Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khóa luận khảo sát câu đơn trong tiểu thuyết cõi ngƣời rung chuông tận thế của h...

Tài liệu Khóa luận khảo sát câu đơn trong tiểu thuyết cõi ngƣời rung chuông tận thế của hồ anh thái từ bình diện cấu trúc thông tin

.PDF
65
120
137

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên tôi muốn gửi lời cám ơn đến trường Đại học Sư Phạm – Đại học Đà Nẵng, đặc biệt là quý thầy cô trong khoa Ngữ văn đã luôn tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong thời gian qua để tôi có thể bổ sung kiến thức hoàn thành khóa luận này. Đặc biệt tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy hướng dẫn PGS.TS. Trần Văn Sáng đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình viết khóa luận tốt nghiệp. Xin gửi lời cám ơn đến các thầy cô trong thư viện nhà trường đã tạo điều kiện cho tôi có được những nguồn tài liệu cần thiết. Lời cám ơn cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, anh chị, bạn bè,… là nguồn động viên to lớn khích lệ tôi, là chỗ dựa tinh thần giúp tôi hoàn thành luận văn này. Đề tài của chúng tôi chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến, bổ sung, giúp đỡ của Hội đồng bảo vệ, Qúy thầy cô và toàn thể các bạn sinh viên. Tôi xin chân thành cảm ơn! Đà Nẵng, ngày 26 tháng 04 năm 2018. Người thực hiện Nguyễn Thị Sen LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình của tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Trần Văn Sáng, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa hề được công bố dưới bất kì hình thức nào. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, đánh giá nhận xét được chính tác giả thống kê thu thập. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung tính khoa học trong công trình này. Đà Nẵng, ngày 26 tháng 04 năm 2018. Người thực hiện Nguyễn Thị Sen MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1 2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 2 3. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 6 6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................. 6 7. Cấu trúc đề tài ..................................................................................................... 7 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ..........8 1.1. Câu đơn và câu đơn từ bình diện cấu trúc thông tin ............................................ 8 1.1.1. Khái niệm về câu đơn ...................................................................................................... 8 1.1.2. Một số quan niệm về CTTT ..................................................................................... 12 1.1.3. Khái niệm CTTT ......................................................................................................... 16 1.2.4. Khái niệm thông tin cũ (TTC), thông tin mới (TTM), tiêu điểm thông tin (TĐTT) .......................................................................................................................................... 18 1.2.5. Dấu hiệu nhận biết TĐTT ............................................................................................. 21 1.2. Tác giả Hồ Anh Thái và tiểu thuyết “Cõi người rung chuông tận thế” ............ 27 1.2.1. Tác giả Hồ Anh Thái .................................................................................................. 27 1.2.1.1.Cuộc đời .......................................................................................................................... 27 1.2.1.2. Sự nghiệp sáng tác văn chương ............................................................................... 28 1.2.2. Tiểu thuyết “Cõi người rung chuông tận thế” ..................................................... 29 1.3. Tiểu kết chương 1........................................................................................................ 30 CHƢƠNG 2. KHẢO SÁT CÂU ĐƠN TRONG TÁC PHẨM “CÕI NGƢỜI RUNG CHUÔNG TẬN THẾ” CỦA HỒ ANH THÁI TỪ BÌNH DIỆN CẤU TRÚC THÔNG TIN .................................................................................................. 32 2.1. Cấu trúc thông tin lưỡng phân cơ sở và tiêu điểm thông tin ............................. 33 2.1.1. Cấu trúc thông tin cơ sở - tiêu điểm (CS-TĐ) ..................................................... 33 2.1.2. Cấu trúc thông tin tiêu điểm – cơ sở ...................................................................... 36 2.2. Cấu trúc thông tin xen kẽ cơ sở và tiêu điểm thông tin .................................... 39 2.2.1. Cấu trúc thông tin cơ sở - tiêu điểm – cơ sở ........................................................ 39 2.2.2. Cấu trúc thông tin tiêu điểm – cơ sở - tiêu điểm ................................................. 41 2.3. Cấu trúc thông tin chỉ có tiêu điểm ................................................................... 42 2.3.1. Cấu trúc thông tin có tiêu điểm là đề ..................................................................... 42 2.3.2. Cấu trúc thông tin có tiêu điểm là thuyết ............................................................ 443 2.3.3. Cấu trúc thông tin có tiêu điểm là cấu trúc đề thuyết ........................................ 44 2.4. Tiểu kết chương 2........................................................................................................ 46 CHƢƠNG 3. TIÊU ĐỂM THÔNG TIN VÀ GIÁ TRỊ BIẾU ĐẠT CỦA CÂU ĐƠN TRONG TÁC PHẨM CÕI NGƢỜI RUNG CHUÔNG TẬN THẾ ............. 47 3.1. TĐTT được đánh dấu bằng hình thức câu trong tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế ........................................................................................................... 47 3.2. Giá trị biểu đạt trong việc sử dụng hình thức câu đơn từ bình diện cấu trúc thông tin trong tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế ...................................... 49 3.3. Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 54 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CTTT: Cấu trúc thông tin CS: Cơ sở TĐ: Tiêu điểm TĐTT: Tiêu điểm thông tin TTC: Thông tin cũ TTM: Thông tin mới CTCP: Cấu trúc cú pháp DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng 2.1 Tên bảng Thống kê lời thoại theo vị trí tiêu điểm Trang 32 DANH MỤC CÁC HÌNH Số hiệu hình 2.1 2.2 2.3 2.4 Tên hình Trang Câu đơn có TĐ đứng sau CS (CS – TĐ) 34 CTTT có tiêu điểm đứng trước cơ sở (TĐ-CS) 37 CTTT có tiêu điểm nằm giữa cơ sở (CS – TĐ – CS) CTTT có CS đứng giữa phần tiêu điểm (TĐ – 40 42 CS – TĐ) 2.5 CTTT có tiêu điểm là đề 43 2.6 CTTT có tiêu điểm là thuyết 44 2.7 Tiêu điểm là cấu trúc đề - thuyết 45 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong lĩnh vực ngôn ngữ, câu là vấn đề quan trọng của phân môn cú pháp học, một phạm trù có ý nghĩa đặc biệt của ngữ pháp. Còn trong đời sống, câu được xem là một phương tiện giao tiếp, phương tiện tạo văn bản. Câu có chức năng dùng để thông báo hay giải thích một vấn đề nào đó. Khi sử dụng các từ được sắp xếp lại thành một câu, người ta muốn diễn đạt sao cho người khác hiểu được ý của mình. Câu có thể là những câu đơn giản hay phức tạp và giữ những chức năng khác nhau. Để làm tròn chức năng của mình, câu còn được xếp vào các bình diện khác nhau giúp con người dễ hiểu và sử dụng hơn. Chính vì thế, khi lựa chọn nghiên cứu câu đơn trên bình diện cấu trúc thông tin, chúng tôi hi vọng nó sẽ đóng góp cho việc con người dựa trên đó để hình thành và biết sử dụng những cấu trúc câu phức tạp hơn. Cấu trúc thông tin (CTTT) dùng để phân đoạn cấu trúc của câu theo vị thế thông tin. Trong thời gian qua, CTTT đã được các nhà ngôn ngữ học thế giới lẫn Việt ngữ học nghiên cứu, tiếp cận từ nhiều góc độ, từ ngữ âm, ngữ pháp đến từ vựng ngữ nghĩa, trong mối quan hệ với nhiều yếu tố ngoài ngôn ngữ như ngữ cảnh, tiền giả định, kiến thức nền, tâm lí….Việc tìm ra cách để đánh dấu thông tin mới và nhận diện thông tin mới sẽ góp phần không nhỏ để quá trình giao tiếp đạt hiệu quả cao. Hồ Anh Thái, được đánh giá là một trong những nhà văn đã gây được tiếng vang lớn trong văn học Việt Nam thời đương đại. Hồ Anh Thái tạo dấu ấn của mình trong làng văn qua nhiều tác phẩm như: “Trong sương hồng hiện ra”; “Người đứng một chân”; “Tiếng thở dài qua rừng kim tước”; “Mười lẻ một đêm”;… Trong các tác phẩm đó, tiểu thuyết “Cõi người rung chuông tận thế” có thể coi là sự tổng hợp sức sáng tạo của nhà văn về thế giới tư tưởng cũng như sự đa dạng, độc đáo về mặt ngôn ngữ nghệ thuật chất văn cũng như ngôn ngữ và cách sử dụng câu, một thành công lớn của nhà văn trong sự vận động của tư duy tiểu thuyết hiện đại giai đoạn hiện nay. Với một giọng văn trẻ trung, tươi mới về đời sống thanh niên, sinh viên với những cuộc phiêu lưu, những khát khao khám phá đời sống, những tác phẩm 2 của ông đã có những phát kiến về ngôn ngữ, tạo cho tiếng Việt thêm màu sắc, đa dạng và phong phú hơn. Cuối cùng, một trong những lí do quan trọng để tôi lựa chọn đề tài này là xuất phát từ đặc trưng, yêu cầu và sự đổi mới của công tác dạy học hiện nay. Trên thực tế, học sinh chỉ được tiếp xúc với những kiểu câu được phân tích theo ngữ pháp truyền thống, vì thế đây được xem là một lý thuyết khá mới mẻ trong nhà trường. Với dự định đổi mới sách giáo khoa của Bộ Giáo dục, tôi hi vọng những kiến thức này được đưa vào nhà trường để học sinh được tiếp xúc làm quen, và những nghiên cứu của tôi sẽ đóng góp cho quá trình giảng dạy sau này. Với những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Khảo sát câu đơn trong tác phẩm Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái từ bình diện cấu trúc thông tin”. Vì những lí do khách quan nên chúng tôi chỉ khảo sát số lượng câu đơn dựa vào lời thoại của nhân vật. 2. Mục đích nghiên cứu Khóa luận tập trung hướng vào những mục đích cụ thể sau: - Khảo sát, thống kê số lượng các câu đơn có trong tác phẩm Cõi người rung chuông tận thế từ bình diện cấu trúc thông tin và chỉ khảo sát trên lời thoại của nhân vật. - Phân tích, chỉ ra các hình thức đánh dấu tiêu điểm thông tin trong câu. - Nêu lên ý nghĩa của việc đánh dấu tiêu điểm thông tin trong câu. 3. Lịch sử vấn đề 3.1. Vấn đề cấu trúc thông tin (CTTT) Vấn đề lý thuyết CTTT thực ra đã được nghiên cứu từ rất sớm (khoảng thế kỉ XIX). Người đầu tiên đề cập đến lý thuyết về CTTT là V.Mathesius (1929), thuộc trường phái Prague. Các nhà ngôn ngữ học thuộc trường phái này đề cập đến vấn đề phân đoạn thực tại của câu. Theo V. Mathesius, các yếu tố cơ bản của phân đoạn thực tại là: điểm xuất phát/ hay là cơ sở của câu nói và hạt nhân của câu nói. Điểm 3 xuất phát đươc hiểu là cái đã được biết trong tình huống đó hoặc chí ít cũng có thể dễ dàng hiểu ra và người nói lấy nó làm điểm xuất phát. Các nghiên cứu tiếp theo, V.Mathesius đã phân cấu trúc câu làm hai phần là đề (topic, theme) và thuyết (comment, rtheme). Trong đó đề thường là cái gì đã được biết hoặc có thể suy ra từ ngữ cảnh tình huống. Thuyết thường là cái gì mới hoặc chưa biết vào thời điểm của giao tiếp. Quan niệm này của V. Mathesius sau này được các nhà ngôn ngữ trên thế giới hưởng ứng (Firbas (1964), Halliday (1967), Dahl (1969)….). Halliday cũng là người đầu tiên đưa đơn vị thông tin (information unit) và chỉ ra mức độ độc lập riêng cho cấu trúc thông tin. Từ đó đến nay, CTTT đã được tiếp cận từ nhiều bình diện ngôn ngữ khác nhau, từ ngữ âm, ngữ pháp, đến từ vựng – ngữ nghĩa,... trong mối quan hệ với nhiều yếu tố ngoài ngôn ngữ như ngữ cảnh, tiền giả định, kiến thúc nền, tâm lý,… hình thành nên hệ thống các khái niệm với nhiều cách lý giải khác nhau như: Tiền giả định – Tiêu điểm (Presupposition – Focus), Chủ đề - Tiêu điểm (background – Focus) ,…trong đó TĐ là trọng tâm nghiên cứu. Wallace Chafe (1976) mở rộng quan niệm Halliday về thông tin “mới” và thông tin “cho sẵn” sang mô hình tâm lý về ý thức của người nói và người nghe. Dùng thuật ngữ “đóng gói thông tin”, Chafe (1976) giải thích về thuật ngữ này như sau: “Tôi dùng thuật ngữ đóng gói để chỉ một hiện tượng đưa ra ở đây, là việc nó chủ yếu liên quan đến cách mà thông điệp được đưa ra và sau đó mới chính là thông điệp; cũng giống như việc đóng gói một hộp kem đánh răng có thể ảnh hưởng tới sản lượng bán của cái chất lượng kem đánh răng vốn có một phần độc lập bên trong [29]. Nhà nghiên cứu còn cho rằng, cấu trúc thông tin gồm ba phần: chủ đề (topic), chú giải và tiêu điểm (focus). Ở Việt Nam, vấn đề này được quan tâm từ những năm 80 – 90 của thế kỉ XX như trong một số chuyên đề ở các trường đại học hay trong một số công trình của một số tác giả như Trần Ngọc Thêm, Đỗ Hữu Châu, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp. .. Tuy nhiên, các quan điểm không thống nhất, các khái niệm đưa ra mỗi người mỗi cách, vẫn chưa có tiếng nói chung. 4 3.2. Về tiểu thuyết “Cõi ngƣời rung chuông tận thế” của Hồ Anh Thái Trên thực tế, đã có rất nhiều bài viết, đề tài, khóa luận nghiên cứu về tiểu thuyết của Hồ Anh Thái. Với lối viết trẻ trung cùng kĩ thuật viết hiện đại, sáng tác của Hồ Anh thái luôn thu hút sự quan tâm của dư luận từ bạn đọc đến giới phê bình trong và ngoài nước. Tuy nhiên nó chỉ chủ yếu thiên về mảng phê bình nghệ thuật mà ít có công trình đi vào nghiên cứu về mảng ngôn ngữ. Cụ thể về mảng phê bình văn học trong tác phẩm Cõi người rung chuông tận thế có các công trình: Phạm Xuân Thạch trong bài viết Từ tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế, suy nghĩ về một hiện tượng phê bình đã nhận xét đúng như Ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam rằng: “Tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái là một tác phẩm được viết một cách công phu, chuyên nghiệp, thể hiện những tìm tòi trong phương pháp tiếp cận và phản ánh hiện thực, trong giáo lý đạo Phật và thi pháp tiểu thuyết của các tác giả hiện đại”.[30] Quả thực, cuốn tiểu thuyết là thành quả của một lao động văn học có tính chuyên nghiệp của một nhà văn có tuổi đời và tuổi nghề không còn trẻ. Võ Minh Anh, Cõi người rung chuông tận thế từ góc nhìn Phật giáo cũng đã nhận định chủ đề tư tưởng các tiểu thuyết mang đậm màu sắc giáo lý Phật giáo và tín ngưỡng dân gian với cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, và qua đó cũng thể hiện niềm hi vọng về sự cữu rỗi cho những người ăn năn hối lỗi. Phan Văn Tú, Cõi người rung chuông tận thế - nhìn từ vài con số thống kê được in trên trang cá nhân ngày 11/10/2006 đã phân tích và thống kê về nghệ thuật được tác giả sử dụng trong tiểu thuyết như tính biểu tượng của hai mặt đối lập, hình thức điệp ngữ với dạng câu có lặp lại chủ ngữ, cách sử dụng đại từ xưng tôi chiếm một tỉ lệ cao trong tác phẩm, các thành ngữ, tục ngữ, ca dao,…Tuy nhiên, tác giả cũng nhận định rằng: “Dù cố gắng lượng hóa những yếu tố vật chất của tác phẩm theo hướng nào, chúng ta cũng đành bất lực khi giải mã được hết những thông điệp nghệ thuật từ tác phẩm, bởi cuộc đời đâu lúc nào cũng đối xứng, cũng chỉ là những biểu trưng, hoặc trắng đen rạch ròi cho ta lựa chọn…” 5 Ngô Thị Kim Cúc trong bài viết Cái ác ở phía ít ngờ nhất trên tờ báo thanh niên, 3-11-2002đã nhận xét rằng: “Với tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế, Hồ Anh Thái đã tiến thêm một bước trong kĩ thuật tiểu thuyết, thành công trong việc sử dụng những yếu tố ảo nhằm phục vụ hàm ý của tác phẩm” [5]. Tác phẩm cũng đưa ra những giá trị bài học cho con người, đó là: Con người phải biết sợ cái ác, nhất là cái ác không ngờ đến ngay trong chính những ý định tưởng chừng như tốt đẹp cửa mình. Nguyễn Thị Minh Thái trong bài viết Giọng điệu tiểu thuyết đa thanh đăng trên Tạp chí thế giới mới, 529, 31-3-2003 đã nhận định rằng, để nhấn mạnh được điểm nhìn của nhân vật, nhà văn Hồ Anh Thái đã chọn được một điểm nhìn tiểu thuyết độc đáo rất gần với cách nhìn của thơ trữ tình và giọng tiểu thuyết đa thanh vang ngân nhiều cung bậc để gây hấn người đọc bằng một hồi chuông cảnh báo đa thanh, lúc khoan, lúc nhặt, lúc tức tưởi, lúc ngạt ngào, đanh thép, lúc du dương, dịu dàng,… để khuyên nhủ con người hãy dè chừng tránh xa cái ác. Ngoài những bài nghiên cứu về mảng văn chương, cũng có một số bài nghiên cứu về mảng ngôn ngữ như: Trần Thị Thanh Hải với luận văn Nghệ thuật kể chuyện trong cõi người rung chuông tận thế. Trần Thị Hồng Nhung với luận văn Cấu trúc câu trong tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái, Đà Nẵng, 2012. Phạm Thị Tâm với luận văn tốt nghiệp Đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế, Đà nẵng, 2013. Tuy nhiên, những bài viết về mảng ngôn ngữ chưa nhiều, đặc biệt chưa có đề tài nào đi sâu vào nghiên cứu câu trong văn chương của Hồ Anh Thái từ bình diện cấu trúc thông tin. Vì vậy, với việc chọn lựa đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ đóng góp vào công trình ngôn ngữ cũng như giúp người đọc có cái nhìn đa diện hơn về văn chương của Hồ Anh thái. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu 6 Để thực hiện đề tài “Khảo sát câu đơn trong tác phẩm Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái trên bình diện cấu trúc thông tin”, trước tiên chúng tôi tìm hiểu lý thuyết về câu đơn trên bình diện cấu trúc thông tin của các nhà Việt ngữ. Trên cơ sở đó có thể khảo sát, thống kê và phân tích câu đơn trên bình diện cấu trúc thông tin trong tiểu thuyết “Cõi người rung chuông tận thế” của Hồ Anh Thái. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi khóa luận, chúng tôi tập trung tìm hiểu khảo sát câu đơn từ bình diện cấu trúc thông tin qua các lời thoại của nhân vật trong tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái do NXB Đà Nẵng xuất bản năm 2003. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành khóa luận, trong quá trình tiếp cận và phân tích tác phẩm, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp. Các phương pháp được sử dụng kết hợp để hộ trợ, tác động lẫn nhau. Trong đó, một số phương pháp chủ yếu được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu như sau: 5.1. Thủ pháp khảo sát, thống kê, phân loại: thủ pháp này chúng tôi vận dụng để khảo sát, thống kê số lượng câu đơn từ bình diện cấu trúc thông tin trong tiểu thuyết và phân loại theo tiêu chí cụ thể. 5.2. Phƣơng pháp miêu tả ngôn ngữ: Sau khi thống kê phân loại các câu đơn, chúng tôi sử dụng phương pháp này để phân tích, miêu tả và đưa ra những nhận xét đánh giá. Vận dụng phương pháp này, trong từng chương, phần, mục của khóa luận, chúng tôi sử dụng các thủ pháp nghiên cứu cụ thể để phân tích thành tố, ngữ cảnh… 6. Đóng góp của đề tài Về mặt lý thuyết, CTTT vẫn còn là một lý thuyết mới mẻ và chưa có sự thống nhất của các nhà ngôn ngữ trên thế giới. Tại Việt Nam, lý thuyết này cũng còn những ý kiến trái chiều. Và trong khuôn khổ khóa luận, chúng tôi chưa đưa ra được vấn đề lý thuyết mới mẻ nhưng chỉ bày tỏ quan niệm của mình đồng tình hay không đồng tình với các ý kiến của các nhà Việt ngữ học. Về mặt thực tiễn, những lý thuyết mới mẻ cần được nghiên cứu và bổ sung nhiều để người học không còn xa lạ. Có thể trong chương trình đổi mới sách giáo 7 khoa, lý thuyết phân tích câu không chỉ theo ngữ pháp truyền thống nhưng có cái nhìn đa diện hơn, tiếp xúc câu theo bình diện CTTT một cách dễ dàng hơn. 7. Cấu trúc đề tài Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và những vấn đề có liên quan. Chương 2: Khảo sát câu đơn trong tác phẩm “Cõi người rung chuông tận thế” của Hồ Anh Thái từ bình diện cấu trúc thông tin. Chương 3: Tiêu điểm thông tin và giá trị biểu đạt của câu đơn trong tác phẩm Cõi người rung chuông tận thế. 8 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN 1.1. Câu đơn và câu đơn từ bình diện cấu trúc thông tin 1.1.1. Khái niệm về câu đơn Theo quan niệm truyền thống, ở bình diện ngữ pháp, câu được cấu tạo bởi các thành phần ngữ pháp. Mỗi thành phần ngữ pháp đó có những đặc trưng riêng về ý nghĩa ngữ pháp và hình thức ngữ pháp. Toàn bộ các thành phần ngữ pháp trong câu tạo nên hệ thống thành phần ngữ pháp của câu. Như ở tiếng Việt, các thành phần ngữ pháp trong câu được quan niệm gồm ba loại: các thành phần chính (chủ ngữ, vị ngữ), các thành phần phụ, thứ yếu (trạng ngữ, khởi ngữ, bổ ngữ, định ngữ), các thành phần biệt lập (chú ngữ, hô ngữ, tình thái ngữ, cảm thán ngữ). Mỗi thành phần ngữ pháp như thế được xác định đặc tính bởi các đặc điểm về ý nghĩa ngữ pháp khái quát và đặc điểm về hình thức ngữ pháp. Chính vì thế, khi định nghĩa về câu, ngữ pháp truyền thống cho rằng: “Câu là đơn vị ngữ pháp dùng để thông báo có tính giao tiếp, tính tình thái và tính vị ngữ”. Tính giao tiếp của câu tức là mục đích giao tiếp nhất định của câu. Tính tình thái là sự biểu thị về thái độ và ý thức hay sự biểu cảm nào đó của con người đối với nội dung câu (khẳng định, phủ định, nghi vấn, yêu cầu, than gọi). Tính vị ngữ của câu là sự kết hợp cú pháp có quan hệ tương tự [18, tr. 208]. Câu đơn tiếng Việt phần lớn do các đơn vị tính vị ngữ có quan hệ chủ - vị tạo nên, một bộ phận khác của câu đơn do các đơn vị tính vị ngữ có dạng một từ hay cụm từ kết hợp với ngữ điệu tạo nên. Phan Thiều, Nguyễn Kỳ Thục, trong sách tiếng Việt 7 quan niệm rằng: “Câu đơn là câu chỉ có một nòng cốt chính C – V hay một mệnh đề”. Giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt của trường ĐHSP Vinh, sách Nghiên cứu Ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản, và Ngữ pháp tiếng Việt của UBKHXH, Ngữ pháp tiếng Việt của Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt của Hữu Quỳnh lại cho rằng: “Câu đơn là câu chỉ có một nòng cốt C – V. Căn cứ vào cấu tạo ngữ pháp, có thể chia câu đơn thành hai loại: câu đơn hai thành phần và câu đơn một thành phần. 9 Câu đơn hai thành phần (câu đơn bình thường) là câu đơn gồm một đơn vị tính vị ngữ có quan hệ chủ - vị làm nòng cốt tức là một đơn vị nòng cốt gồm hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ. Đơn vị tính vị ngữ có quan hệ chủ - vị (gọi tắt là C – V) có thể có cấu tạo khác nhau [18, tr. 209]. Ví dụ: - Anh bộ đội// đứng gác đêm khuya - Hoa thơm// bay dậy vòng quanh đồi. (Tế Hanh) (ghi chú: Chủ ngữ// Vị ngữ) Câu đơn một thành phần là câu đơn chỉ có một từ hay một cụm từ làm thành phần nòng cốt của câu; từ hoặc cụm từ đó, nhờ sự kết hợp với các phương tiện ngữ pháp khác nhau, mà trở thành một đơn vị tính vị ngữ làm tổ chức trung tâm của câu; thành phần duy nhất làm nòng cốt của câu đơn một thành phần không xác định được là chủ ngữ hay vị ngữ [18, tr. 209]. Câu đơn một thành phần còn được gọi là câu đơn đặc biệt. Nó khác với câu rút gọn. Ví dụ: - Quá trƣa. Ngày gần về chiều, những giờ còn lại qua rất nhanh. (Trần Đăng) - Tuyệt! - Thôi chết rồi! Câu trong tiếng Việt cũng được phân tích theo cấu trúc vị từ - tham thể. Người khơi nguồn cho phương pháp này là L.Tesnière với lý thuyết diễn trị. Ông đã gợi ra một giải pháp giải nghĩa độc lập cho việc phân tích câu. Sau ông, nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm đến vấn đề này đó là C.J.Fillmore, M.A.K.Halliday, W.Chafe, C.Hagège,… Để phân tích được câu phải xác định được vị từ trung tâm, sau đó xác định các tham thể bắt buộc xoay xung quanh vị từ đó, cuối cùng là xác định các tham thể mở rộng. 10 Ví dụ: Ngày 8-3 TTMR tôi TTBB tặng VTTT cho người yêu TTBB một bó hoa hồng. TTBB (Ghi chú kí hiệu: TTMR: Tham thể mở rộng; TTBB: Tham thể bắt buộc; VTTT: Vị từ tham thể) Nếu như ở bình diện ngữ pháp câu ở trạng thái cô lập, tách ra khỏi ngữ cảnh và khỏi hoạt động giao tiếp, chưa gắn với mục đích của người nói thì bình diện dụng học câu không tồn tại ở dạng biệt lập, tách khỏi hoạt động giao tiếp, mà luôn gắn liền với các nhân vật giao tiếp, với ngữ cảnh, với mục đích giao tiếp, nhiệm vụ và hiệu quả giao tiếp,… Ngữ pháp chức năng không phân tích cú pháp câu theo chủ - vị như quan niệm truyền thống nhưng lại phân tích câu theo bình diện cú pháp. Ở bình diện cú pháp, câu tiếng Việt được phân tích làm hai phần: Đề và Thuyết, tương ứng với hai thành phần của mệnh đề. Nó thường đi theo trật tự bình thường là Đề trước Thuyết sau. Câu hai phần có thể chỉ gồm một bậc Đề - Thuyết hoặc có từ hai bậc Đề Thuyết trở lên. Người ta có thể chia thành câu một bậc, và câu nhiều bậc. Câu một bậc là câu mà cả Đề lẫn Thuyết đều có cấu trúc không thể chia thành hai phần Đề và Thuyết ở cấp bậc thấp hơn. Ví dụ: Cơm // đã dọn xong [7, tr. 72]. Đ T Câu nhiều bậc là câu mà Đề hoặc/ và Thuyết bậc trên được cấu tạo bằng một cấu trúc Đề Thuyết bậc dưới. Nói cách khác, câu nhiều bậc là câu lấy một cấu trúc Đề - Thuyết làm Đề hoặc/ và Thuyết [7, tr. 73]. Ví dụ về câu hai bậc. 11 C Đ T đ Ông cụ // t dạo này yếu lắm. (Ghi chú kí hiệu: C: Câu, vế câu; Đ,T: Đề thuyết bậc 1; đ,t: Đề, thuyết bậc 2). Trong câu hai bậc, ta có những kiểu câu như: Câu có thuyết là tiểu cú, câu có Đề là tiểu cú, đề và thuyết của câu cũng có thể ghép, cấu trúc tiểu cú có thể có cả ở Đề lẫn Thuyết đơn hoặc ghép. Ngoài câu hai thành phần, ta còn có câu 1 thành phần còn gọi là câu không đề. Đây là câu chỉ gồm một phần thuyết, không có đề trên bề mặt của câu. Ví dụ: a. Cấm hút thuốc lá. b. Không chạy xe trong trường. Đọc những câu lệnh trên, người đọc biết ngay là mình bị cấm, mình không được, mình phải,…nhưng Đề của câu đã bị tỉnh lược nhưng người nghe vẫn hiểu rõ thông tin, có nghĩa là (Ở đây) cấm hút thuốc lá, (Ở đây) Không chạy xe trong trường. Đề “Ở đây” đã bị tỉnh lược. Ở bình diện dụng pháp, câu được chia theo thành hai phần là cái cho sẵn và cái mới. Nó cũng có thể được gọi là nêu – báo mà chúng tôi sẽ phân tích kĩ hơn các quan niệm của các nhà ngôn ngữ học phía dưới. Trong cái cho sẵn và cái mới, thì cái cho sẵn (phần nêu) là xuất phát điểm của thông báo, là đối tượng của cuộc nói chuyện, tức là thông tin đã biết hoặc dễ nhận biết mà từ đó người nói bắt đầu thông báo của mình; còn cái mới (phần báo) là trọng tâm của thông báo, là hạt nhân của cuộc thoại. V.Mathesius cũng cho rằng cái cho sẵn tương ứng với phần đề của câu, còn cái mới tương ứng với phần thuyết. Sau này, M.A.K Halliday phát hiện cái cho sẵn – cái mới không tương ứng với cấu trúc đề - thuyết của câu. 12 Ví dụ: Cô ấy // đã thức suốt đêm qua. CC CM (ghi chú: Cái cũ// cái mới) Trên cơ sở và đề tài của đề tài, chúng tôi sẽ đi theo hướng phân tích câu từ bình diện CTTT. Cụ thể hơn về khái niệm, quan niệm câu từ bình diện CTTT, chúng tôi sẽ làm rõ trong các phần sau của khóa luận. 1.1.2. Một số quan niệm về CTTT CTTT vẫn còn là một vấn đề gây nhiều tranh luận của các nhà ngôn ngữ học hiện nay. Chính vì thế mà có rất nhiều quan niệm về CTTT, có những quan niệm đồng nhất với nhau, có những quan niệm trái ngược nhau. Nhà ngôn ngữ học đầu tiên nghiên cứu về lý thuyết phân đoạn thực tại câu là V.Mathesius cho rằng CTTT đồng nhất với cấu trúc đề thuyết (theme – rheme/ comment), trong đó đề/ chủ đề được gọi là thành phần biểu hiện TTC, thông tin đã được tiền giả định trong ngữ cảnh, có tỉ lực thông báo thấp nhất, còn thuyết/ tiêu điểm thường được xác định là thành phần mang TTM, thông tin chưa được tiền giả định hoặc là thành phần có tỉ lực thông báo cao nhất. Đây là quan niệm phổ biến nhất được nhiều nhà ngôn ngữ học tán thành. Nói một cách vắn tắt và sơ lược thì theo cách phân chia này, CTTT của câu được chia làm hai phần: phần thứ nhất là phần chứa cái đã biết hoặc chỉ ít cũng dễ dàng hiểu được và người nói lấy đó làm điểm xuất phát thì được gọi là đề ( cơ sở), phần còn lại thông báo về điểm xuất phát là phần thuyết (hạt nhân) của phát ngôn. Trong một câu trật tự đề và thuyết có thể thay đổi. Nếu đề là T (viết tắt của Theme) đứng trước thì phần thuyết là R (viết tắt của Rheme) đứng sau và ngược lại: Cả làng Vũ Đại # nhao lên T R Trật tự T – R đươc gọi là trật tự khách quan Đen đủi # cho nó quá R T 13 Trật tự R – T được coi là trật tự chủ quan [Dẫn theo 22, tr. 10]. Tuy nhiên, ý kiến đồng nhất Đề/thuyết với Thông tin cũ/thông tin mới đã phải gặp phải những rắc rối khi phân tích câu, đặc biệt là phân tích câu theo tình huống và ngữ cảnh. Trong khi một số tác giả tiếp tục duy trì cách phân đoạn đề - thuyết theo tiêu chí “cũ – mới” truyền thống hoặc mở rộng hơn theo tiêu chí coi đề là “cái được nói đến” còn thuyết là bộ phận “thuyết minh” cho đề thì một số nhà nghiên cứu khác lại đi chệch khỏi sự phân chia lưỡng phân này. Chẳng hạn, J Firbas (1996) đưa ra cách phân đoạn tam phân là đề - chuyển đề- thuyết, trong đó chuyển đề là bộ phận. S.Dik (1981) phân biệt vị thế thông tin của các thành tố câu ở cấp độ dụng học (trong sự khu biệt với các cấp độ kết học và nghĩa học) bằng bốn chức năng dụng học: khởi đề, kết đề (nằm ngoài nòng cốt) và chủ đề, tiêu điểm (nằm trong nòng cốt). Điều đáng lưu ý trong quan niệm của Dik là tác giả không cho rằng các chức năng dụng học phải tác động đến sự phân đoạn lưỡng phân hình thức theo kiểu “nếu chúng ta gắn một chức năng dụng học nào đó cho một thành tố bất kì của câu, thì toàn bộ phần còn lại của câu nhất thiết cũng phải có một chức năng dụng học khác”, đồng thời tác giả nhấn mạnh đến vai trò của tiêu điểm (Focus) với tư cách là trọng tâm thông báo của câu. Khác với các tác giả trên, Dooley (1982) cho rằng phần duy nhất bắt buộc phải có trong câu là hạt nhân dụng pháp, tức là một cái lõi “mang thông báo quan trọng nhất”, có “tác dụng cơ bản nhất đối với lực ngôn trung”, còn phần còn lại chỉ là một cái khung mà nội dung là một tiền giả định được chia sẻ giữa người nói và người nghe. Như vậy, với R. Dooley cấu trúc câu xét theo quan điểm thông báo là cấu trúc một trung tâm với cốt lõi là hạt nhân dụng pháp hay hạt nhân thông báo [ Dẫn theo 18]. Trong Việt ngữ học, Panfilov (1980) là người đầu tiên áp dụng cách tiếng Việt theo tiêu chí lưỡng phân “cũ- mới” và mô tả khá chi tiết các kiểu phân đoạn thực tại câu trong tiếng Việt. Trần Ngọc Thêm cũng cho rằng, xét theo sự phân đoạn thông báo, cấu trúc câu được chia thành hai phần rõ rệt là “phần nêu (cái mà người 14 đọc đã biết hoặc giả định đã biết) và phần báo (cái mới, thông báo về phần nêu)”, và phân biệt chúng với cặp đề - thuyết ở bình diện ngữ pháp: “nêu-báo là sự phân đoạn thông báo được áp dụng cho từng phát ngôn cụ thể trong vị trí thực tại của nó ở một văn bản cụ thể; còn đề - thuyết là sự phân đoạn cấu trúc với các mô hình cấu trúc áp dụng cho từng loạt phát ngôn”. Lý Toàn Thắng (1981) và Diệp Quang Ban (1989) cũng vận dụng sự đối lập lưỡng phân (đề - thuyết) của lí thuyết phân đoạn thực tại để phân tích cấu trúc phân đoạn thực tại của câu tiếng Việt nhưng nghiêng theo tiêu chí mở rộng coi đề là “cái được nói đến” hay là “phần được giải thích” còn thuyết là cái “nói về chủ đề” hay “giải thích cho chủ đề”. Tuy nhiên, giữa hai tác giả cũng có điểm khác biệt. Theo Lí Toàn Thắng, chủ đề (thuật ngữ Lí Toàn Thắng dùng để chỉ phần đề) có thể đứng trước hoặc sau thuật đề (phần thuyết) và trật tự có thể trùng với vị ngữ, và câu có trật tự khách quan. Còn nếu chủ ngữ được nhấn mạnh bằng một trọng âm logic thì thuật đề lại rơi vào chủ ngữ, chủ đề trùng với vị ngữ, và câu có trật tự chủ quan. Trái lại, Diệp Quang Ban lại cho rằng trong cấu trúc phân đoạn thực tại của câu “phần đề luôn đứng trước phần thuyết” và “trong câu đơn hai thành phần với trật tự chủ ngữ - vị ngữ, chủ ngữ sẽ là phần đề, vị ngữ sẽ là phần thuyết”. Mặc dù về mặt lý thuyết, các tác giả theo cách tiếp cận lưỡng phân này chủ trương khu biệt sự phân đoạn thực tại (đề - thuyết hay nêu – báo) với phân đoạn ngữ pháp (chủ - vị) nhưng trên thực tế việc phân định và xác lập mối tương liên giữa các chức năng của hai bình diện này rất phức tạp bởi vì tiếng Việt không có các dấu hiệu hình thức thỏa đáng nào cho phép phân biệt rạch ròi các cấu trúc lưỡng phân của hai bình diện [ Dẫn theo 25]. Quan niệm của các nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo, Lưu Vân Lăng, Nguyễn Hồng Cổn đi ngược lại với quan điểm trên. Nhóm tác giả này cho rằng CTTT không thể trùng với cấu trúc đề thuyết. Dưới góc độ loại hình ngôn ngữ và ngữ pháp chức năng, các nhà ngôn ngữ học này cho rằng cần phân biệt rõ cấu trúc đề thuyết ở bình diện cú pháp với CTTT ở bình diện dụng pháp. Phê phán cách tiếp cận trên, Cao Xuân Hạo (1991) cho rằng việc đồng nhất cấu trúc đề thuyết với cấu trúc thông báo “may ra chỉ có thể chấp nhận được cho những ngôn ngữ quy chế hóa
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan