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán và góp phần đáng kể vào việc bình ổn hoạt động của thị trường. Thị trường chứng khoán Việt Nam mặc dù đã đi vào hoạt động được một thời gian nhưng tham gia đầu tư trên thị trường hiện nay vẫn chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân. Sự thiếu vắng vai trò của các nhà đầu tư có tổ chức, đặc biệt là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như các quỹ tập thể, một định chế đầu tư quan trọng và điển hình trên thị trường chứng khoán, bộc lộ qua các đợt biến động lớn trên thị trường chứng khoán trong thời gian qua cho thấy sự thiếu ổn định của thị trường chứng khoán Việt Nam. Nếu thị trường chứng khoán và các công ty chứng khoán là các khái niệm đã tương đối quen thuộc đối với công chúng đầu tư tại Việt Nam, quỹ đầu tư chứng 1 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương khoán dường như còn là khái niệm mới mẻ với các nhà đầu tư. Vì vậy, đề tài nghiên cứu này của em nhằm giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về sự hình thành và phát triển của quỹ đầu tư chứng khoán cũng như hoạt động của quỹ trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trong đề tài này, em giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ trong các quỹ đầu tư tập thể thực hiện việc huy động vốn hình thành quỹ và hoạt động đầu tư tại Việt Nam, còn được gọi trong đề tài với tên là quỹ đầu tư chứng khoán đối với hình thái quỹ này tại Việt Nam. Ngoài những vấn đề cơ bản liên quan tới tổ chức và hoạt động của các quỹ đầu tư tập thể, của công ty quản lý quỹ cũng như mối quan hệ trong hoạt động của quỹ với công ty quản lý quỹ và các tổ chức giám sát cũng như bảo quản tài sản của quỹ, đề tài sẽ tập trung vào vào đánh giá sự cần thiết cũng như các yếu tố tồn tại ảnh hưởng tới việc hình thành các quỹ đầu tư tập thể, làm cơ sở đưa ra các đề xuất nhằm thúc đẩy sự hình thành quỹ đầu tư chứng khoán cũng như các công ty quản lý quỹ chuyên nghiệp, góp phần vào sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhiệm vụ nghiên cứu của khoán luận là tìm hiểu những vấn đề lý thuyết có liên quan tới sự hình thành và phát triển của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ, phân tích các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng hoạt động của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ; và cuối cùng là đánh giá và kết luận. Và phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khoá luận là phương pháp duy vật biện chứng. Nội dung nghiên cứu đề tài của em có kết cấu chính gồm ba phần: Chương I: Những vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ Chương II: Sự hình thành và phát triển của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt Nam Chương III: Một số định hướng và giải pháp phát triển các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 2 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương Do thời gian nghiên cứu không được nhiều và trình độ nhận thức cũng như khả năng của em có hạn nên bài nghiên cứu của em không tránh khỏi những sai sót và hạn chế, em rất mong nhận được sự nhận xét và đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô để khoá luận của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của giáo viên TS. Đào Thị Thu Giang đã giúp em hoàn thành việc nghiên cứu và hoàn thành bài khoá luận này. 3 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ VÀ CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ 1.1. Khái niệm và vai trò của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ: 1.1.1 Khái niệm về quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ: Trong các tài liệu khác nhau cũng như trong các văn bản pháp lý của các nước có ngành quỹ đầu tư phát triển, người ta đưa ra nhiều các định nghĩa về quỹ đầu tư tập thể với phạm vi khái niệm rộng hẹp cũng như các tiêu chí khác nhau. Các quỹ đầu tư tại Mỹ được định nghĩa là các tổ chức tài chính phi ngân hàng thu nhận tiền từ một số lượng lớn các nhà đầu tư và tiến hành đầu tư số vốn đó vào các tài sản chính có tính thanh khoản dưới dạng tiền tệ và các công cụ của thị trường tài chính.1 Các quỹ đầu tư tập thể tại Anh được coi là mọi hình thái về tài sản hoặc bất kỳ loại nào với mục đích là cho phép những người tham gia vào các hình thái đó được tham gia hoặc thu lợi nhuận phát sinh từ việc mua, giữ, quản lý hoặc xử lý tài sản hoặc tiền được thanh toán từ lợi nhuân hoặc thu nhập đó.2 Tại Thái Lan, việc quản lý một quỹ đầu tư tập thể có nghĩa là việc quản lý đầu tư theo một dự án quỹ tập thể bằng cách phát hành các đơn vị đầu tư của mỗi dự án bán cho công chúng và đầu tư tiền thu được vào chứng khoán hoặc các tài sản khác hoặc đầu tư thu lợi nhuận bằng các cách khác.3 Các quỹ tín thác theo mô hình của Nhật Bản được coi là một sản phẩm đuợc hình thành nhằm đầu tư số tiền tập hợp được từ một số nhà đầu tư vào chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) chủ yếu tập trung dưới sự quản lý của những người không 1 Tr 139, Chứng khoán nhập môn, NXB Lao động – xã hội, năm 2006, HN Tr 56, Chứng khoán - Đầu tư và quản lý, NXB Lao động – xã hội, 2008, HN 3 Tr 34, Tìm hiểu về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán, NXB Lao động – xã hội, HN, 2007 2 4 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương phải là người đầu tư và phân phối lợi nhuận thu được cho các nhà đầu tư theo tỷ lệ vốn mà họ đóng góp vào quỹ.4 Theo định nghĩa của Trung quốc, quỹ đầu tư tập thể là một phương pháp đầu tư tập thể vào chứng khoán, chủ yếu bằng việc thu hút vốn của người đầu tư thông qua phát hành các đơn vị quỹ. Vốn được uỷ thác cho các tổ chức giám sát quỹ và được những người điều hành quỹ quản lý và đầu tư vào các công cụ tài chính như cổ phiếu và trái phiếu.5 Và Luật chứng khoán Việt Nam cũng nêu rõ: Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác, kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. 6 Từ các định nghĩa trên có thể rút ra định nghĩa chung cho quỹ đầu tư như sau: Quỹ đầu tư được coi là một phương tiện đầu tư tập thể, là một tập hợp tiền của các nhà đầu tư có cùng mục đích và được uỷ thác cho các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp tiến hành đầu tư để đạt được các mục tiêu của những người tham gia góp vốn. Có thể thấy rõ là các quỹ đầu tư tập thể tạo vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Những người đầu tư vào các quỹ có thể là các cá nhân hoặc các tổ chức kinh tế nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ ít am hiểu về thị trường chứng khoán. Vì vậy, hoạt động của các quỹ đầu tư mang tính xã hội hoá rất cao. Các quỹ đầu tư không tự tiến hành hoạt động đầu tư mà uỷ thác số tiền của mình cho một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp hay còn gọi là các công ty quản lý quỹ. Hình thái và vai trò của công ty quản lý quỹ theo mô hình quỹ đầu tư khác nhau cũng khác nhau, có thể là các tổ chức tư vấn đầu tư, cũng có thể là các công ty quản lý tài sản chuyên nghiệp. Công ty quản lý quỹ có thể chỉ tiến hành quản lý đầu tư 4 Tr 339, Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị quốc gia, HN năm 2002 5 Tr 139, Chứng khoán nhập môn, NXB Lao động – xã hội, năm 2006, HN 6 Điều 6, chương 1 Những quy định chung, Luật chứng khoán Việt Nam năm 2006 5 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương thay cho quỹ nhưng cũng có thể đồng thời đảm nhận cả việc huy động vốn cũng như quản lý đầu tư của quỹ. Theo khái niệm về công ty quản lý quỹ đầu tư (Fund management) tại thị trường chứng khoán Mỹ thì công ty quản lý quỹ là công ty chuyên trách thực hiện việc quản lý các quỹ đầu tư. Các quỹ đầu tư được tổ chức dưới dạng một công ty, phát hành cổ phần. Công ty đầu tư sử dụng nhà tư vấn đầu tư, hay người quản lý đầu tư để quyết định loại chứng khoán nào sẽ đưa vào danh mục đầu tư của quỹ. Người quản lý quỹ được toàn quyền quản lý danh mục đầu tư, mua bán chứng khoán phù hợp với các mục tiêu đầu tư của quỹ. 7 Công ty quản lý quỹ được cấu trúc dưới hai dạng: quản lý quỹ đầu tư quỹ dạng đóng và quỹ dạng mở. Ở Việt Nam, theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP ban hành ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, thì công ty quản lý quỹ thực hiện việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. 1.1.2. Lợi thế và vai trò của quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ: Các quỹ đầu tư thu hút được công chúng đầu tư do rất nhiều lợi thế mà quỹ mang lại cho họ. Một lợi thế cơ bản của quỹ đầu tư là sự đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro. Tiêu chuẩn cho việc đa dạng hoá đầu tư biến đổi rộng, ví dụ như các loại chứng khoán và các ngành công nghiệp liên quan tới các loại chứng khoán, các quốc gia và các đồng tiền mà chúng sử dụng. Các quỹ đầu tư, thông qua các tổ chức quản lý quỹ, tìm kiếm để đa dạng hoá rủi ro, cải thiện tình hình đầu tư và tuân thủ theo chính sách đầu tư của từng quỹ. Theo thuyết đầu tư hiện đại, rủi ro của toàn bộ danh mục đầu tư có thể được giảm thiểu bằng việc đa dạng hoá danh mục đầu tư vào một số lượng lớn cổ phiếu của các ngành công nghiệp khác nhau với mức sinh lời rủi ro khác nhau. Quỹ đầu tư có thể làm được điều đó. Các quỹ đầu tư có thể tự do đầu tư nhiều loại sản phẩm tài chính khác nhau vào một danh mục nhiều sản phẩm tín thác đầu tư khác nhau. Chúng cũng có thể tạo ra các sản phẩm khác như 7 http://www.giaothongvantai.com.vn/Desktop.aspx/News/Cophan-hoachungkhoan/SO_TAY_KIEN_THUC-Cong_ty_quan_ly_quy/ , truy cập 20:05 ngày 20/4/2009 6 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương những chứng chỉ tiền gửi ngân hàng vẫn đảm bảo khoản tiền gốc bằng việc giao dịch tổng hợp các công cụ trên thị trường tiền tệ như chứng chỉ tiền gửi và thương phiếu. Mặt khác chúng có thể tạo ra những sản phẩm của thị trường giá lên/giá xuống mà mang lại tình hình đối ngược sự chuyển động của thị trường bằng việc sử dụng các công cụ phái sinh. Các quỹ đầu tư cũng có thể tạo ra một danh mục đầu tư chuyên ngành bằng việc đầu tư vốn của quỹ vào các cổ phiếu của nhóm ngành công nghiệp được nhiều người ưa chuộng. Những người đầu tư với một khoản tiền nhỏ không thể đa dạng hoá danh mục đầu tư của họ với một số lượng lớn cổ phiếu phát hành nhưng họ có thể hưởng lợi từ việc đa dạng hoá đầu tư với khoản tiền nhỏ đó bằng việc đầu tư nó vào một quỹ đầu tư. Một lợi thế khác phải kể đến, đó là các dịch vụ đầu tư chuyên nghiệp do các tổ chức quản lý quỹ cung cấp cho các nhà đầu tư. Các tổ chức quản lý quỹ đầu tư có các chuyên gia thực hiện việc phân tích kinh tế vi mô, vĩ mô, phân tích thị trường và xây dựng các danh mục đầu tư phù hợp để đạt được mục đích của quỹ đầu tư. Họ cũng có những người chuyên điều hành việc đầu tư hàng ngày. Xu thế tự do hoá thị trường tài chính thông qua việc bãi bỏ dần các quy định pháp luật và việc xuất hiện tràn ngập các sản phẩm mới như các công cụ phái sinh tài chính đòi hỏi các kỹ năng tài chính và phân tích toán học có tính nguỵ biện cao mà những người không có chuyên môn sâu không thể hiểu thấu sự phức tạp của thị trường cũng như áp dụng vào thực tế những cách thức này để đạt được mục tiêu đầu tư của họ. Sự bãi bỏ quy định mang lại những cơ hội lớn hơn để thực hiện nhiều phương thức đầu tư khác nhau mà chỉ các chuyên gia mới nắm được. Hơn nữa, đối với các quỹ đầu tư theo ngành thường đầu tư vào cổ phiếu của các ngành đặc biệt như ngành công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và một số ngành công nghệ cao khác, vai trò của các chuyên gia hiểu biết về những lĩnh vực này đặc biệt cần thiết để có thể đánh giá xu hướng phát triển của các ngành này trong tương lai, dự đoán hiệu quả đầu tư vào các ngành đó. Chi phí giao dịch thấp cũng được coi là một lợi thế khác của quỹ đầu tư được người đầu tư quan tâm.. Chi phí cho mỗi lần giao dịch là từ 0,3% tới 0,5% giá trị 7 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương giao dịch đối với những công ty chứng khoán lâu đời và từ 0,15% tới 0,2% đối với các công ty chứng khoán mới8. Các quỹ đầu tư là định chế đầu tư thường có khối lượng giao dịch lớn. Vì vậy, các chi phí giao dịch mà quỹ phải chi trả (tính trên đơn vị mỗi cổ phiếu) thường thấp hơn nhiều so với các cá nhân đầu tư, dù cho các cá nhân này ký hợp đồng giao dịch với các nhà môi giới có mức hoa hồng môi giới chiết khấu thấp nhất. Chi phí giao dịch thấp có thể được hiểu như là hoạt động đầu tư tốt hơn và hiệu quả hơn đáng kể. Chính vì những lợi thế nêu trên mà các quỹ đầu tư giữ vai trò rất quan trọng không những đối với thị trường chứng khoán nói riêng mà đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở các đóng góp của quỹ đầu tư như sau: − Quỹ góp phần huy động vốn cho việc phát triển nền kinh tế nói chung và góp phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp nói riêng. Các quỹ đầu tư tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, cung cấp vốn cho phát triển kinh tế. Với chức năng này, các quỹ đầu tư giữ vai trò quan trọng trên thị trường sơ cấp. − Quỹ góp phần vào việc ổn định thị trường thứ cấp. Với vai trò là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp, góp phần vào sự phát triển của thị trường này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp phân tích đầu tư khoa học. − Quỹ góp phần tạo ra các phương thức huy động vốn đa dạng qua thị trường chứng khoán. Khi nền kinh tế phát triển và các tài sản tài chính ngày càng tạo khả năng sinh lợi hơn, người đầu tư có khuynh hướng muốn có nhiều dạng công cụ tài chính để đầu tư. Để đáp ứng nhu cầu của người đầu tư, các quỹ đầu tư hình thành dưới nhiều dạng sản phẩm tài chính khác nhau như thời hạn đáo hạn, khả năng sinh lời, mức độ rủi ro… 8 http://www.vietime.com/news/index.aspx?n/568/9496 , 04h51’ngày 24/12/2007 truy cập lúc 23h20 ngày 20/4/2009 8 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương − Quỹ làm cho các hoạt động đầu tư chứng khoán mang tính xã hội hoá. Quỹ đầu tư tạo một phương thức đầu tư được ưa thích đối với các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự hiểu biết về chứng khoán. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư bằng việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ. Quỹ đầu tư thực sự đã và đang là một loại định chế tài chính rất phát triển tại thị trường chứng khoán ở nhiều nước trên thế giới cũng như tại thị trường chứng khoán Việt Nam. 1.2 Tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư: 1.2.1 Các mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư: a) Mô hình công ty: Đặc điểm cơ bản nhất của các quỹ đầu tư trong mô hình này đó là bản thân quỹ là một pháp nhân đầy đủ, tức là một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật từng nước và cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị quỹ. Các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ là các cổ đông và họ có quyền bầu ra các thành viên hội đồng quản trị. Các tổ chức tham gia vào cơ cấu hoạt động của quỹ đầu tư dạng công ty là công quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản. Ngoài ra, tuỳ từng nước, còn có sự tham gia của các đại lý chuyển nhượng và nhà bảo lãnh phát hành chính hay những tổ chức sáng lập, bảo trợ cho việc thành lập quỹ. Hội đồng quản trị quỹ đầu tư do các cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn người quản lý quỹ và giám sát hoạt động đầu tư của quỹ, hàng năm xem xét lại hoặc từ chối các hợp đồng với người quản lý quỹ nếu nguời đó thực hiện việc đầu tư không đem lại hiệu quả. Hội đồng quản trị chính là người được các cổ đông của quỹ uỷ thác bảo vệ quyền lợi của những người tham gia đầu tư vào quỹ. Người quản lý quỹ có nhiệm vụ phân tích đầu tư, tiến hành hoạt động đầu tư, mua hoặc bán các chứng khoán trong danh mục đầu tưphù hợp với các mục tiêu do quỹ đề ra dưới sự giám sát của hội đồng quản trị của quỹ. Trong mô hình này, 9 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương người quản lý quỹ hoạt động như một nhà tư vấn đầu tư do công ty quỹ thuê quản lý đầu tư và họ được hưởng phí một tỷ lệ phí nhất định từ hoạt động quản lý đầu tư đó. Người quản lý quỹ ở đây có thể là một cá nhân hoặc một nhóm các cá nhân có kinh nghiệm và nhiều thành tích trong hoạt động đầu tư chuyên nghiệp được Hội đồng quản trị của quỹ đại diện cho các cổ đông lựa chọn. Ngân hàng bảo quản là ngân hàng được quỹ lựa chọn để lưu giữ và bảo quản các tài sản của quỹ. Ngân hàng bảo quản thường giữ luôn vai trò là đại lý chuyển nhượng cho quỹ, huỷ các cổ phần cũ và phát hành cổ phần mới. Tổ chức này cũng giữ danh sách cổ đông để gửi các báo cáo, giấy uỷ quyền hoặc thực hiện phân phối cho các cổ đông. Khi thực hiện các chức năng này, ngân hàng bảo quản nhận được phí bảo quản tài sản. Cơ chế tổ chức hoạt động của các quỹ theo mô hình công ty này (xem phụ lục 1: Sơ đồ cơ chế hoạt động của quỹ đầu tư dạng công ty) tại các thị trường đều có những nét chung. Tuy nhiên, việc huy động vốn lập quỹ có đôi nét khác biệt. Ví dụ, tại Mỹ quỹ đầu tư dạng công ty (công ty đầu tư) chỉ được phát hành cổ phiếu thường. Trong khi ở Anh, ngoài cổ phiếu phổ thông, các quỹ đầu tư được phát hành quyền. Việc huy động vốn lập công ty quỹ do các tổ chức bảo trợ lập quỹ kiêm luôn chức năng bảo lãnh phát hành cho quỹ thực hiện. Các tổ chức này lập bản cáo bạch, đưa ra mục tiêu và chính sách đầu tư của quỹ, các mức chi phí liên quan…Để hỗ trợ việc chào bán cổ phần của quỹ, tổ chức bảo lãnh phát hành có thể ký hợp đồng với một số công ty khác lập thành tổ hợp chào bán. Tổ hợp chào bán sẽ giúp tổ chức bảo lãnh phát hành phân phối cổ phần của quỹ và được tổ chức bảo lãnh chi trả khoản phí trích từ chi phí chào bán của tổ chức bảo lãnh phát hành. Ngoài các tổ chức tham gia chính như đã nêu, tuỳ từng nước còn có thể có các đại lý chuyển nhượng hoặc nhà bảo lãnh phát hành chính tham gia vào các hoạt động của quỹ đầu tư. Đại lý chuyển nhượng thường được uỷ nhiệm để tiến hành việc bán hoặc mua lại cổ phần của quỹ (nếu quỹ đó là quỹ dạng mở ). Nhà bảo lãnh phát hành chính giúp quỹ chào bán và phân phối cổ phần của quỹ cho các nhà đầu tư. 10 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương Ngoài các tổ chức kể trên liên quan tới hoạt động của quỹ, Hội đồng quản trị của công ty quỹ có thể thuê thêm một tổ chức chuyên quản trị hành chính. Tổ chức sẽ cung cấp trụ sở làm việc, các trang thiết bị văn phòng, thiết bị thông tin; uỷ nhiệm chi trả lương thưởng cho Hội đồng quản trị; giám sát việc lập các báo cáo định kỳ cho các cổ đông. Tổ chức quản trị hành chính này cũng được nhận một tỷ lệ phí nhất định khi thực hiện các dịch vụ trên. Mô hình quỹ đầu tư dạng công ty hiện được áp dụng rộng rãi tại các nước có thị trường chứng khoán hình thành và phát triển từ lâu đời mà điển hình là thị trường chứng khoán Mỹ và Anh. b) Mô hình quỹ đầu tư dạng hợp đồng: Quỹ đầu tư dạng hợp đồng còn được gọi là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Bản chất hoạt động của các quỹ tín thác đầu tư là dựa trên cơ sở quan hệ tín thác tài sản và hợp đồng tín thác được coi là một chứng từ pháp lý cơ bản để điều chỉnh hoạt động của các bên tham gia. Một đặc điểm khác biệt cơ bản với mô hình quỹ đầu tư dạng công ty là trong mô hình này quỹ đầu tư không phải là một pháp nhân. Quỹ hoàn toàn chỉ là một lượng tiền nhất định do các nhà đầu tư đóng góp hình thành nên quỹ. Mô hình này thể hiện rõ vai trò của ba bên tham gia vào hoạt động của quỹ: công ty quản lý quỹ giữ vai trò là người tín thác, tổ chức bảo quản tài sản cũng như giám sát hoạt động của quỹ giữ vai trò người nhận tín thác và các nhà đầu tư là những người hưởng lợi của quỹ. Khác biệt với mô hình trên, quỹ đầu tư dạng hợp đồng (xem phụ lục 2: Sơ đồ cơ chế hoạt động của quỹ đầu tư dạng hợp đồng) do chính công ty quản lý quỹ đứng ra huy động vốn thành lập quỹ. Sau khi quỹ đã hình thành, vốn và tài sản của quỹ được giao cho tổ chức nhận tin thác bảo quản và thực hiện việc thu chi cho hoạt động đầu tư. Công ty quản lý quỹ bắt đầu thực hiện việc đầu tư của quỹ theo những chính sách và mục tiêu đã đề ra trong bản cáo bạch huy động vốn ban đầu cũng như cam kết trong hợp đồng tín thác. Người nhận tín thác được lựa chọn thường là các ngân hàng hoặc các tổ chức có chức năng quản lý tài sản tín thác theo quy định của pháp luật về tín thác tài sản. 11 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương Khi tham gia vào hoạt động của quỹ đầu tư, bên cạnh vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, tổ chức giám sát, bảo quản còn làm nhiệm vụ giám sát hạot động của công ty quản lý quỹ để đảm bảo việc tuân thủ các mục tiêu và chính sách đầu tư đã đề ra. Người đầu tư hay những người thụ hưởng là những người góp vốn vào quỹ và tín thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để đảm bảo khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ. Tổng số vốn quỹ dự kiến huy động sẽ được chia thành các đơn vị tínt hác. Việc góp vốn của các nhà đầu tư được thể hiện bằng việc hị mua các chứng chỉ đầu tư do công ty quản lý quỹ thay mặt qũy phát hành trong đó xác nhận số đơn vị tương ứng với số vốn góp của họ. Các nhà đầu tư trong mô hình này không phải là các cổ đông như mô hình quỹ đầu tư dạng công ty mà chỉ đơn thuần là những người thụ hưởng kết quả kinh doanh từ hoạt động đầu tư của quỹ. Hợp đồng tín thác được ký kết bởi tất cả các bên tham gia vào quỹ: công ty quản lý quỹ, tổ chức giám sát bảo quản và những người hưởng lợi. Trách nhiệm cảu tổ chức tín thác cũng như của người được tín thác được phân định rõ ràng và cụ thể đối với từng hoạt động. Nhưng cả hai đối tượng đó đều có một nghĩa vụ chung nhất là thực thi công việc một cách mẫn cán và có những hành vi thích hợp để bảo vệ quyền lợi của những người hưởng lợi là những người nắm giữ chứng chỉ của quỹ. .2.2.1 Hoạt động của quỹ đầu tư: a) Huy động cấu trúc vốn: ♦ Phương thức hình thành vốn và cách thức chào bán Các quỹ tập thể hình thành vốn bằng phát hành cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư thu hút vốn từ công chúng Đối với các quỹ đầu tư dạng công ty, quỹ phát hành cổ phần để huy động vốn hình thành nên quỹ. Tương tự như các công ty cổ phần, cổ đông của quỹ cũng nhận được các cổ phiếu xác nhận số cổ phần mình sở hữu tại công ty. 12 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, thông thường lượng vốn dự kiến hình thành nên quỹ được chia thành các đơn vị (tương tự như các cổ phần như quỹ dạng công ty). Quỹ sẽ phát hành chứng chỉ đầu tư xác nhận số đơn vị tương ứng với số vốn người đầu tư góp vào quỹ. Cũng như cổ phiếu phổ thông khác, chứng chỉ đầu tư có thể phát hành dưới hình thức ghi danh hoặc vô danh và có thể được giao dịch và chuyển nhượng như cổ phiếu, tuy quyền và nghĩa vụ của người hưởng lợi (nguời nắm giữ chứng chỉ đầu tư) có một số khác biệt so với các cổ đông trong mô hình quỹ dạng công ty. Về cách thức chào bán: cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư 9 của các quỹ đầu tư được chào bán bằng hai hình thức chính là qua các tổ hợp chào bán và do quỹ trực tiếp tiến hành qua các mạng lưới của mình. − Chào bán qua các tổ hợp Các tổ hợp chào bán thường bao gồm các nhà bảo lãnh phát hành và các đại lý chào bán của họ. Các tổ chức bảo lãnh phát hành giữ vai trò là những người bán buôn hay người phân phối cho các đại lý bán hàng. Các đại lý chào bán có thể là các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán hoặc các công ty tài chính. Các đại lý này, đến lượt mình, sẽ đứng ra chào bán cổ phần tới công chúng thông qua mạng lưới chi nhánh của họ. Đây là cách thức phổ biến nhất để bán cổ phần của các quỹ đầu tư theo mô hình công ty. Bản thân các công ty chứng khoán có tên tuổi hoặc các ngân hàng thương mại có thể là những người sáng lập hoặc những người bảo lãnh chính cho việc phát hành các quỹ dạng công ty. Các quỹ đầu tư dạng hợp đồng cũng áp dụng cách thức chào bán này đối với các quỹ có quy mô lớn. − Chào bán trực tiếp từ quỹ hoặc công ty quản lý quỹ Các quỹ được trực tiếp bán cổ phiếu của mình cho nhà đầu tư không thông qua một trung gian nào. Các quỹ đầu tư dạng hợp đồng do công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập thường hay chào bán chứng chỉ đầu tư bằng hình thức này thông qua hệ thống mạng lưới của công ty quản lý quỹ hoặc mạng lưới của tổ chức bảo quản. 9 Do sự khác biệt giữa hai mô hình, thuật ngữ cổ phiếu /chứng chỉ đầu tư được sử dụng đồng thời tại các phần có liên quan để chỉ chung về chứng từ xác nhận quyền sở hữu của những người tham gia góp vốn vào các quỹ thuộc các mô hình. 13 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương Ngoài ra, họ giao dịch với các cổ đông hiện thời và tiềm năng thông qua thư, điện thoại, mạng lưới ngân hàng hoặc các văn phòng địa phương của họ. Các quỹ này hấp dẫn nhà đầu tư trước hết thông qua quảng cáo, thư trực tiếp cũng như những bài diễn văn, các phương tiện quảng cáo hữu hiệu. ♦ Định giá ban đầu và các chi phí liên quan tới phát hành lần đầu Việc định giá cổ phiếu /chứng chỉ đầu tư phát hành lần đầu của quỹ do các tổ chức đứng ra thành lập quỹ xác định. Đối với các quỹ theo mô hình công ty, việc định giá cổ phiếu quỹ do các tổ chức sáng lập (fund sponsor) hoặc các tổ chức bảo lãnh phát hành xác định giá. Đối với các quỹ đầu tư dạng hợp đồng, công ty quản lý quỹ sẽ xác định giá chào bán ban đầu các chứng chỉ đầu tư của quỹ. Các chi phí liên quan tới việc phát hành ra công chúng lần đầu của các quỹ nói chung thường bao gồm một số loại chính: − Chi phí tiếp thị − Chi phí in ấn bản cáo bạch − Chi phí trả cho các đại lý bán cổ phiếu /chứng chỉ đầu tư Thông thường, các chi phí trên ước tính trung bình vào khoảng 4 -6% tổng số tiền huy động được từ nhà đầu tư 10. Chỉ phí chào bán lần đầu được khấu trừ từ tổng giá trị của quỹ huy động được. ♦ Cơ cấu vận động của vốn Cơ cấu vốn phát hành của các quỹ đầu tư có thể vận động và chu chuyển khác nhau. Dựa vào tiêu chí này, quỹ đầu tư thuộc các mô hình có thể hình thành vốn theo hai dạng quỹ đầu tư dạng đóng và quỹ đầu tư dạng mở . Quỹ đầu tư dạng đóng: Quỹ chỉ phát hành cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư ra công chúng một lần với số lượng nhất định và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Sau khi phát hành lần đầu ra công chúng, cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ được giao dịch như bất kỳ chứng 10 http://kinhdoanhgioi.com/index.php?topic=549.0 , 14:47’ ngày 21/4/2009 14 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương khoán niêm yết nào trên thị trường chứng khoán tập trung (sở giao dịch chứng khoán). Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư của mình trên thị trường thứ cấp thông qua các nhà môi giới 11. Nói tới quỹ đầu tư dạng đóng, người ta thường đề cập tới một trong những ưu điểm nổi bật của các quỹ này là cơ cấu vốn rất ổn định do chúng chỉ phát hành duy nhất một lần. Các nhà điều hành quỹ không phải đương đầu với các luồng tiền lớn ra, vào liên tục không theo quy luật về chu kỳ thời gian nào. Nếu các nhà đầu tư không muốn tiếp tục đầu tư vào quỹ, họ có thể bán các cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư họ đang nắm giữ trên thị trường tập trung. Các nhà điều hành quỹ không phải động chạm đến danh mục đầu tư ngay cả khi các nhà đầu tư bán tống bán tháo cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư của mình. Trong trường hợp đó, quỹ có thể tiến tới một mức chiết khấu cao hơn trước. Tuy nhiên, mức chiết khấu lớn lại là cơ hội thu hút những người đầu tư khác tham gia đầu tư. Cơ cấu vốn của các quỹ dạng đóng đặc biệt thích hợp cho việc kinh doanh các chứng khoán có mức độ biến động cao và ít được giao dịch ví dụ như cổ phiếu của các công ty có vốn nhỏ hoặc cổ phiếu giao dịch trên các thị trường mới nổi bởi vì việc rút tiền của các nhà đầu tư lớn tại những thời điểm được coi là không hợp lý sẽ không thể thực hiện được với các danh mục đầu tư gồm các chứng khoán có tính thanh khoản kém trong các lĩnh vực kinh doanh có biến động cao. Các quỹ đầu tư dạng đóng có thể thành công trong các thị trường giao dịch ít bởi vì các quỹ này không cần phải nghiên cứu các phương pháp đầu tư thêm để cung cấp cho các khoản mua mới cũng như không cần phải bán các chứng khoán trong danh mục đầu tư để trang trải các khoản mua lại. Tuy nhiên, quỹ đầu tư dạng đóng có một nhược điểm cơ bản là hầu như thường giao dịch với giá chiết khấu tức là thị giá thấp hơn giá trị tài sản ròng của quỹ. Có một số nguyên nhân có thể đưa ra xem xét để giúp cho việc giải thích sự chênh lệch giữa mức chiết khấu và mức trên giá trị giữa các quỹ khác nhau cũng như của các quỹ trong các điều kiện thị trường khác nhau như quỹ đầu tư dạng đóng 11 Tr 343, Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị Quốc gia, 2002 15 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương được coi là rủi ro hơn so với quỹ đầu tư dạng mở vì người đầu tư không thể bán lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư tại mức giá trị tài sản ròng, quỹ hoạt động kém hiệu quả, chi phí cao, mức độ đa dạng hoá của các quỹ ít… Quỹ đầu tư dạng mở: Quỹ liên tục phát hành cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư ra công chúng và thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi người đầu tư có nhu cầu thu hồi vốn. Đặc điểm quan trọng đối với quỹ đầu tư dạng mở là giá của cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ mở luôn gắn trực tiếp với giá trị tài sản thuần của quỹ. Cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư của quỹ dạng mở không giao dịch trên thị trường thứ cấp mà giao dịch thẳng với quỹ hoặc các đại lý được uỷ quyền của quỹ 12. Khác với quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở có cơ cấu vốn luôn biến động do các lượng tiền vào ra liên tục từ việc chào bán mới và việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư. Chính vì vậy, các nhà điều hành quỹ luôn phải tạo các danh mục đầu tư với các sản phẩm đầu tư có tính thanh khoản cao để đối phó với các thay đổi liên tục về nguồn vốn. Nếu có nhiều nhà đầu tư đổ tiền vào quỹ trong giai đoạn thị trường lên cao, những nhà điều hành có thể không lấy gì làm hấp dẫn. Điều đó càng đặc biệt đúng đối với các quỹ có các chính sách đầu tư toàn bộ số tiền thu được tại bất kỳ thời gian nào. Hoặc các nhà điều hành quỹ đầu tư dạng mở sẽ phải bán tống bán tháo các khoản đầu tư mình đang nắm giữ khi mà các loại này giảm thảm hại: đó có thể là thời kỳ mà quỹ phải thực hiện mua lại nhiều hơn là chào bán thêm. Điểm bất lợi trên đây của quỹ đầu tư dạng mở đối với các nhà điều hành quỹ chính là ưu điểm của quỹ trong việc thu hút công chúng đầu tư vào quỹ. Đó chính là tính thanh khoản của các quỹ dạng này. Trong rất nhiều trường hợp, quỹ đầu tư dạng mở thậm chí còn có tính thanh khoản cao hơn các loại cổ phiếu thường khác. Một khối lượng tiền lớn có thể được đầu tư hoặc trả cho việc mua lại tại mức giá trị tài sản ròng tính hàng ngày cộng thêm chi phí bán hoặc giảm trừ chi phí mua lại. Hơn nữa, đồng tiền có thể được di chuyển linh hoạt và hiệu quả giữa các quỹ có mục tiêu đầu tư khác nhau với chi phí không đáng kể. Tuy nhiên, tính thanh khoản của các quỹ dạng mở không phải lúc nào cũng là một ưu thế tuyệt đối. Nói chung, 12 Tr 344, , Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB Chính trị Quốc gia, 2002 16 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương các quỹ đầu tư dạng mở đều được quy định thời gian tối thiểu để thực hiện việc mua lại chứng chỉ theo yêu cầu cảu người đầu tư, thời gian dài ngắn phụ thuộc vào quy định của các nước khác nhau. Trong điều kiện thị trường có nhiều biến động, thời gian thực hiện việc mua lại dài, lợi ích của người đầu tư sẽ bị ảnh hưởng. ♦ Định giá chứng chỉ đầu tư /cổ phiếu của các quỹ sau phát hành Có một chỉ tiêu luôn luôn gắn liền với hoạt động của các quỹ đầu tư tập thể, đó là giá trị tài sản ròng của quỹ. Đối với các quỹ đầu tư, giá trị tài sản ròng của quỹ là một trong các chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của các quỹ nói chung và là cơ sở để định giá chào bán mới cũng như để xác định giá mua lại đối với các quỹ đầu tư dạng mở. Giá trị tài sản ròng của một quỹ (được gọi tắt là NAV) được xác định bằng hiệu số giữa tổng giá trị tài sản và các khoản đầu tư của quỹ với giá trị các khoản nợ phải trả của quỹ. Giá trị tài sản của quỹ bao gồm tiền mặt, các chứng khoán hoặc các tài sản khác do quỹ nắm giữ được tính theo giá trị thị trường hoặc được định giá theo quy định của pháp luật. Giá trị tài sản ròng của từng cổ phần/chứng chỉ đầu tư của quỹ được xác định bằng cách chia NAV của quỹ cho tổng số cổ phần /chứng chỉ đầu tư đang lưu hành của quỹ đầu tư. Đối với các quỹ đầu tư dạng mở, cũng như tổng giá trị tài sản ròng, số lượng cổ phần /chứng chỉ đầu tư đang lưu hành thay đổi hàng ngày. Nói chung, đối với cả hai loại hình quỹ dạng đóng và dạng mở, sự biến động về giá trị tài sản ròng của quỹ là do các thay đổi về giá trị của các chứng khoán nằm trong danh mục đầu tư của quỹ. ♦ Vay và cho vay vốn của quỹ Pháp luật ở một số nước thường không cho phép các quỹ đi vay với số lượng lớn. Thực tế cho thấy một số quỹ ví dụ quỹ cổ phiếu tăng trưởng linh hoạt đôi lúc lại sử dụng các khoản tiền vay mượn để cố gắng thổi phồng các khoản lãi vốn khi thị trường đi xuống. Đồng thời với chi phí vay, được phản ánh bằng lãi suất ngắn hạn duy trì hợp lý làm cho danh mục đầu tư hoạt động vẫn tốt. 17 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương Tuy nhiên, việc vay vốn của quỹ thực sự là một con dao hai lưỡi khi mà nó thổi phồng các khoản lỗ. Các quỹ có hệ số đòn bẩy cao thường được xếp vào hạng các quỹ hoạt động kém nhất trong các thị trường đang đi xuống. Việc bán lại cổ phiếu hay chứng chỉ đầu tư của các quỹ mở có thể làm trầm trọng thêm các vấn đề thông thường khi giá rớt xuống. Một quỹ hay sử dụng đòn bẩy thường mang theo các rủi ro lớn hơn. Khi biện pháp đòn bẩy được sử dụng, NAV thường có chiều hướng lên xuống rất nhanh. Vì vậy, quỹ thường chỉ được phép vay tiền ngắn hạn từ các ngân hàng. Do vậy, các danh mục đầu tư đòn bẩy chỉ có thể để đáp ứng nhu cầu về vốn ngắn hạn. Các quỹ này cũng bị giới hạn về số lượng vay nợ tức là phải khống chế hệ số đòn bẩy. Nếu giá trị của danh mục đầu tư tăng thì tỷ lệ tài sản trên khoản vay cũng tăng lên. Nhưng nếu giá trị tài sản giảm, quỹ đó phải ngay lập tức giảm các khoản vay ngân hàng xuống. Điều này có thể buộc nhà quản lý phải bán cổ phiếu ép giá. Tất nhiên, quỹ này cũng phải thanh toán lãi suất trên khoản vay bằng tiền rút từ khoản lợi nhuận của quỹ. Chi phí lãi suất được tính tách biệt trong tổng các chi phí hoạt động. Hiệu ứng đòn bẩy đặc biệt khó khăn khi tỷ lệ lãi suất tăng lên hoặc khi giá chứng khoán giảm xuống, mà thường thì hai vấn đề này vẫn xảy ra cùng nhau. Tuy nhiên, vay đến tận mức giới hạn đối với bất kỳ quỹ nào cũng là điều bất bình thường. Nhiều quỹ thường chỉ vay các khoản vay nhỏ để giúp các nhà quản lý thực hiện việc mua lại mà không cần phải bán các cổ phiếu đang sở hữu. Các tài sản bao gồm cả vốn và các tài sản khác mà quỹ sở hữu hầu như không được phép đem cho vay. )b Hoạt động đầu tư: Hoạt động quan trọng nhất với một quỹ đầu tư là thực hiện và quản lý đầu tư. Đối với bất kỳ một quỹ đầu tư nào, quy trình đầu tư của quỹ cũng lần lượt qua các bước (xem phụ lục 3: Sơ đồ các bước của quy trình đầu tư) Bất kỳ một công ty quản lý tài sản, nhà tư vấn chuyên nghiệp nào cũng có một bộ phận và các chuyên gia nghiên cứu và phân tích để đưa ra các dự đoán có tác 18 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương động trực tiếp tới các quyết định đầu tư. Nghiên cứu đầu tư tập trung vào việc nghiên cứu và dự đoán các yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng tới việc đầu tư như lãi suất, tỷ giá…, dự đoán khuynh hướng biến động của toàn bộ thị trường nói chung cũng như phân tích và dự đoán sự phát triển hay tăng trưởng của từng ngành, khu vực kinh doanh cụ thể. Phân tích rủi ro và lợi nhuận liên quan tới phân tích phương án lập quỹ, dự đoán thu nhập và đánh giá rủi ro. Hai bước này là coi như các dữ liệu đầu vào để lập một quỹ đầu tư và cũng là cơ sở để tiến hành hoạt động đầu tư. − Lựa chọn mục tiêu đầu tư của quỹ Phụ thuộc vào mục đích của đầu tư, người ta hình thành nên các mục tiêu đầu tư của từng loại quỹ. Thông thường, mục tiêu đầu tư phải cụ thể hoá được tỷ lệ sinh lời kỳ vọng và rủi ro chấp nhận đối với sản phẩm đầu tư. Khi thiết lập mục tiêu đầu tư, các đặc trưng liên quan tới người đầu tư phải được cân nhắc tới. Các đặc trưng này bao hàm nhiều yếu tố trong đó có thể kể đến kỳ vọng của người đầu tư, sự phức tạp và bản chất khả năng tham gia đầu tư của người đầu tư. Ví dụ đối với những người đầu tư kỳ vọng vào các khoản thu nhập hoặc lãi vốn trong tương lai dài, tính chất dài hạn của hoạt động đầu tư sẽ tạo cho quỹ đầu tư có khả năng cơ cấu lại các tài sản nắm giữ để hướng tới “các tài sản tăng trưởng”, có thể đem lại các khoản sinh lời cao hơn mang tính dài hạn, phản ánh thu nhập từ biến động của vốn cũng như thu nhập. Bất kỳ quỹ nào cũng nhằm đạt được một trong số các mục tiêu ban đầu như sau: + Thu nhập: nhanh chóng có nguồn chi trả cổ tức. + Lãi vốn (tăng trưởng): làm tăng giá trị của các nguồn vốn ban đầu thông qua việc đánh giá các chứng khoản trong danh mục đầu tư của quỹ. + Thu nhập và lãi vốn: sự kếp hợp của cả hai yếu tố trên. Về cơ bản, mỗi một mục tiêu đều có lối thoát của nó và các nhà đầu tư cũng vậy. Điều này thực sự rất khó để có thể tìm ra được một quỹ cổ phiếu mà cùng một 19 Khoá luận tốt nghiệp K44 Trần Thị Mai Phương lúc đạt được cả hai mục tiêu thu nhập cao và lãi vốn chấp nhận được. Thường thì các quỹ đặt mục tiêu vào tiềm năng tăng trưởng tối đa sẽ phải từ bỏ mục đích thu nhập. Một danh mục đầu tư ổn định nhất sẽ chỉ đầu tư vào các trái phiếu chính phủ. Nhưng nó không có tiềm năng tăng trưởng và kém về mặt cổ tức so với các quỹ đầu tư các khoản thu nhập rủi ro hơn thường tập trung vào các chứng khoán như trái phiếu không giá trị. Người đầu tư sẽ lựa chọn và quyết định đầu tư vào các quỹ theo khả năng và mức độ chịu rủi ro của mình dựa vào các thông tin về chính sách và mục tiêu đầu tư của quỹ. − Phân bổ tài sản Phân bổ tài sản có nghĩa là phân chia tiền của quỹ vào “các rổ” đầu tư, mỗi rổ nhằm đạt được mục tiêu cụ thể riêng biệt hoặc toàn bộ các yêu cầu sinh lời từ danh mục đầu tư. Phân bổ tài sản được thực hiện trong từng thời kỳ phù hợp với quan điểm và phán đoán đầu tư của người quản lý quỹ. Nó liên quan tới quyết định sẽ đầu tư bao nhiêu vốn của quỹ vào từng loại tài sản - cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản, tiền mặt hoặc từng lĩnh vực đầu tư – ngành công nghiệp, ngành công nghệ cao…Khi chia số tiền của quỹ vào từng loại tài sản khác nhau, người quản lý đầu tư có thể tính toán cân đối giữa giá trị của danh mục đầu tư cũng như mức độ sinh lời của từng loại chứng khoán cấu thành. Phân bổ tài sản của quỹ, hình thành danh mục đầu tư của quỹ được coi là một khâu quan trọng trong chiến lược đầu tư của từng quỹ. Việc phân bổ tài sản sẽ góp phần quan trọng vào tối ưu hoá danh mục đầu tư và tối ưu hoá mức sinh lời từ các khoản đầu tư và cũng là phương thức cơ bản nhất để kiểm soát rủi ro đầu tư. Công ty quản lý quỹ là người nắm rất rõ kỹ thuật phân bổ tài sản. Các khoản đầu tư đều có mức độ rủi ro nhất định. Việc nắm bắt được các rủi ro và quyết định phân bổ tài sản có thể làm tăng hoặc giảm rủi ro từng khoản đầu tư cũng như toàn bộ danh mục đầu tư của quỹ. Ví dụ như giá cổ phiếu thường biến động trong thời gian ngắn hạn, nhưng nếu tính về thu nhập dài hạn thì lại tương đối phù hợp và tương đối cao. Tín phiếu kho bạc có mức sinh lời tương đối ổn định và phù hợp nhưng lại có rủi ro liên 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan