Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kế thừa các giá trị truyền thống của người phụ nữ việt nam trong bối cảnh hội nh...

Tài liệu Kế thừa các giá trị truyền thống của người phụ nữ việt nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay

.PDF
92
468
76

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRỊNH THỊ NHỊ KẾ THỪA CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM, TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI, 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRỊNH THỊ NHỊ KẾ THỪA CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM, TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số: 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. MAI THỊ QUÝ HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 18 tháng 8 năm 2017 Tác giả Trịnh Thị Nhị LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn, tác giả đã nhận được sự động viên, khuyến khích và sự giúp đỡ nhiệt tình của quý Thầy giáo, cô giáo, các cấp lãnh đạo, bạn bè đồng nghiệp và gia đình. Với tình cảm chân thành, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến: - TS. Mai Thị Quý, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn. - Lãnh đạo Khoa Triết học, Học viện Khoa học xã hội (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), Quý Thầy cô giáo đã dạy lớp Cao học Triết học đợt 2 K6 năm 2015, các phòng chuyên môn của Học viện đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. - Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của Quý thầy cô giáo, các nhà khoa học và các bạn đồng nghiệp để luận văn này có giá trị lý luận và thực tiễn hơn. Xin chân thành cảm ơn và xin kính chúc các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Hà Nội, tháng 8 năm 2017 Ngƣời thực hiện Trịnh Thị Nhị MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 Chương 1 KẾ THỪA VÀ VẤN ĐỀ KẾ THỪA CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM ..........................................................................9 1.1. Kế thừa - một hiện tượng mang tính quy luật của sự phát triển xã hội ....................10 1.2. Kế thừa giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam – vai trò và ý nghĩa của nó trong tiến trình phát triển của dân tộc ............................................................15 Chương 2 TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP ĐẾN CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM VÀ VIỆC KẾ THỪA MỘT SỐ GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP HIỆN NAY ........................................................34 2.1. Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập đến các giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam ....................................................................................................................34 2.2. Kế thừa một số giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay ......................................................................................................52 KẾT LUẬN ...............................................................................................................82 TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................84 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ chiếm trên 51% dân số và hơn 48% lực lượng lao động xã hội, là lực lượng to lớn, đóng vai trò quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của nước ta. Là đất nước có bề dày lịch sử lại trải qua nhiều thiên tai, địch họa là tiền đề để hình thành những giá trị truyền thống của dân tộc ta nói chung và giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Vừa phải đấu tranh chống thiên tai, địch họa lại vừa phải gồng mình lên để chăm sóc gia đình, làm hậu phương vững chắc cho chồng, con yên tâm ra mặt trận, vừa tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội, người phụ nữ Việt Nam đã mang trong mình bao đời nay những giá trị truyền thống tốt đẹp, trong đó có những giá trị chung của cả dân tộc cũng có những giá trị riêng của những người phụ nữ Việt như: yêu nước; nhân ái, bao dung; anh hùng, bất khuất; coi trọng gia đình; cần cù, tiết kiệm; thông minh, sáng tạo; chịu thương chịu khó; nhường nhịn; thủy chung son sắt; thương chồng, thương con; hy sinh, chịu đựng; công, dung, ngôn, hạnh... Khi nói về truyền thống và vai trò của người phụ nữ Việt Nam, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nêu trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu Phụ nữ Việt Nam lần thứ VIII: "Từ xưa đến nay, phụ nữ Việt Nam luôn luôn giữ vị trí quan trọng trong quá trình hình thành cộng đồng dân tộc, trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước cũng như trong cuộc đời thường. Truyền thống và phẩm giá của phụ nữ nước ta được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử”. Bác Hồ kính yêu cũng đã trao tặng tám chữ vàng cho phụ nữ Việt Nam: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang". Đây chính là sự đúc kết một cách sâu sắc truyền thống vẻ vang và phẩm giá cao đẹp của những người phụ nữ Việt. Những giá trị truyền thống đó đã trở thành nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam và tạo nên sức mạnh giúp những người mẹ, người chị vượt qua được những khó khăn, thử thách và có những đóng góp không nhỏ trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta trong suốt trường kỳ lịch sử. Ngày nay, người phụ nữ Việt Nam mang trong mình trọng trách lớn đối với gia đình và xã hội, vừa phải “giỏi việc 1 nước” vừa phải “đảm việc nhà”, đóng góp công sức, trí tuệ đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Để hoàn thành trọng trách đó, phụ nữ Việt Nam hiện nay cần phải biết trân trọng, giữ gìn, kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống mà những thế hệ phụ nữ đi trước đã tạo dựng nên để tạo nên sức mạnh nội sinh và lòng tự hào dân tộc cũng như để bảo vệ thuần phong mỹ tục, bản sắc văn hóa không chỉ của người phụ nữ mà của cả dân tộc Việt Nam. Mặt khác, trên cơ sở những giá trị truyền thống cao đẹp, người phụ nữ Việt Nam hiện nay cần chủ động tiếp thu những giá trị tinh hoa của người phụ nữ hiện đại như trí tuệ, năng động, sáng tạo, tự trọng, tự tin để có thể khẳng định năng lực, vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Ngày nay, đại đa số phụ nữ Việt Nam vẫn biết trân trọng, giữ gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp của những thế hệ phụ nữ đi trước. Trên khắp mọi miền của Tổ quốc, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, hải đảo xa xôi, từ các công sở, trường học đến những công trường, những cánh đồng đầy nắng gió và đặc biệt là dưới những mái nhà, chúng ta vẫn thường xuyên bắt gặp hình ảnh những người phụ nữ chịu thương chịu khó, tần tảo sớm hôm, vun vén cho gia đình, thương chồng, thương con, thủy chung, son sắt, vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt mọi công việc trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tỷ lệ các chị đạt danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” rất cao. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, hội nhập, mặt trái của kinh tế thị trường, cuộc cách mạng công nghệ và một số yếu tố khác, một bộ phận phụ nữ có sự thay đổi trong quan niệm, lối sống theo hướng xem nhẹ những giá trị truyền thống mà quá đề cao những giá trị hiện đại, thậm chí “sính ngoại” hay “tây hóa”, chạy theo 1ối sống hưởng thụ, xa hoa, đua đòi, ăn chơi làm cho giá trị truyền thống bị mờ nhạt, cái hay, cái đẹp bị xói mòn, coi thường giá trị chuẩn mực, luân thường đạo lý. Thậm chí, có một bộ phận phụ nữ không giữ được mình vì bị sa ngã trước cám dỗ của đồng tiền, của quyền lực mà đánh mất bản thân dẫn đến gia đình không còn chu toàn, bị rạn nứt, chưa làm tròn bổn phận, thiên chức người vợ, người mẹ, 2 người con dâu hiếu thảo nên dần bị phá vỡ, bị ly tán, tỷ lệ ly thân, ly hôn ngày càng gia tăng. Chính vì vậy, vấn đề kế thừa các giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay là một đề tài có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài * Về vấn đề toàn cầu hóa và hội nhập Toàn cầu hoá và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề lớn và mang tính thời sự, vì vậy đã có nhiều công trình trong và ngoài nước tập trung nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Có thể kể đến một số công trình sau đây: “Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - vấn đề và giải pháp” do Chu Tuấn Cáp chủ biên, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002). Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn quá trình phát triển của toàn cầu hoá cùng những tác động của nó, các tác giả đã trình bày quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, nêu lên những thành công bước đầu, những hạn chế và bài học kinh nghiệm của nước ta; “Toàn cầu hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Lê Hữu Nghĩa - Lê Ngọc Tòng đồng chủ biên, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004). Đây là kết quả nghiên cứu của đề tài KX. 08. 01 về “Xu thế toàn cầu hoá trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI” gồm có 27 chuyên luận tập trung bàn về các vấn đề đặc điểm, bản chất của toàn cầu hoá, tính chất hai mặt của toàn cầu hoá đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia và sự tác động của toàn cầu hoá đến các mặt chính trị - xã hội, văn hoá của các nước, về thời cơ và thách thức đối với Việt Nam khi chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia toàn cầu hoá kinh tế. Công trình “Toàn cầu hoá - cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển” của Đường Vinh Sường, (Nxb Thế giới, 2004) là công trình nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phân tích quá trình phát triển, những đặc trưng cơ bản của toàn cầu hoá kinh tế, những cơ hội và thách thức đặt ra với các nước đang phát triển, đồng thời có sự liên hệ với Việt Nam trong quá trình đổi mới. “Toàn cầu hoá và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam” là một công trình tập hợp những bài tham luận được tuyển chọn từ hai cuộc hội thảo cùng tên do trường Đại học Quốc gia Hà Nội hợp tác với 3 Viện Quốc tế Konrad Adenauer (Cộng hòa liên bang Đức) phối hợp tổ chức tại Hà Nội vào tháng 11 năm 2002 và tháng 12 năm 2003. Các tham luận tập trung vào những vấn đề lý luận và những hệ quả của toàn cầu hoá, đồng thời cũng đề cập đến những khó khăn và thuận lợi của Việt Nam trong qua trình hội nhập; Như vậy, các công trình trên chủ yếu xem xét toàn cầu hoá dưới góc độ kinh tế mà chưa nhìn nhận toàn cầu hoá với tư cách là một chỉnh thể bao gồm tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... luôn tác động qua lại lẫn nhau, trong đó kinh tế giữ vai trò nền tảng. Hơn nữa, các công trình trên chủ yếu chỉ dừng lại ở sự tác động của toàn cầu hoá đối với kinh tế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam, mà chưa chú trọng nhiều đến sự tác động của toàn cầu hoá đến sự biến đổi của các giá trị của xã hội nói chung và của người phụ nữ Việt Nam nói riêng cũng như các giải pháp để kế thừa giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập. Đây cũng chính là sự gợi mở cho một hướng nghiên cứu mới mà tác giả sẽ thực hiện trong đề tài này. * Về vấn đề giá trị và giá trị truyền thống Vấn đề nghiên cứu về giá trị truyền thống của dân tộc, tiêu biểu phải kể đến công trình nghiên cứu của Trần Văn Giàu: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”, (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980). Trong công trình này, tác giả đã đề cập đến cơ sở hình thành, nội dung và những biểu hiện của các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, trong đó chủ yếu là những giá trị đạo đức. Đề tài KX- 07- 02 mang tên: “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay”, do Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang chủ biên, đã nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của các giá trị truyền thống Việt Nam, phân tích nội dung cấu thành của truyền thống Việt Nam, đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu của di sản truyền thống, đồng thời đưa ra những khuyến nghị về phương hướng và giải pháp giáo dục, phát huy các giá trị truyền thống để giải quyết một cách hài hoà mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Công trình “Mấy vấn đề về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” do Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc đồng chủ biên, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003) đã đề cập đến những tác động của kinh tế thị trường đối với 4 những giá trị đạo đức truyền thống, vai trò của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường và đề xuất một số giải pháp xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Công trình “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội” do Huỳnh Khái Vinh chủ biên, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001) đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội; việc kế thừa và phát huy nếp sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội truyền thống và cách mạng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công trình “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá”, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002) do Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên đồng chủ biên, tập hợp những bài viết chọn lọc của một số tác giả được trình bày trong Hội thảo khoa học quốc tế “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá” được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 05 năm 2001. Các bài viết đều tập trung chỉ ra những thách thức của toàn cầu hóa đối với các giá trị truyền thống của dân tộc, những xung đột giữa giá trị truyền thống với giá trị hiện đại dẫn đến nguy cơ làm xói mòn các giá trị truyền thống vốn có từ bao đời của dân tộc. Công trình “Về định hướng giá trị của con người Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” của tác giả Nguyễn Thế Hùng (Tạp chí Triết học số tháng 8 năm 2013, tr.76-82) đã đề cập đến vấn đề định hướng các giá trị cơ bản của con người Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. Theo tác giả, cần tập trung định hướng một số nhóm giá trị cơ bản như: các giá trị chính trị; các giá trị dân chủ; các giá trị trí tuệ; các giá trị đạo đức; các giá trị văn hóa; các giá trị về phát triển thể chất Công trình “Giá trị học – cơ sở lý luận góp phần đúc kết, xây dựng giá trị chung của người Việt Nam thời nay” của GS.TSKH. Phạm Minh Hạc (2012) đã tiếp cận khái niệm giá trị dưới góc độ của giá trị học. Từ đó, tác giả đã phân tích cách tiếp cận thế giới theo “Giá trị quan” của nhiều nhà nghiên cứu trong lịch sử. Với nhiều lát cắt khác nhau, tác giả đã đi sâu làm rõ khái niệm giá trị, cấu trúc của giá trị, cơ chế hình thành giá trị, hệ giá trị xã hội, chỉ ra những giá trị truyền thống cốt lõi của dân tộc Việt Nam cũng như hệ giá trị truyền thống Đông Á, Tây Âu, đồng thời cũng chỉ ra những giá trị chung của nhân loại. Tác giả cũng chỉ ra những biến động phức tạp của một số giá trị ở Việt Nam hiện nay theo những xu hướng khác nhau như: chuyển từ coi trọng giá trị 5 tinh thần sang coi trọng các giá trị vật chất; từ giá trị cộng đồng sang giá trị cá nhân; từ cống hiến sang hưởng thụ; từ bị động sang chủ động; từ tâm lý cào bằng sang tâm lý phân hóa…Từ đó, tác giả đề xuất hệ giá trị cần định hướng cho con người Việt Nam hiện nay trên cơ sở các nguyên tắc: kết hợp giá trị truyền thống với giá trị hiện đại, kết hợp giá trị dân tộc với giá trị nhân loại, thống nhất trong da dạng. Hệ giá trị mà tác giả đề xuất được chia thành: các giá trị chung của loài người; các giá trị toàn cầu; các giá trị dân tộc; các giá trị gia đình; các giá trị bản thân. Đây là hệ giá trị chung có thể làm cơ sở để xây dựng hệ giá trị cho từng đối tượng cụ thể trong xã hội. * Về vấn đề kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam Công trình nghiên cứu “Những phẩm chất đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam” của tác giả Lê Nhâm Tuyết – Nhà nghiên cứu nhân học xã hội, Giám đốc sáng lập TTNC giới, gia đình và môi trường trong phát triển (CGFED) đã khẳng định những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam đã được khẳng định trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. Họ là “con người lao động”, “con người nội trợ”, “con người chiến sỹ”. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra những mặt trái cần khắc phục của người phụ nữ Việt Nam truyền thống đó là: an phận, tự ti, cam chịu, thụ động… Đây chính là điểm yếu của người phụ nữ Việt Nam. Tác giả Trâm Duyên trong bài viết “Phát huy truyền thống của người phụ nữ Việt Nam” cũng khẳng định rằng: phụ nữ Việt Nam cần phát huy truyền thống “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” để xứng đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ kính yêu đã ban tặng. Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, với những nhiệm vụ mới, vận mệnh mới, người phụ nữ Việt Nam cần hướng tới những chuẩn mực giá trị mới đó là: “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” để khẳng định hơn nữa vị trí, vai trò của người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Trong công trình nghiên cứu “Phụ nữ Việt Nam – Bách khoa toàn thư”, các tác giả đã đề cập đến vị trí, vai trò của người phụ nữ Việt Nam thời xưa, thời chiến tranh và thời nay. Đồng thời cũng chỉ ra những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam vừa cần cù, thông minh, sáng tạo, thủy chung son sắt, thương chồng, 6 thương con… và nêu lên những tấm gương phụ nữ làm lãnh đạo nổi tiếng của Việt Nam qua các thời kỳ. Công trình nghiên cứu “Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam” đã đề cập đến vấn đề Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam, vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử đồng thời phác họa chân dung người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Từ đó đặt ra vấn đề cần giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngoài các công trình nghiên cứu nêu trên còn có nhiều công trình, bài viết đề cập đến giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, vai trò của người phụ nữ Việt nam trong lịch sử cũng như những chuẩn mực của người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập một cách khoa học và đầy đủ về vấn đề kế thừa những giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề Kế thừa các giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay thật sự là vấn đề cấp bách cả về mặt lý luận lẫn về mặt thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của đề tài Góp phần làm rõ vai trò của sự kế thừa trong tiến trình phát triển của xã hội, chỉ ra sự tác động của toàn cầu hóa và hội nhập đến các giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, từ đó đề xuất nội dung kế thừa một số giá trị truyền thồng của người phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài. - Làm rõ thực chất, đặc trưng, vai trò của kế thừa và kế thừa giá trị truyền thống của người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay. - Phân tích tác động của toàn cầu hóa và hội nhập đến các giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập. - Luận chứng về vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của việc kế thừa một số giá trị truyền thống tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và nêu những nội dung cơ bản của sự kế thừa đó. 7 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. 4.2. Phạm vi Chỉ nghiên cứu một số giá trị truyền thống tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu. - Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống phụ nữ trong điều kiện toàn cầu hóa. - Sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, logíc – lịch sử, quy nạp, diễn dịch để giải quyết những nội dung cụ thể sau: + Khái quát nêu lên những giá trị truyền thống cần được kế thừa của phụ nữ Việt Nam hiện nay. + Đề xuất những giải pháp có tính định hướng để kế thừa những giá trị truyền thống trong việc xây dựng người phụ nữ trong bối cảnh hiện nay. + Tiếp cận dưới góc độ triết học, nhìn nhận kế thừa truyền thống với tư cách là một chỉnh thể bao gồm nhiều mặt, nhiều yếu tố vừa thống nhất, vừa tác động qua lại với nhau và mang tính hai mặt, cả tích cực lẫn tiêu cực. + Phân tích một cách có hệ thống những biến động của các giá trị truyền thống phụ nữ Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Chỉ rõ những đặc trưng của việc kế thừa giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, những vấn đề đặt ra trong quá trình này, đồng thời chỉ rõ tại sao trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cần phải kế thừa các giá trị truyền thống của người phụ nữ, kế thừa những nội dung gì và kế thừa như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. - Với kết quả nghiên cứu, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy vấn đề kế thừa truyền thống của phụ nữ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay. 8 - Luận văn cũng góp phần giải quyết một vấn đề quan trọng là làm thế nào để có thể phát huy nội lực và giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của phụ nữ trong xu thế toàn cầu hóa góp phần thúc đẩy các nghiên cứu tiếp theo về vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận thì luận văn được kết cấu gồm 2 chương: Chương 1: Kế thừa và vấn đề kế thừa các giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Chương 2: Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập đến các giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam và việc kế thừa một số giá trị truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. 9 Chƣơng 1 KẾ THỪA VÀ VẤN ĐỀ KẾ THỪA CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM 1.1. Kế thừa - một hiện tƣợng mang tính quy luật của sự phát triển xã hội Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều luôn nằm trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển không ngừng theo những quy luật nhất định. Một trong những quy luật chung biểu hiện khuynh hướng của sự phát triển là quy luật phủ định của phủ định mà kế thừa là một đặc trưng cơ bản. Tính kế thừa thực chất chính là mối liên hệ tất yếu khách quan giữa mới và cũ trong quá trình phát triển. Trong mối quan hệ đó, cái mới luôn ra đời, thay thế và phủ định cái cũ, nhưng giữa chúng lại có mối liên hệ khăng khít với nhau, đó là sự kế thừa của cái mới đối với cái cũ. Quá trình phủ định diễn ra không phải là sự phủ định siêu hình, phủ định sạch trơn mà là sự phủ định biện chứng, đó là “quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái cũ bị phủ định” [21, tr. 333]. Phủ định biện chứng mang hai đặc trưng cơ bản, đó là: tính khách quan và tính kế thừa. Tính khách quan của phủ định biện chứng thể hiện ở chỗ: phủ định là kết quả của quá trình giải quyết mâu thuẫn nội tại bên trong sự vật chứ không phải do sự áp đặt từ bên ngoài. Hơn nữa, phương thức phủ định sự vật cũng không phụ thuộc vào ý muốn của con người, mà mỗi sự vật có một phương thức phủ định riêng “trước hết là do tính chất chung của quá trình, hai là do tính chất riêng của quá trình quyết định” [3, tr. 201]. Mặt khác, phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái bị phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao hàm trong nó việc giữ lại những nội dung tích cực đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu cực của cái bị phủ định. Phủ định biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính kế thừa. Với nghĩa đó, phủ định đồng thời cũng là khẳng định. Diễn 10 đạt tư tưởng này, V.I. Lênin viết: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng, - dĩ nhiên, phép biện chứng bao hàm trong nó nhân tố phủ định và thậm chí với tính cách là nhân tố quan trọng nhất của nó mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định” [29, tr. 245]. Giá trị của kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra đời của cái mới. Không có cái mới nào lại ra đời từ hư vô. Nhờ việc giữ lại những nhân tố tích cực của cái bị phủ định - tức là nhờ có kế thừa - mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện của mình. Trong dòng chảy vô tận của thời gian, cái quá khứ không mất đi mà không để lại dấu vết nào trong cái hiện tại. Thực chất, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, tạo ra mối liên hệ chặt chẽ và sống động giữa các sự vật, hiện tượng trong quá khứ với hiện tại và tương lai. Mối liên hệ này biểu hiện khuynh hướng phát triển đi lên của các sự vật, hiện tượng. Phát triển chính là sự vận động theo khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ lạc hậu đến tiến bộ. Kết quả của quá trình vận động đó là sự ra đời của sự vật mới hoàn thiện hơn sự vật cũ. Trong quá trình này, những yếu tố tích cực của cái cũ được giữ lại, cải biến để tham gia vào sự vật mới với tư cách là yếu tố cấu thành của nó. Phủ định biện chứng không phải là sự tiêu diệt giản đơn cái cũ mà là phủ định làm cho cái mới nảy sinh từ trong lòng cái cũ, là những nhân tố tích cực của cái cũ trở thành vật liệu cần thiết cho cái mới. Như vậy, kế thừa là một trong những đặc trưng quan trọng, phổ biến của quy luật phủ định của phủ định. Nó là sự biểu hiện mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới trong quá trình phát triển của sự vật: cái mới tuy phủ định cái cũ nhưng là một sự phủ định có kế thừa. Cụ thể hơn, kế thừa chính là mối liên hệ giữa các giai đoạn hay giữa các cấp độ khác nhau trong sự phát triển của sự vật. Sự kế thừa biểu hiện ở chỗ, một hay nhiều yếu tố của sự vật được bảo tồn khi sự vật chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác. 11 Như vậy, kế thừa là nhân tố bên trong của sự phát triển. Không thể nói đến sự phát triển mà tước bỏ đi tính kế thừa, cũng không thể nói đến kế thừa mà tách rời khỏi sự phát triển. Kế thừa là sự bảo tồn những đặc điểm, đặc tính của một sự vật và hiện tượng cũ trong quá trình phát triển. Còn phát triển không chỉ là sự bảo tồn mà còn là sự mở rộng, bổ sung, hoàn thiện và nâng cao về chất những đặc điểm, đặc tính vốn có trong sự vật và hiện tượng. Như vậy, “để phát triển được bao giờ cũng cần có sự kế thừa, tức là bảo tồn, giữ lại những đặc điểm, đặc tính của đối tượng để trên cơ sở đó mở rộng, nâng cao trình độ, còn phát triển chính là sự kế thừa tốt nhất, tích cực nhất” [18, tr. 35]. Mặt khác, kế thừa phải luôn gắn liền với lọc bỏ và đổi mới. Ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái bị phủ định được giữ lại, nó vẫn được duy trì dưới dạng lọc bỏ, chứ không phải bê nguyên xi, không phê phán, không cải tạo và không phải lắp ghép một cách máy móc cái cũ vào cái mới. Nếu kế thừa mà không gắn với đổi mới và lọc bỏ thì sự kế thừa đó không thể làm xuất hiện cái mới tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn cái cũ mà cùng lắm chỉ lặp lại cái cũ một cách phiến diện hơn. Hêghen là người đầu tiên phân tích tính kế thừa theo quan điểm biện chứng của sự phát triển bằng quy luật phủ định của phủ định. Tuy nhiên, vốn là một nhà biện chứng duy tâm, cho nên các quy luật, phạm trù do Hêghen nêu ra chỉ là các quy luật vận động và phát triển của tư duy, của khái niệm. Mác và Ăngghen là những người đã phát hiện và kế thừa, phát triển hạt nhân biện chứng trong cái vỏ duy tâm thần bí của học thuyết triết học Hêghen và đã “dựng nó lại” để xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Khi nói về sự tác động của quy luật phủ định của phủ định, Ănghen đã vạch rõ, đây “là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà nó có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy; một quy luật,..., biểu hiện trong giới động vật và thực vật, trong địa chất học, toán học, lịch sử, triết học...” [3, tr. 200]. Trong tự nhiên, tính kế thừa được biểu hiện, chẳng hạn như những nhân tố vô cơ được giữ lại khi chuyển sang giới tự nhiên hữu cơ. Giới tự nhiên hữu cơ là 12 bước phát triển cao hơn giới tự nhiên vô cơ, nhưng những nhân tố vô cơ vẫn được giữ lại như một điều kiện tồn tại của các cơ thể hữu cơ. Trong thế giới động vật và thực vật, kế thừa là điều kiện để hoàn thiện các hình thức sống trên cơ sở di truyền. Học thuyết tiến hoá của Đác-uyn đã chứng minh rằng: thông qua biến dị, di truyền và chọn lọc tự nhiên, tất cả các thế hệ sau bao giờ cũng kế thừa những đặc tính của các thế hệ trước trên cơ sở biến đổi, gạn lọc làm cho cơ thể chúng ngày càng hoàn thiện hơn. Chẳng hạn, sự tiến hoá của loài người trải qua hàng triệu năm đã cho thấy: loài người hiện nay vẫn kế thừa những nét cơ bản của tổ tiên từ xa xưa nhưng những nét cơ bản đó ngày càng được bổ sung làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn cả về mặt thể chất và tinh thần. Trong vận động, các hình thức cao luôn bao hàm trong nó những hình thức thấp hơn. Chẳng hạn, vận động sinh học bao hàm trong nó các vận động cơ học, vật lý, hoá học, song đặc trưng sinh học đóng vai trò chi phối. Tương tự như vậy, các hình thức phản ánh cao bao giờ cũng bao hàm trong nó các hình thức phản ánh thấp hơn... Trong sự phát triển của xã hội, tính kế thừa cũng được biểu hiện rõ nét mà lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một minh chứng. Lịch sử loài người là lịch sử của sự phát triển sản xuất, lịch sử của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao. Con người bắt đầu bước vào lịch sử của mình và phân biệt mình với động vật là nhờ có lao động sản xuất bằng cách chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Quá trình sản xuất tiếp theo cũng chính là quá trình con người từng bước hoàn thiện công cụ lao động, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của mình. Để làm được điều đó, con người ở những thế hệ sau không thể không kế thừa những thành quả mà các thế hệ trước đã để lại. Thế hệ sau dùng những công cụ, những kinh nghiệm do thế hệ trước đã tạo ra để sản xuất ra những công cụ mới ngày càng tiên tiến hơn, hiện đại hơn và cho năng suất lao động cao hơn. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa khác nhau về bản chất nhưng điều đó không có nghĩa là trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, một số yếu tố tích cực của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không cần được kế thừa. Chẳng hạn: những kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất 13 dưới các hình thức khoán, đấu thầu, công ty cổ phần..., các biện pháp thực hiện quyền sử dụng, chuyển nhượng, các nghiệp vụ quản lý sản xuất kinh doanh, các biện pháp áp dụng khoa học và công nghệ mới...là những nhân tố tích cực vốn có trong xã hội bản chủ nghĩa mà quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cần phải kế thừa nếu không muốn mò mẫm làm lại từ đầu. Việc nhà nước tư bản can thiệp vào các quá trình kinh tế với các công cụ điều tiết ở tầm vĩ mô như pháp luật, chính sách tài chính, tín dụng...cũng là một trong những yếu tố cần được xem xét, kế thừa. Trong tư duy, sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội như khoa học, triết học, nghệ thuật, đạo đức, pháp quyền...cũng thể hiện rõ tính kế thừa trong nhận thức của con người qua các thời đại lịch sử khác nhau. Lênin đã chỉ ra rằng, các học thuyết triết học không phải là bất biến và có giá trị tuyệt đối mà các vấn đề triết học đều được lặp lại để giải quyết làm cho chúng ngày càng sâu sắc thêm. Sự sâu sắc thêm của các tri thức ở những giai đoạn sau bao giờ cũng phải dựa trên trình độ tri thức đã đạt được trước đó; mỗi trình độ tri thức của giai đoạn trước bao giờ cũng là cơ sở cho sự phát triển của các tri thức ở trình độ sau. Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và cải tạo cả chủ nghĩa duy vật siêu hình lẫn phép biện chứng duy tâm để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Như vậy, chủ nghĩa Mác không phải là một học thuyết đoạn tuyệt với quá khứ, cũng không phải ra đời trên một mảnh đất trống rỗng, mà nó đã kế thừa một cách xuất sắc tất cả những tinh hoa của những học thuyết triết học trước đó. Đúng như Lênin đã đánh giá: “Học thuyết của ông (Mác) ra đời là sự kế thừa thẳng và trực tiếp những học thuyết của những đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội... Nó là người thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã tạo ra hồi thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp” [28, tr. 49 - 50]. Song, chủ nghĩa Mác không kế thừa một cách nguyên xi những quan niệm của các nhà tiền bối, mà là một sự kế thừa có đổi mới và phát triển. Kết quả của sự kế thừa ấy là đã tìm ra hạt nhân hợp lý trong cái vỏ duy tâm của hệ thống Hêghen, lột bỏ cái vỏ duy tâm đó và thay vào đó cái vỏ duy vật, cũng như đã bổ sung thêm 14 cho các quan niệm duy vật của Phoiơbăc một phương pháp biện chứng, tạo nên một học thuyết “toàn diện, sâu sắc và không phiến diện”. Như vậy, qua sự phân tích ở trên, chúng ta thấy rõ rằng: kế thừa, đổi mới là một quá trình mang tính quy luật, biểu hiện đặc trưng của sự phát triển bất kể đó là sự phát triển trong tự nhiên, xã hội hay tư duy. Tuy nhiên, trong mỗi lĩnh vực cụ thể, tính kế thừa có những đặc thù riêng. Quá trình kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc cũng có những đặc thù riêng của nó. 1.2. Kế thừa giá trị truyền thống của ngƣời phụ nữ Việt Nam – vai trò và ý nghĩa của nó trong tiến trình phát triển của dân tộc 1.2.1. Giá trị, truyền thống và giá trị truyền thống Khái niệm “giá trị” đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử ngôn ngữ nhân loại. Trong tiếng anh có hai thuật ngữ tương đương với khái niệm giá trị, đó là value và worth – tức có nghĩa là giá trị, giá trị, hữu ích, đáng giá…Hiện nay, khái niệm giá trị đang được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học khác nhau như: kinh tế chính trị học, tâm lý học, đạo đức học, xã hội học, mỹ học…Trong mỗi một bộ môn cụ thể, khái niệm giá trị được hiểu theo những nội dung rộng hẹp khác nhau. Nhìn từ góc độ kinh tế chính trị học, giá trị là giá trị của hàng hóa, nó là một trong hai thuộc tính cơ bản của hàng hóa, là lực lượng lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa. Do vậy, những hàng hóa nào có chất lượng hao phí lao động xã hội kết tinh càng lớn thì giá trị của nó càng cao và ngược lại. Nhìn từ góc độ đạo đức học, giá trị được xem xét trong phạm vi đời sống đạo đức của con người. Giá trị đạo đức chính là những thái độ, hành vi được con người lựa chọn, đánh giá là có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của xã hội trong từng thời kỳ nhất định, hướng con người đến với “cái thiện”. Nhìn từ góc độ mỹ học, giá trị được xem xét trong phạm vi đời sống thẩm mỹ cùng các quan hệ thẩm mỹ của con người. Giá trị thẩm mỹ đó là những chuẩn mực thẩm mỹ được nhận thức thông qua các khách thể thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả…). Trong đó cái đẹp được xem là một giá trị trung tâm và cơ bản, nói 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan