Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khảo sát và nghiên cứu truyền thuyết dân gian xứ nghệ...

Tài liệu Khảo sát và nghiên cứu truyền thuyết dân gian xứ nghệ

.PDF
231
233
110

Mô tả:

NGUYỄN THỊ THANH LƯU ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN  NGUYỄN THỊ THANH LƯU LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC KHẢO SÁT VÀ NGHIÊN CỨU TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN XỨ NGHỆ LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2012 Hµ Néi - 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN  NGUYỄN THỊ THANH LƯU KHẢO SÁT VÀ NGHIÊN CỨU TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN XỨ NGHỆ Chuyên ngành : Văn học dân gian Mã số : 62.22.36.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS LÊ CHÍ QUẾ Hà Nội – 2012 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN BẢNG CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Đối tượng và phạm vi tư liệu nghiên cứu: ................................................ 2 2.1 Đối tượng nghiên cứu .................................................................................... 2 2.2. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 4 2.3. Phạm vi tư liệu khảo sát ................................................................................ 4 3. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 7 3.1. Vấn đề nghiên cứu bản chất thể loại của truyền thuyết ................................ 7 3.2. Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian vùng Nghệ Tĩnh ............................... 10 5. Đóng góp của luận án: .............................................................................. 18 6. Cấu trúc của luận án:................................................................................ 18 NỘI DUNG .............................................................................................................. 19 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN XỨ NGHỆ .... 19 1.1. Diện mạo chung của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ ........................... 19 1.1.1 Số lượng truyền thuyết dân gian xứ Nghệ .................................................. 19 1.1.2 Tương quan với số lượng các thể loại truyện kể dân gian khác ......................... 22 1.2. Các dạng truyền thuyết tiêu biểu ............................................................. 24 1.2.1. Lý thuyết phân loại ...................................................................................... 24 1.2.2. Phân loại theo hình thức tồn tại và lưu truyền ............................................ 28 1.2.3. Phân loại theo nội dung ............................................................................... 33 1.3. Các trung tâm truyền thuyết tiêu biểu .................................................... 46 1.3.1. Truyền thuyết dạng chuỗi và các trung tâm truyền thuyết tiêu biểu ........... 47 1.3.2 Nguyên tắc hình thành các trung tâm truyền thuyết ................................... 53 CHƯƠNG II: TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN XỨ NGHỆ NHÌN TỪ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI ....................................................................... 56 2.1. Không gian trong truyền thuyết dân gian xứ Nghệ ............................... 56 2.1.1. Không gian cố định và di động ................................................................... 56 2.1.2. Không gian khởi nguyên và không gian thứ phát ....................................... 76 2.2. Thời gian trong truyền thuyết dân gian xứ Nghệ................................... 79 2.2.1. Thời gian cố định và thời gian diễn biến truyện đặc trưng ......................... 80 2.2.2. Thời gian chồng xếp qua quá trình truyền lưu ............................................ 81 2.2.3. Tính linh hoạt của thời gian trong truyền thuyết ......................................... 83 2.2.4. Thời gian chu kỳ qua mối liên kết với lễ hội .............................................. 85 2.3. Cấu trúc truyền thuyết với các dạng motif tiêu biểu ............................. 86 2.3.1. Cấu trúc mở và kết cấu lỏng lẻo của truyền thuyết ............................... 86 2.3.2. Cấu trúc đơn nhất và tính dở dang của kết cấu ..................................... 94 2.3.3. Các dạng thức motif tiêu biểu của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ.... 98 2.4. Nhân vật truyền thuyết ........................................................................... 106 2.4.1. Gốc tích nhân vật....................................................................................... 106 2.4.2. Hiện tượng nhân vật song hành ................................................................. 108 2.4.3. Xu hướng biến đổi của nhân vật ............................................................... 111 CHƯƠNG III: TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN XỨ NGHỆ TRONG KHÔNG GIAN VĂN HÓA XỨ NGHỆ ..................................................................... 119 3.1. Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ trong tương tác văn hóa vùng........ 119 3.1.1. Giới thuyết về vùng văn hóa xứ Nghệ ...................................................... 119 3.1.2. Văn hóa vùng quy định nét riêng của truyền thuyết ................................. 124 3.1.3. Văn hóa vùng với quá trình phát sinh, lưu truyền truyền thuyết .............. 139 3.2. Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ với thần tích và lễ hội......................... 151 3.2.1. Truyền thuyết dân gian: bản sưu tầm, bản kể truyền miệng và thần tích...... 151 3.2.2. Truyền thuyết dân gian và lễ hội ............................................................... 161 3.3. Truyền thuyết dân gian xứ Nghệ với các di tích văn hóa vật thể ....... 175 3.3.1. Các di tích văn hóa vật thể (đã được công nhận và chưa được công nhận) của xứ Nghệ gắn liền với truyền thuyết .......................................... 176 3.3.2. Lịch sử và thực trạng tồn tại của các di tích văn hóa vật thể .................... 178 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 184 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 190 PHẦN PHỤ LỤC................................................................................................... 204 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT KTTCTVN : Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam KTTKDGX.Nghệ : Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ LTKV.Lục : Lan Trì kiến văn lục Nxb : Nhà xuất bản TTNH.Vai : Truyền thuyết núi Hai Vai TCN : Trước Công nguyên TTTVTTN.An : Tục thờ thần và thần tích Nghệ An TTVHDGN.Việt : Tổng tập văn học dân gian người Việt tr. : trang VHDTTSN.An : Văn học dân tộc thiểu số Nghệ An VTT.Bút : Vũ trung tùy bút MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1.Truyền thuyết dân gian là một thể loại quan trọng trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Song để điều hiển nhiên ấy được ghi nhận trong lịch sử nghiên cứu văn học dân gian, truyền thuyết đã phải trải qua một chặng đường khó khăn, nhiều chướng ngại. Sự công nhận muộn mằn của học giới so với các thể loại khác là một trong những lí do khiến truyền thuyết trở thành thể loại đáng được lưu tâm đặc biệt. Vấn đề đặt ra cho khoa nghiên cứu văn học dân gian không chỉ là xác định một cách tổng quát về bản chất thể loại, cơ chế hình thành và lưu truyền truyền thuyết mà còn là mô tả, phân tích tỉ mỉ những truyền thuyết cụ thể trong sự gắn bó với môi trường hoạt động của nó bởi truyền thuyết là thể loại đậm đặc tính vùng. Chính đặc trưng gắn chặt với vùng văn hóa, với địa phương cụ thể của truyền thuyết đã tự chia nhỏ đối tượng này thành nhiều mảng miếng khác nhau, khiến cho các nhà nghiên cứu khó lòng giải quyết thấu đáo và toàn diện. Ở trong nước, đã có một số bài viết, công trình, luận án tiến sĩ nghiên cứu về truyền thuyết dân gian nhưng bởi sự phức tạp của đối tượng này cho nên vẫn còn vô số mảng trống cần được bổ sung. Nghiên cứu về truyền thuyết dân gian trong thời điểm hiện nay vẫn là một việc làm cần thiết. 1.2. Nghiên cứu văn học dân gian theo vùng đang là một hướng nghiên cứu có khả năng đem lại nhiều đóng góp mới mẻ không trùng lặp với các công trình đi trước. Hướng nghiên cứu này một mặt đáp ứng được yêu cầu cụ thể hóa tối đa các mục tiêu nghiên cứu, mặt khác lại rất phù hợp với đối tượng nghiên cứu là truyền thuyết dân gian - một đối tượng đáng được lưu ý hiện nay. Chọn đề tài Khảo sát và nghiên cứu truyền thuyết dân gian xứ Nghệ chúng tôi hy vọng sẽ có được cái nhìn hệ thống về truyền thuyết dân gian xứ Nghệ trong tương quan với kho tàng truyền thuyết dân gian Việt Nam nói chung và góp thêm phần nào đó trong việc làm đầy đặn hơn, sáng rõ hơn diện mạo của truyền thuyết xứ Nghệ thông qua việc bổ sung thêm một số truyền thuyết dân gian mà chúng tôi sưu tầm được trong quá trình thực hiện luận án của mình. 1 1.3. Xứ Nghệ là một tiểu vùng văn hóa đóng vai trò quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam với những cá tính văn hóa độc đáo hình thành nên từ khí chất đặc trưng của sông núi, con người xứ sở này. “Mảnh đất lịch sử nằm trong dòng chảy suốt chặng đường lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc” [151, 186] từng mang tên Hàm Hoan, Hoan Châu, Nghệ An… đã chứng kiến, lưu dấu biết bao sự kiện trọng đại của dân tộc để xác lập một vị trí đặc biệt cho mình trong tiến trình lịch sử văn hóa chung. Mọi thời đại lịch sử của dân tộc đều để lại dấu ấn trên mảnh đất một thuở là phên dậu phía Nam của nhiều triều đại, là nơi dự trữ binh lực cho các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm lâu dài, là chốn nghỉ chân trên các chặng đường chinh phạt phương Nam của triều đình phong kiến. Chính vai trò và vị trí quan trọng ấy của xứ Nghệ đã tạo điều kiện cho văn học dân gian nói chung và thể loại truyền thuyết nói riêng phát triển rực rỡ trên mảnh đất ấy. Bên cạnh đó, sự đa dạng của hình sông thế núi, sự hùng vĩ, hiểm trở của thiên nhiên xứ Nghệ cũng góp phần thúc đẩy, khơi gợi cảm hứng sáng tạo nên các huyền thoại, các truyền thuyết cho dân gian. Đất Nghệ bởi vậy vẫn luôn là một đối tượng ẩn chứa nhiều điều thú vị, luôn thu hút sự quan tâm của các nhà folklore học. Tuy đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau song xứ Nghệ với sự dày dặn của văn hóa dân gian vẫn tiếp tục tạo ra hấp lực đối với các nhà nghiên cứu bằng những nét khuyết hao, mờ nhạt chưa được tô vẽ lại của bức tranh văn hóa vùng đặc sắc. Đó chính là lý do khiến chúng tôi chọn xứ Nghệ để nghiên cứu trong khuôn khổ thể loại truyền thuyết. 2. Đối tượng và phạm vi tư liệu nghiên cứu: 2.1 Đối tượng nghiên cứu 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu cơ bản của chúng tôi trong luận án này là truyền thuyết dân gian Nghệ An và Hà Tĩnh dưới các dạng: bản kể đã được sưu tầm và xuất bản nằm trong các thư tịch (văn học trung đại và thần tích, thần phả) cũng như trong các sách sưu tầm thời hiện đại, bản kể mới được sưu tầm qua quá trình điền dã do chúng tôi tự thực hiện. 2.1.2. Ngoài ra, do yêu cầu của quá trình phục dựng diễn biến lưu truyền của truyền thuyết xứ Nghệ, chúng tôi sẽ tìm hiểu một số yếu tố liên quan mật thiết đến 2 thể loại này trong hành trình truyền lưu của nó như: lễ hội, di tích vật thể trên đất Nghệ. Các đối tượng này đều được nghiên cứu trong mối liên hệ không tách rời với truyền thuyết xứ Nghệ. 2.1.3. Bởi tình trạng bất nhất khi xác định ranh giới thể loại truyền thuyết trong lịch sử nghiên cứu thể loại này, chúng tôi nhận thấy cần thiết phải đưa ra một quan niệm về truyền thuyết mang tính hướng đạo cho việc nghiên cứu cụ thể sẽ tiến hành tới đây. Qua tham khảo, tiếp thu các nghiên cứu đi trước về thể loại truyền thuyết của các nhà folklore học trong và ngoài nước, chúng tôi cho rằng: truyền thuyết là thể loại thuộc loại hình tự sự dân gian, bao gồm những câu chuyện hoàn chỉnh (hoặc những mẩu chuyện) được sáng tạo nên bằng con đường kỳ ảo hóa, huyền thoại hóa một cốt lõi sự thật lịch sử nào đó trên cơ sở hai mạch nguồn cảm hứng “thiêng hóa thực tại và tôn vinh những giá trị của dân tộc - lịch sử” [3, 62]. Yếu tố lịch sử trong truyền thuyết không hoàn toàn là lịch sử đích thực bởi “lịch sử hóa cái phi lịch sử và phi lịch sử hóa cái lịch sử là hai mặt thống nhất của thi pháp thể loại” [85, 202]. Dù sao, nhờ yếu tố lịch sử ấy mà truyền thuyết mở ra thêm một kênh truyền lưu qua hình thức văn bản hóa trong các cuốn sử biên niên. Môi trường diễn xướng của truyền thuyết chính là hội lễ với các nghi thức thờ cúng thần thánh thuộc tín ngưỡng dân gian địa phương, vậy nên các yếu tố phi văn bản như hội lễ, di tích vật thể (đình, đền, miếu mạo…) là những yếu tố liên quan, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống và diễn biến lưu truyền của thể loại truyền thuyết. Cũng chính môi trường diễn xướng đặc biệt ấy đã tạo cho truyền thuyết cơ hội đi vào các văn bản thần tích, với “tư cách là xương sống của lễ hội”, là nguồn gốc thiêng liêng về tín ngưỡng, về vị thần được dân gian thờ phụng. Ngoài ra, cũng như các thể loại văn học dân gian khác, truyền thuyết còn được văn bản hóa trong các sách văn học trung đại. Với quan niệm và những hình dung cơ bản trên đây về truyền thuyết, chúng tôi đã mở rộng tối đa biên độ ngữ nghĩa của nội hàm khái niệm truyền thuyết với mong muốn có được một cái nhìn tổng quan về đời sống của thể loại này. Với quan niệm về một đối tượng có đời sống linh hoạt và khá phức tạp như thế, chúng tôi sẽ 3 tiến hành nghiên cứu truyền thuyết trong nhiều dạng văn bản khác nhau (bản sưu tầm, bản truyền miệng, văn bản thần tích, văn xuôi trung đại). Có không ít các truyền thuyết dân gian xứ Nghệ được khảo sát trong luận án này được chúng tôi lựa chọn ra từ các thần tích của xứ Nghệ được nhà Nghệ học Ninh Viết Giao tập hợp trong cuốn Tục thờ thần và thần tích Nghệ An. Dĩ nhiên, không phải mọi thần tích đều được chúng tôi coi là truyền thuyết mà các truyền thuyết được lọc ra từ kho thần tích đều được xem xét kỹ lưỡng dưới một số tiêu chí nhằm đánh giá chất truyền thuyết, chất dân gian trong đó. Tiêu chí quan trọng nhất mà chúng tôi hướng đến trong khi tiến hành lựa chọn là: sự tồn tại của các motif truyền thuyết (motif sinh nở thần kỳ, motif chiến công phi thường, motif hóa thân, hiển linh) trong thần tích. Như vậy, đối tượng nghiên cứu mà chúng tôi đề cập đến trong luận án này không phải là một đối tượng “thuần chất” bởi các mối quan hệ văn hóa chồng chéo xung quanh nó và bởi sự xuất hiện đa dạng của nó trong nhiều hình thức tư liệu khác nhau. Chúng tôi cho rằng, chỉ với sự mở rộng tối đa biên độ ý nghĩa của nội hàm khái niệm truyền thuyết để có được một đối tượng xuất hiện trong trạng thái bề bộn, không thuần nhất thì mới có thể đem lại cái nhìn tổng thể về đời sống sinh động, lưu chuyển không ngừng của thể loại truyền thuyết trên đất Nghệ. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án của chúng tôi tập trung nghiên cứu thể loại truyền thuyết trong giới hạn không gian văn hóa vùng Nghệ Tĩnh cho nên có thể coi giới hạn không gian văn hóa ấy là đường biên xác định phạm vi nghiên cứu. Để nhận định chuẩn xác vị thế của truyền thuyết dân gian xứ Nghệ trong kho tàng truyền thuyết dân gian Việt Nam nói chung, chúng tôi sẽ mở rộng phạm vi nghiên cứu bằng việc tìm hiểu sơ lược thêm một số vùng truyền thuyết khác song sự mở rộng này chỉ mang ý nghĩa tạo ra môi trường rộng lớn để nhìn rõ hơn diện mạo truyền thuyết xứ Nghệ. 2.3. Phạm vi tư liệu khảo sát Với mong muốn nhìn đối tượng ở trạng thái phức tạp, bộn bề như nó vốn có, chúng tôi mở rộng tối đa phạm vi tư liệu khảo sát. Trước hết, chúng tôi tìm kiếm truyền thuyết dân gian xứ Nghệ trong các công trình tư liệu đã xuất bản. Bộ phận tư 4 liệu này, ngoài các bộ sách biên soạn sưu tầm chung tầm cỡ như bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam do Nguyễn Đổng Chi biên soạn, Tổng tập văn học dân gian người Việt (tập 4, 5 - phần truyền thuyết) do Kiều Thu Hoạch chủ biên còn có các sách vở do địa phương xuất bản như: Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ (tập 1) do PGS. Ninh Viết Giao sưu tầm Nxb Nghệ An, 1995; Văn học dân tộc thiểu số Nghệ An (Phan Đăng Nhật chủ biên, Nxb Nghệ An, 2001), Từ Cổ Loa đến Đền Cuông (Nguyễn Nghĩa Nguyên, Nxb Nghệ An, 2006); Mai Hắc Đế - truyền thuyết và lịch sử (Đinh Văn Hiến, Đinh Lê Yên, Nxb Nghệ An, 2003); Truyền thuyết núi Hai Vai (Võ Văn Trực, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1990); An Tĩnh cổ lục (Hippolyte Le Breton, Nxb Nghệ An, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2005)… Thứ hai, để tiếp tục cập nhật và bổ sung đối tượng nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các tư liệu tự sưu tầm được tại các địa phương khác nhau trên đất Nghệ An qua các chuyến điều tra điền dã thực hiện vào năm 2006, 2008, 2009. Năm 2006, chúng tôi thực hiện hai chuyến điền dã về những ngôi đền quan trọng bậc nhất của xứ Nghệ. Từ ngày 12 - 15/3/2006, chúng tôi làm việc với Ban quản lý Di tích danh thắng tỉnh Nghệ An và tham dự lễ hội đền Công. Từ ngày 23 - 30/ 5/2006, chúng tôi đi khảo sát các cụm di tích liên quan đến truyền thuyết Mai Hắc Đế ở huyện Nam Đàn và truyền thuyết Lý Nhật Quang ở huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Di tích liên quan đến truyền thuyết Mai Hắc Đế mà chúng tôi đã khảo sát gồm: đền vua Mai ở thị trấn Nam Đàn; khu lăng mộ ở xã Vân Diên; mộ thân mẫu Mai Hắc Đế ở xã Nam Thái. Tại đền vua Mai, chúng tôi có tiếp xúc, phỏng vấn ông Nguyễn Quốc Ân (Nam Tân, Nam Đàn), 82 tuổi, là từ đền từ năm 1992 đến 2006. Di tích liên quan đến truyền thuyết Lý Nhật Quang mà chúng tôi đã khảo sát gồm: đền Quả (thờ Lý Nhật Quang) ở xã Bồi Sơn, chùa Bà Bụt ở xã Lam Sơn. Tại các di tích này, chúng tôi đã tiếp xúc, trò chuyện với: cụ Nguyễn Cảnh Truật (xóm 5, Bồi Sơn), 74 tuổi, là từ đền Quả; cụ Lê Văn Huân (xóm 7, Bồi Sơn), 78 tuổi; cụ Nguyễn Khắc Hưng (xóm 3, Bồi Sơn). Năm 2008, chúng tôi thực hiện chuyến điền dã từ thành phố Vinh lên huyện miền núi Quỳ Hợp. Từ ngày 28 - 1/9, chúng tôi điền dã tại nhiều xã thuộc huyện Quỳ Hợp. Tại đây, sau khi làm việc với Phòng văn hóa huyện, chúng tôi gặp gỡ, phỏng vấn một số người nghiên cứu, thầy mo và dân địa phương: 5 - Ông Sầm Văn Bình (bản Yên Luốm, xã Châu Quang), sinh năm 1962. - Ông mo Hản Vi Lượng (xã Châu Quang), 85 tuổi. - Ông Trương Sông Hương (xã Thọ Hợp), 57 tuổi. - Ông Hà Ngọc Đào (bản Tạt, xã Yên Hợp), 52 tuổi. - Ông Vi Văn Tỉnh (bản Tạt, xã Yên Hợp), sinh năm 1947. - Ông Vi Văn Chính (bản Tạt, xã Yên Hợp), sinh năm 1959. - Ông Lô Văn Vương (bản Tạt, xã Yên Hợp), 67 tuổi. - Ông Hà Ngọc Đàn (bí thư xã Yên Hợp), 50 tuổi. - Ông Lương Viết Thoại (bản Còn, xã Châu Quang). Ngày 2/9, chúng tôi tiếp xúc với nhà giáo Phạm Đức Thớc (80 tuổi) và nhà nghiên cứu Ninh Viết Giao tại thành phố Vinh. Năm 2009, chúng tôi tiếp tục điền dã miền Tây Nghệ An vào 31/1/2009 - 6/2/2009. Từ ngày 31/1 đến ngày 4/2, chúng tôi đi điều tra tại một số bản thuộc vùng sâu vùng xa của huyện Quỳ Hợp và phỏng vấn những người dân địa phương sau đây: ông Lương Dương Nga (bản Hiêng, xã Bắc Sơn), 62 tuổi; ông Vi Văn Thắng (bản Vạn, xã Bắc Sơn), 40 tuổi; ông Vi Văn Thuyết (bản Tăng, xã Nam Sơn), 69 tuổi. 5/2 - 6/2, chúng tôi đi khảo sát tại đền Chín Gian ở huyện Quế Phong. Ngoài ra, chúng tôi cũng có những chuyến đi ngắn khảo sát một số đền chùa ở Hà Tĩnh như: đền Chợ Củi (thờ ông Hoàng Mười, công chúa Liễu Hạnh) thuộc huyện Nghị Xuân, chùa Hương Tích (xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc)… Cuối năm 2009, từ ngày 15/11 - 22/11, chúng tôi tiếp tục có chuyến điền dã tới huyện Con Cuông cùng với đoàn nghiên cứu của Viện Dân tộc học. Trong chuyến đi này, chúng tôi chủ yếu tiếp xúc và phỏng vấn sâu với người Thái tại bản Thái Sơn, xã Môn Sơn (ông Vi Kim Sinh, 74 tuổi; ông Vi Xuân Bình, 87 tuổi; ông Hà Văn Phán, 79 tuổi; ông Lương Nghiệp, 52 tuổi…). Các chuyến khảo sát thực địa và tiếp xúc trực tiếp với các trí thức và nhân dân địa phương trên đây đã đem lại cho chúng tôi nhiều kiến thức quý báu về kho truyện kể dân gian còn lưu truyền cho đến tận ngày nay. Bộ phận tư liệu thứ ba mà chúng tôi khảo sát để tìm kiếm truyền thuyết dân gian xứ Nghệ là các truyện ký thuộc thể loại văn xuôi trung đại như: Lan Trì kiến 6 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi văn lục (Vũ Trinh, Nxb Thuận Hóa, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2004); Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ, Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, 1989)… Ngoài ra, các thần tích của xứ Nghệ đã được sưu tầm và xuất bản cũng là nguồn tài liệu nghiên cứu của chúng tôi. Về bộ phận này, chúng tôi chủ yếu khảo sát qua cuốn Tục thờ thần và thần tích Nghệ An (Ninh Viết Giao, Sở văn hóa thông tin Nghệ An, Vinh, 2000). Ngoài ra, để thực hiện các so sánh cần thiết trong luận án, chúng tôi cũng sử dụng thêm một số công trình tư liệu về truyền thuyết dân gian các vùng miền khác như: Truyền thuyết Lam Sơn (Nguyễn Sơn Anh sưu tầm, biên soạn, Nxb Thanh Hóa, 2005); Văn học dân gian xứ Huế (Vũ Nhị Xuyên sưu tập, biên tập, chú thích, 1995)… 3. Lịch sử vấn đề Chọn đề tài Khảo sát và nghiên cứu truyền thuyết dân gian xứ Nghệ, chúng tôi định hướng mục tiêu nghiên cứu là tiếp tục giải quyết vấn đề bản chất thể loại truyền thuyết đã từng được nhiều nhà folklore học quan tâm nghiên cứu thông qua một vùng truyền thuyết cụ thể. Nói cách khác, nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào một bộ phận truyền thuyết trong giới hạn không gian văn hóa vùng xứ Nghệ. Như vậy, đề tài này đòi hỏi chúng tôi phải lưu tâm đến hai xu hướng nghiên cứu: xu hướng nghiên cứu bản chất thể loại truyền thuyết và xu hướng nghiên cứu văn hóa dân gian (bao gồm các thể loại văn học dân gian) theo vùng. Đây là hai xu hướng nghiên cứu đã được nhiều nhà nghiên cứu theo đuổi và để lại khá nhiều công trình được coi là cơ sở ban đầu để chúng tôi tiếp tục tiến hành trong luận án này. Sau đây, chúng tôi xin điểm lại những nét cơ bản của hai xu hướng, hai vấn đề nghiên cứu trên đây trong lịch sử nghiên cứu. 3.1. Vấn đề nghiên cứu bản chất thể loại của truyền thuyết Truyền thuyết dân gian có một số phận khá đặc biệt trong đời sống văn học dân gian Việt Nam. Kể từ khi thuật ngữ truyền thuyết được Đào Duy Anh nêu ra trong bài viết “Những truyền thuyết đời thượng cổ nước ta” đăng trên tạp chí Tri Tân số 30 năm 1942, rồi được thực sự công nhận vào những năm 50 của thế kỷ XX 7 với các công trình nghiên cứu như: Lược khảo về thần thoại Việt Nam (1956, Nguyễn Đổng Chi), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957, nhóm Lê Quý Đôn) và Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957, Nguyễn Đổng Chi, Văn Tân, Hồng Phong), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (1958, Nguyễn Đổng Chi), truyền thuyết vẫn chưa thể nào xác lập được một vị trí trong nền văn học dân gian Việt Nam bởi sự bất đồng giữa các nhà nghiên cứu về mặt bản chất thể loại. Dù chưa thực sự tách bạch được truyền thuyết ra khỏi cổ tích và thần thoại, các công trình trên đây vẫn có giá trị như là nền móng đầu tiên cho việc nghiên cứu truyền thuyết với tư cách là một thể loại văn học dân gian độc lập. Sự bất đồng ý kiến trong cách nhìn nhận truyền thuyết của các học giả thể hiện rõ vào những năm 60 của thế kỷ XX, khi hai cuốn giáo trình về Văn học dân gian của Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp công bố hai quan điểm hoàn toàn trái ngược về thể loại truyền thuyết. Theo đó, giáo trình của Đại học Sư phạm công nhận sự tồn tại của thể loại truyền thuyết còn giáo trình của Đại học Tổng hợp do Đinh Gia Khánh chủ biên lại chỉ coi truyền thuyết là thuật ngữ của sử học chứ không thuộc phạm trù văn học dân gian. Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam tái bản năm 2001, tác giả Đinh Gia Khánh vẫn giữ nguyên quan điểm, cho rằng: “…Khi mà các điều truyền thuyết được sắp xếp, liên hệ theo một mạch lạc nào đó thì có thể hình thành một truyện có đầu có đuôi. Đó thường là truyện cổ tích lịch sử. Nhưng bản thân những điều truyền thuyết thì chưa phải là tác phẩm văn học, nhất là vì đại đa số các điều truyền thuyết thường lưu hành trong dân gian một cách tản mát vụn vặt (…). Các danh từ truyền thuyết và dã sử (…) là không bao hàm giới thuyết về một thể loại văn học nhất định. Những danh từ ấy nên coi như thuật ngữ sử học, không nên coi như thuật ngữ văn học dân gian” [97, 270-271]. Luồng ý kiến của giáo trình Đại học Tổng hợp đã cho thấy sự đa chiều trong cách nhìn nhận truyền thuyết của giới nghiên cứu đương thời. Việc nghiên cứu truyền thuyết với tư cách là một thể loại được đặc biệt chú trọng và đã tạo ra những bước tiến mới trong những năm 70 của thế kỷ XX, với công trình Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến của tác giả Kiều Thu 8 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Hoạch, Nghiên cứu tiến trình của văn học dân gian Việt Nam của tác giả Đỗ Bình Trị. Đến những năm 90, sự thay đổi hoàn toàn về mặt quan điểm của giáo trình Văn học dân gian Việt Nam Đại học Tổng hợp do giáo sư Lê Chí Quế chủ biên đã đánh dấu thêm một cột mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu thể loại truyền thuyết khi thể loại này được thừa nhận tồn tại độc lập. Năm 1996, dưới góc độ quan sát mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội, cuốn sách Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng của Lê Văn Kỳ đã góp thêm một tiếng nói trong việc xác nhận ý nghĩa và vị trí của truyền thuyết trong đời sống văn học dân gian Việt Nam. Lịch sử nghiên cứu bản chất thể loại truyền thuyết tiếp tục thu được thành tựu vào năm 2000, khi tác giả Trần Thị An bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ mang tên Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết. Trong công trình nghiên cứu của mình, bằng những phân tích, đối chiếu kỹ lưỡng, tác giả Trần Thị An đã đề xuất bổ sung hai tiêu chí phân loại có khả năng hữu hiệu trong việc phân tách truyền thuyết ra khỏi các hình thức tự sự dân gian khác (thần thoại, cổ tích), đó là “loại hình nội dung dân tộc - lịch sử, thiêng hóa thực tại và tôn vinh những giá trị của dân tộc - lịch sử” [3, 62]. Ngoài ra, tác giả Trần Thị An cũng đã đi sâu phân tích một số đặc điểm thi pháp của truyền thuyết dân gian Việt Nam, qua đó khẳng định mạnh mẽ hơn sự tồn tại độc lập của thể loại này trong đời sống văn học dân gian nói chung. Việc tiến hành nghiên cứu quá trình văn bản hóa truyền thuyết dân gian trong sử, thần tích và văn xuôi trung đại của tác giả Trần Thị An trong luận án này đã góp phần làm sáng rõ diễn biến lưu truyền của thể loại truyền thuyết. Đây là một cơ sở quan trọng để chúng tôi thực hiện những nghiên cứu cụ thể về diễn biến lưu truyền truyền thuyết trên đất Nghệ. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, các nghiên cứu về truyền thuyết xuất hiện rải rác dưới dạng các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành hoặc các luận văn, luận án với cách tiếp cận từ một cốt truyện, một chủ đề cụ thể hay một vùng truyền thuyết cụ thể. Có thể kể đến luận án tiến sĩ của Phạm Tiết Khánh bảo vệ năm 2007 tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội với đề tài: Khảo sát 9 truyện kể dân gian Khơme Nam Bộ (qua thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích). Tuy chưa phải là một nghiên cứu chuyên biệt về thể loại truyền thuyết song luận án này đã đặt vấn đề truyền thuyết của người Khơme Nam Bộ như một phần quan trọng trong tổng thể kết cấu luận án, từ đó đưa ra những nhận định cụ thể và những lý giải sâu sát về thể loại truyền thuyết của người Khơme Nam Bộ. Luận án này đã góp thêm một cái nhìn mang tính địa phương, cụ thể cho thể loại truyền thuyết ở Việt Nam. Năm 2008, tác giả Trần Thị An viết bài “Sự hình thành truyền thuyết dân gian - Tìm hiểu sự hình thành truyền thuyết Tứ vị thánh nương (qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết dân gian và tục thờ cúng)” in trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba. Từ một truyền thuyết cụ thể, tác giả đã có những khái quát có trọng lượng về con đường hình thành của truyền thuyết dân gian nói chung. Năm 2010, luận án tiến sĩ Truyền thuyết dân gian về những cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nam Bộ (1858 - 1918) của Võ Phúc Châu bảo vệ tại Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã góp thêm một cái nhìn cụ thể và tường tận về thể loại truyền thuyết thông qua một nhóm truyền thuyết ở một vùng văn hóa. Ngoài ra, việc sưu tầm truyền thuyết dân gian cũng dần dần thu được nhiều thành tựu. Trong các tuyển tập truyện dân gian ở các địa phương, một phần không thể thiếu là bộ phận truyền thuyết dân gian. Các bộ tuyển tập văn học dân gian đã sưu tập được nhiều truyền thuyết dân gian. Gần đây nhất, hai tập Truyền thuyết dân gian người Việt do GS. Kiều Thu Hoạch, TS. Trần Thị An và TS. Mai Ngọc Hồng biên soạn (thuộc bộ Tổng tập văn học dân gian người Việt) đã sưu tập được một khối lượng lớn các truyền thuyết dân gian ở địa phương cũng như các truyền thuyết dân gian được ghi chép vào kho tàng văn xuôi trung đại và kho thần tích. 3.2. Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian vùng Nghệ Tĩnh Hướng nghiên cứu văn học dân gian theo vùng văn hóa đang trở thành một hướng nghiên cứu mang lại nhiều kết quả và có ý nghĩa thực tiễn cao. Hướng nghiên cứu này đã được không ít các nhà nghiên cứu theo đuổi. Năm 1978, tác giả Hoàng Tiến Tựu trong bài viết Về phân vùng văn học dân gian và ý nghĩa phương pháp luận của nó đăng trên tạp chí Dân tộc học số 2 đã đề cập trực tiếp đến vấn đề 10 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi này. Trong bài viết này, tác giả Hoàng Tiến Tựu đã nhấn mạnh những lợi ích có ý nghĩa phương pháp luận đối với khoa nghiên cứu văn học dân gian mà việc phân vùng có thể mang lại. Ông cho rằng: “Việc phân vùng văn học dân gian nếu được giải quyết tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các nhà nghiên cứu đặt tác phẩm văn học dân gian vào địa bàn sinh thành, tồn tại và phát triển của nó. Từ đó lần ra sự diễn biến của các tác phẩm, các thể loại văn học dân gian của từng vùng” [166, 2]. Khi đề ra tiêu chí phân vùng và các đơn vị phân vùng, tác giả đã đưa ra bốn đơn vị cơ bản là làng, vùng văn học dân gian, khu vực văn học dân gian và miền văn học dân gian. Trong phần định nghĩa về vùng văn học dân gian, Hoàng Tiến Tựu lấy Nghệ Tĩnh làm ví dụ: “vùng văn học dân gian là một đơn vị văn học dân gian tương đối hoàn chỉnh gồm những làng có phong cách chung (giống nhau hoặc gần nhau) về văn học dân gian, về ngôn ngữ, về phong tục, tín ngưỡng, về hoàn cảnh lịch sử, địa lý… Ví dụ hầu hết các làng xóm người Việt ở rải rác từ Khe Nước Lạnh đến đèo Ngang đều thuộc vùng văn học dân gian Nghệ Tĩnh” [166, 5]. Tác giả cũng không quên lưu ý về sự khác biệt của việc phân vùng văn học dân gian và việc phân vùng từng thể loại văn học dân gian cụ thể. Theo đó, đường biên giới của hai kiểu phân vùng trên đây có thể trùng khít hoặc lệch nhau tùy trường hợp cụ thể. Trong phần đề xuất phương án phân vùng văn học dân gian, tác giả Hoàng Tiến Tựu coi Nghệ Tĩnh là “khu vực sông Lam” - một vùng văn học dân gian bên cạnh khu vực sông Gianh - sông Hương của miền Trung. Bài viết của tác giả Hoàng Tiến Tựu dù như lời tác giả - mới chỉ là “những suy nghĩ bước đầu (…), một lời đề nghị bước đầu và một sự trưng cầu ý kiến thiết tha đối với một số vấn đề cần được nhiều người quan tâm tham gia giải quyết” [166, 13] song đã nêu lên được những vấn đề cơ bản của hướng nghiên cứu vùng văn hóa/ văn học dân gian. Nó có ý nghĩa mở đầu và có giá trị gợi mở cho các nhà nghiên cứu đi theo xu hướng nghiên cứu văn hóa dân gian theo vùng. Không chỉ vậy, bài viết của tác giả Hoàng Tiến Tựu còn có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử nghiên cứu vùng văn học dân gian Nghệ Tĩnh khi ông lấy Nghệ Tĩnh làm ví dụ cho các đề xuất cụ thể của mình. 11 Năm 1981, Hội nghị văn học dân gian miền Trung lần thứ nhất được tổ chức tại Đà Nẵng với sự tham gia của đông đảo các nhà nghiên cứu văn học dân gian từ các trường đại học, Hội văn nghệ dân gian Việt Nam… Các tham luận của hội nghị này chủ yếu xoay xung quanh các vấn đề vùng/miền văn học dân gian từ lí luận đến thực tiễn. Trong bài “Tiêu chí phân vùng văn nghệ dân gian”, tác giả Vũ Ngọc Khánh đã xác định các tiêu chí phân vùng đồng thời đề ra phương án phân vùng văn nghệ dân gian cho cả nước gồm 7 miền, trong đó, Nghệ Tĩnh là một miền văn nghệ dân gian. Tác giả Lê Văn Hảo trong bài “Bước đầu so sánh những sắc thái miền Trung qua bốn vùng dân ca: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên và Nam Trung Bộ” cũng cho rằng: Nghệ Tĩnh là một trong bốn vùng văn hóa dân gian của miền Trung, đồng thời cũng là một vùng dân ca có sắc thái riêng độc đáo [76, 19]. Những nhận định như vậy là cơ sở để chúng tôi tiến hành nghiên cứu truyền thuyết dân gian trong không gian xứ Nghệ - một không gian văn hóa dân gian đặc trưng. Năm 1984, Nguyễn Đổng Chi cùng với các nhà nghiên cứu khác (Ninh Viết Giao, Vũ Ngọc Khánh) đã hoàn thành bản thảo cuốn Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh [38] với dung lượng 925 trang song do ông đột ngột qua đời, cuốn sách này mãi đến hơn chục năm sau (năm 1995) mới được chính thức xuất bản. Dù vậy, theo đúng mốc thời gian bản thảo cuốn sách hoàn thành, chúng tôi cho rằng cuốn Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh cũng là một trong những tác phẩm đánh dấu bước đi tiên phong trong xu hướng nghiên cứu văn hóa dân gian theo vùng. Cuốn sách này thông qua việc khảo sát, đánh giá tổng quan một vùng văn hóa - vùng Nghệ Tĩnh đã cụ thể hóa hướng nghiên cứu văn hóa dân gian theo vùng, đồng thời chứng minh được hiệu quả thiết thực của hướng nghiên cứu này trong ngành folklore. Đặc biệt, trong cuốn sách này, ở phần Truyện kể dân gian [38, 191-251] do nhà nghiên cứu Ninh Viết Giao viết, lần đầu tiên, truyền thuyết dân gian xứ Nghệ được sơ lược tìm hiểu. Tuy nhiên, ngay cả khi đã có ý thức phân loại các thể loại văn học dân gian của xứ Nghệ (với các tiểu mục riêng cho từng thể loại như: thần thoại, tiên thoại, truyện cười, giai thoại, ngụ ngôn…), Ninh Viết Giao vẫn chỉ dành một tiểu mục chung cho hai thể loại cổ tích và truyền thuyết. Điều này cho thấy tác 12 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi giả chưa thật sự phân định rõ hai thể loại này trong kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ. Trong tiểu mục Cổ tích và truyền thuyết, khi đưa ra các ví dụ cụ thể cho từng nhận định, lẽ ra phải chỉ rõ truyện nào là cổ tích, truyện nào là truyền thuyết thì tác giả Ninh Viết Giao lại cố tình sử dụng thuật ngữ kép “cổ tích truyền thuyết” thay cho từng thuật ngữ đơn lẻ. Như vậy, dù đã được xác nhận thân phận trong cuốn sách trên đây song truyền thuyết dân gian xứ Nghệ vẫn chưa được xác định được vị thế riêng trong kho tàng văn học dân gian Nghệ Tĩnh. Năm 1986, Viện Văn hóa tổ chức Hội thảo khoa học về phân vùng văn hóa một sinh hoạt học thuật đánh dấu quy mô rộng lớn của vấn đề phân vùng văn hóa trong đời sống khoa học. Các bài viết được công bố trong hội thảo này là những minh chứng rõ ràng cho sự quan tâm của học giới đối với vấn đề văn hóa vùng. Năm 1993, nhà Nghệ học Ninh Viết Giao cho ra đời bộ sách Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ gồm bốn tập - là bộ sách sưu tầm có quy mô và hệ thống đầu tiên về truyện kể dân gian xứ Nghệ. Đây là cơ sở tư liệu quan trọng để chúng tôi tiến hành nghiên cứu luận án này. Tuy được chia làm bốn tập (gồm: tập I: truyện kể dân gian của người Việt ở xứ Nghệ; tập II: Truyện kể dân gian của bà con các dân tộc ít người ở miền núi xứ Nghệ; tập III: Truyện cười dân gian xứ Nghệ; tập IV: Giai thoại văn học xứ Nghệ) song dường như đó chỉ là cách phân chia để hợp lý hóa dung lượng cho mỗi tập chứ không phải là sự phân chia mang tính khoa học theo thể loại cụ thể. Bởi vì rõ ràng nhìn vào chủ đề của mỗi tập sách, chúng ta có thể thấy sự bất nhất trong tiêu chí. Trong hai tập I và II, Ninh Viết Giao không đưa ra bất kỳ thể loại cụ thể nào mà gọi chung các mẩu truyện được ông sưu tầm là truyện kể dân gian. Với tình trạng như vậy, bộ Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ mới làm nhiệm vụ tập hợp tư liệu truyện kể dân gian trong giới hạn vùng văn hóa xứ Nghệ chứ chưa phân loại tư liệu ấy thành các thể loại cụ thể khác nhau. Do đó, hệ thống tư liệu mà bộ sách này đem lại vẫn còn ở dạng sơ khai. Để sử dụng trong luận án này, các truyện kể dân gian ấy còn cần phải trải qua quá trình lựa chọn của chúng tôi. Tuy đây là một công trình tư liệu song tác giả cũng đã có ý thức nghiên cứu khi viết phần Tổng luận về kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ. Tuy nhiên, bài tổng 13 luận này lại được phát triển trên cơ sở phần viết về Truyện kể dân gian trong cuốn Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh do chính Ninh Viết Giao chấp bút cho nên về mặt nội dung, chúng hoàn toàn trùng khớp. Vấn đề phân loại kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ không có bước tiến gì mới so với bài viết của chính tác giả trong cuốn sách địa chí do Nguyễn Đổng Chi chủ biên. Vì tình trạng “dẫm chân tại chỗ” ấy về phương diện nghiên cứu, Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ chỉ có ý nghĩa đơn thuần về mặt tư liệu nghiên cứu đối với luận án của chúng tôi. Năm 1993, tác giả Ngô Đức Thịnh chủ biên cuốn Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam (năm 2004 sửa chữa và in lại thành Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam). Trong cuốn này, Ngô Đức Thịnh đưa ra một hệ thống lý thuyết khái niệm căn bản và các hướng nghiên cứu về vấn đề này trên thế giới; từ đó, ông đề xuất phương án phân vùng văn hóa ở Việt Nam với những mô tả, phân tích cụ thể từng vùng, tiểu vùng văn hóa. Có thể nói cuốn sách này đã cung cấp những bản lề kiến thức về xu hướng nghiên cứu văn hóa theo vùng, là kim chỉ nam dẫn đường cho các nhà nghiên cứu muốn đi sâu tìm hiểu văn hóa các địa phương cụ thể. Tác giả Ngô Đức Thịnh đã dành hẳn một chương (chương 8) để viết về xứ Nghệ như một tiểu vùng văn hóa - theo cách quan niệm về phân vùng văn hóa Việt Nam của ông. Xứ Nghệ hiện lên trong cuốn sách này ở dạng khái quát nhất ở mọi đặc trưng về các phương diện lịch sử, địa lý, khảo cổ, văn học dân gian… Ở cuốn sách có tính chất của một giáo trình chuẩn mực như thế này, tính định hướng và khái quát được đặt lên hàng đầu nên chúng ta không thể đòi hỏi tác giả phân tích thật kỹ về từng vùng văn hóa/ văn học dân gian cụ thể. Dẫu sao, những nét khái lược về văn học dân gian xứ Nghệ được tác giả đề cập đến trong cuốn sách cũng là những tài liệu quý báu đối với chúng tôi trong hành trình khám phá kho tàng truyền thuyết dân gian xứ Nghệ. Năm 1994, hội thảo khoa học Văn hóa truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam1 và Hội Văn nghệ dân 1 Nay là Viện Nghiên cứu Văn hóa 14 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi gian Nghệ An phối hợp tổ chức đã quy tụ được khá nhiều bài viết về văn hóa dân gian xứ Nghệ. Ngoài bài viết có tầm bao quát rộng về vùng văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh của tác giả Đinh Gia Khánh: “Thử tìm hiểu cơ sở lịch sử xã hội của vùng văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh”, các bài viết còn lại đều đi vào nghiên cứu những vấn đề cụ thể của văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh. Có thể kể đến các bài viết như: “Văn hóa dòng họ: từ những nét chung đến một trường hợp cụ thể, họ Cương quốc công Nguyễn Xí tại Nghi Lộc, Nghệ An” của tác giả Nguyễn Đình Chú; “Văn học dân gian trong các nghề thủ công truyền thống ở xứ Nghệ” của tác giả Hoàng Anh Tài; “Vài suy nghĩ về các thần tích ở Nghệ An trong kho tư liệu Hán Nôm” của tác giả Đỗ Thị Hảo; “Lễ hội dân gian ở Nghệ An: truyền thống và hiện đại” của tác giả Lê Hồng Lý… Các tham luận này đã đụng chạm đến nhiều mặt khác nhau của vùng văn hóa xứ Nghệ, góp phần làm sáng rõ diện mạo văn hóa xứ Nghệ trong không gian văn hóa Bắc Trung Bộ nói riêng và cả nước nói chung. Với một số lượng lớn các bài tham luận có liên quan đến vùng văn hóa xứ Nghệ, hội thảo này đã đặt một dấu mốc khá quan trọng trong lịch sử nghiên cứu văn hóa xứ Nghệ. Năm 1998, giáo sư Trần Quốc Vượng xuất bản cuốn sách Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa [176] bao gồm những bài viết được in rải rác trong nhiều giai đoạn khác nhau dưới cùng một kiểu tiêu đề - biểu hiện của một dòng tư tưởng, một lý thuyết về văn hóa vùng do giáo sư Trần Quốc Vượng thực hiện. Trong đó, tác giả khám phá đặc điểm, cá tính văn hóa của các vùng đất khác nhau trên đất nước Việt Nam. Đây chính là một cách thể hiện sự tham gia tích cực vào trào lưu nghiên cứu văn hóa theo vùng. Trong cuốn sách này, hai bài viết “Một cái nhìn địa văn hóa về xứ Nghệ trong bối cảnh miền Trung” [176, 281-289] và “Hà Tĩnh từ xa xưa… và nhìn từ Hà Nội” [176, 290-293] đã nêu lên những nét cơ bản đặc trưng của vùng văn hóa xứ Nghệ với một lối viết thiên về chất báo chí. Dẫu sao, dưới ngòi bút tài hoa của nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng, xứ Nghệ đã được thêm một lần toát lên nét văn hóa riêng trong bối cảnh văn hóa chung. Năm 2004, nhà nghiên cứu Ninh Viết Giao xuất bản cuốn Về văn học dân gian xứ Nghệ, chủ yếu tập hợp, chỉnh lý lại các cuốn sách, bài viết ông đã viết trước 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan