Mô tả:
Cấu tạo bài: I/ Giới thiệu. II/ Những vấn đề chung. 1. Không gian tồn tại. 2. Lịch sử và nguồn gốc hình thành. 3. Cấu tạo. 4. Quan niệm về cồng chiêng của người Tây Nguyên. III/ Đặc trưng cơ bản của cồng chiêng Tây Nguyên. 1. Đặc trưng về người diễn xướng. 2. Đặc trưng về cách thức diễn xướng. 3. Đặc trưng về biên chế và cơ cấu dàn nhạc. 4. Hệ bài bản. IV/ Tiềm năng phát triển và những giải phát để gìn giữ và phát triển không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. 1. Thực trạng 2. Tiềm năng phát triển 3. Các giải pháp *** Phần I/ Giới thiệu: Nhắc đến Tây Nguyên người ta sẽ nghĩ đến ngay mảnh đất cao nguyên đầy nắng và gió, những bản làng của người Gia Lai, Ê Đê, những câu truyện sử thi già làng kể mỗi đêm… hay chú voi con ở Bản Đôn đã nghe từ ngày còn nhỏ…. Đặc biệt nhất phải kể đến đó chính là không gian sôi nổi, vui vẻ với những điệu múa của những cô gái Tây Nguyên, của tiếng nhạc phát ra từ những chiếc cồng, chiếc chiêng làm nên bản sắc văn hóa của cả một dân tộc. Vâng đó chính là không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào ngày 25/11/2005. Sau Nhã nhạc Cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể thứ hai của Việt Nam được tôn vinh là di sản của thế giới. Điều đó khẳng định Việt Nam là một đất nước có bề dày truyền thống văn hóa, có nhiều nghệ thuật truyền thống cần được bảo tồn, gìn giữ và phát huy. Sau đây là những tìm hiểu của nhóm về kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại nói chung và của Việt Nam nói riêng. *** Phần II/ Những vấn đề chung. 1. Không gian tồn tại: Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn hóa quý giá và đặc sắc này là 17 dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Á (Austro-Asian) và Nam đảo (Austronesian) sống trên khu vực cao nguyên trung bộ của Việt Nam, các dân tộc thiểu số sống dọc Trường Sơn – Tây Nguyên như : Bana, Xêđăng, Mnông, Cơho, Rơmăm, Êđê, Giarai... Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên sử dụng cồng chiêng theo cách thức riêng để chơi những bản nhạc của dân tộc mình, nhất là vào dịp lễ hội, chào đón năm mới, mừng nhà mới và cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, nó là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ. Trải qua bao năm tháng cồng chiêng đã trở thành nền văn hóa đặc trưng, đầy sức quyến rũ và hấp dẫn của vùng đất Tây Nguyên. 2. Lịch sử và nguồn gốc hình thành. Cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa Đông Sơn_truyền thống văn hóa và lịch sử rất lâu đời. Về cội nguồn, có nhà nghiên cứu cho rằng, cồng chiêng là "hậu duệ" của đàn đá. Bởi trước khi có văn hóa đồ đồng tức thời kì đồ đá, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá, chiêng đá, …, hay chiêng tre,… Rồi theo tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại, con người tìm ra đồng, tạo nên thời đại hoàng kim đồ đồng. Trong thời kì hoàng kim của đồ đồng, các vật dụng bằng đồng lần lượt được ra đời, trong số đó, chiêng đồng được coi là đỉnh cao với kĩ thuật chế tác tinh xảo. Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng,.. Nó là biểu hiện của tín ngưỡng - là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên... Với âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng người, sống mãi cùng với đất trời và con người Tây Nguyên. Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu, … hay trong một buổi nghe khan thì đều phải có tiếng cồng, tiếng chiêng dài hơn đời người. Tiếng cồng, tiếng chiêng nối liềnvà kết dính những thế hệ lại với nhau. Có một câu chuyện truyền miệng như sau : Người Xêđăng kể rằng: Thuở xa xưa có lần voi dữ tràn về phá rẫy, phá buôn. Con trai Xêđăng mang theo lao, tên lá cùng hợp sức tiêu diệt thú dữ, đánh nhau suốt mấy ngày đêm, sức tàn lực kiệt mà thú dữ càng hung tợn. Họ chỉ còn biết chắp tay cầu Yàng. Bỗng họ thấy đùn lên một ụ đất, đào xuống thấy một vật bằng đồng tròn như ông mặt trời to bốn người ôm mới xuể. Gõ vào vật ấy phát ra tiếng trầm vang động núi rừng khiến đàn thú dữ ngơ ngác. Rồi các ụ đất liên tiếp mọc lên, mang theo các vật bằng đồng hình dáng tương tự nhưng nhỏ dần, âm càng cao. Khi đã có trong tay hơn 10 chiếc Chiêng, đồng thanh gõ lên thì tiếng trầm như thác đổ, tiếng cao như thác reo khiến voi dữ phải chạy vào rừng sâu…