Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Liên minh chiến đấu lào việt nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp (1...

Tài liệu Liên minh chiến đấu lào việt nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp (1945 1954)

.PDF
62
523
55

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÙI THỊ HỒNG LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU LÀO - VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Sơn La, năm 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÙI THỊ HỒNG LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU LÀO - VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954) Chuyên ngành: Lịch sử thế giới KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Đinh Ngọc Ruẫn Sơn La, năm 2014 LỜI CẢM ƠN Nhân dịp hoàn thành khóa luận, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Trung tâm thông tin - thư viện trường Đại học Tây Bắc, các thầy cô giáo trong khoa Sử - Địa. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới thầy giáo, thạc sỹ Đinh Ngọc Ruẫn đã tận tình hướng dẫn để tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của gia đình và các bạn sinh viên lớp K51 ĐHSP Sử - Địa trong suốt thời gian thực hiện khóa luận. Khóa luận này chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để khóa luận được hoàn thiện hơn. Sơn La, ngày 14/05/2014 Người thực hiện Bùi Thị Hồng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 2 3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ...................................................... 4 3.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 4 3.3. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 4 4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 4 4.1. Cơ sở tư liệu ................................................................................................ 4 4.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 4 5. Đóng góp của khóa luận ................................................................................. 4 6. Bố cục của khóa luận...................................................................................... 5 NỘI DUNG ....................................................................................................... 6 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU LÀO – VIỆT NAM ....................................................................................................... 6 1.1. Khái quát về Lào và Việt Nam .................................................................... 6 1.1.1. Khái quát về Lào ...................................................................................... 6 1.1.2. Khái quát về Việt Nam ........................................................................... 12 1.2. Cơ sở hình thành liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam.............................. 16 1.3. Quan hệ giữa cách mạng Lào và cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.................................................................................................................. 20 CHƢƠNG 2: LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU LÀO – VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 – 1954) ........ 26 2.1. Tình hình Lào và Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ Hai ..................... 26 2.2. Liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam trong những năm 1945 – 1947 ........ 27 2.3. Liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam trong những năm 1948 – 1950 ........ 32 2.4. Liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam trong những năm 1951 – 1954 ........ 38 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 54 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ trước đến nay, quan hệ đặc biệt Lào – Việt Nam, Việt Nam – Lào là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn bó bền chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc cùng chung mục đích đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ Lào – Việt Nam đã được hình thành từ lâu đời và dựa trên những điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa. Kể từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (3/2/1930), mối quan hệ này được Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp xây dựng, được các thế hệ sau tiếp tục phát triển. Đây được xem là mốc son chói lọi trong quan hệ hữu nghị đặc biệt Lào – Việt Nam. Khi Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam và Cách mạng tháng Mười ở Lào thành công năm 1945, tình đoàn kết, hữu nghị của hai nước đã góp phần củng cố sức mạnh đoàn kết trong phe các nước xã hội chủ nghĩa, cùng đấu tranh chống kẻ thù chung là thực dân Pháp (1945 – 1954). Sau đó, 21 năm kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975) của nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam tiếp tục kế thừa, phát triển truyền thống đoàn kết cách mạng vốn có của hai dân tộc giai đoạn trước. Hoạt động phối hợp đấu tranh của các cơ quan lãnh đạo cùng quân và dân Lào, Việt Nam đều xuất phát từ tình cảm sâu đậm, tinh thần trách nhiệm của hai bên dành cho nhau. Chính điều này tạo nên những nguồn lực mới, những nấc thang mới trong sức mạnh của từng dân tộc, từ đó mở đường đi tới thắng lợi chung cho hai nước. Từ năm 1975 đến nay, quá trình xây dựng đất nước đã ngày càng hun đúc thêm tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai dân tộc Lào và Việt Nam. Đáng chú ý trong chặng đường phát triển mối quan hệ đặc biệt Lào – Việt Nam là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân hai nước giai đoạn 1945 – 1954. Dưới sự giúp đỡ tận tình và chi viện kịp thời của nhân dân Việt Nam, nhân dân các bộ tộc Lào đã giành được thắng lợi quan trọng. Nhờ sự phối hợp chiến đấu của quân đội cách mạng Lào nên quân đội nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi quyết định. Có thể thấy rằng, đặc sắc nhất trong quan hệ Lào – 1 Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954 chính là liên minh chiến đấu Lào – Việt chống thực dân Pháp xâm lược. Tìm hiểu liên minh chiến đấu Lào – Việt chống thực dân Pháp xâm lược là việc làm cần thiết và có ý nghĩa lớn, nó giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc, đầy đủ hơn về quá trình phát triển cách mạng của mỗi nước, về truyền thống keo sơn của hai dân tộc và lịch sử của một mối quan hệ “ngoại giao” về quân sự mẫu mực, điển hình trên thế giới. Hơn nữa, việc tìm hiểu về liên minh chiến đấu Lào – Việt sẽ cho ta thấy đóng góp lớn của liên minh này đối với phong trào giải phóng dân tộc sau Chiến tranh thế giới thứ Hai ở cả Lào và Việt Nam. Tìm hiểu về liên minh chiến đấu Lào – Việt chống thực dân Pháp còn giúp bản thân tôi rèn luyện và trưởng thành hơn trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu vấn đề: “Liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)” làm khóa luận tốt nghiệp. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam. Tôi xin điểm qua các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề này như sau: Tác phẩm “Lịch sử quân tình nguyện Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp tại Lào (1945 – 1954)” của Viện lịch sử quân sự Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002, đã khái quát quá trình hình thành và phát triển của quân tình nguyện, từ các đơn vị Việt kiều giải phóng quân và Liên quân Lào – Việt trong những năm đầu cách mạng, cho đến khi chính thức trở thành quân tình nguyện Việt Nam tại Lào. Tuy nhiên, tác phẩm này tập trung chủ yếu vào phân tích vai trò của quân đội Việt Nam đối với việc giúp đỡ cách mạng Lào mà chưa đi sâu tìm hiểu mối quan hệ tương trợ của quân đội hai nước. Tác phẩm “Lược sử nước Lào” của tập thể các tác giả: Phan Gia Bền, Đặng Bích Hà, Phạm Nguyên Long, Huỳnh Lứa, Lê Duy Lương, Nguyễn Hữu Thùy, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, đã trình bày có hệ thống lịch sử nước Lào 2 từ thời tiền sử đến năm 1975. Trong đó, tác phẩm dành một chương để nói về cuộc kháng chiến của nhân dân Lào chống chủ nghĩa đế quốc Pháp (1945 – 1954) và có đề cập đến Liên minh Việt – Miên – Lào trong sự nghiệp đoàn kết chiến đấu vốn có giữa ba nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm “Lịch sử Lào hiện đại” tập I của hai tác giả Nguyễn Hùng Phi và TS. Buasi Chalơnsúc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, đã trình bày cuộc đấu tranh của nhân dân các bộ tộc Lào chống thực dân Pháp xâm lược giai đoạn 1893 – 1954 khá chi tiết và đầy đủ. Vấn đề liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam được phản ánh cụ thể thông qua các chiến dịch quân sự tại Lào. Đáng chú ý là vào năm 2012, nhân dịp kỉ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Lào – Việt Nam (5/9/1962 – 5/9/2012), Chính phủ hai nước đã tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào” được đông đảo nhân dân hai nước hưởng ứng. Đã có nhiều bài dự thi phân tích khá sâu sắc về mối quan hệ đặc biệt Lào – Việt Nam nói chung và liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược nói riêng. Vấn đề liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam còn được đề cập đến trong một số hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngoài ra, còn rất nhiều tài liệu khác nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này như các cuốn sách: “35 năm chiến thắng và trưởng thành của quân đội nhân dân Việt Nam”, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1979; “Đại cương lịch sử Việt Nam” tập III, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2010; “Việt kiều Lào – Thái với quê hương”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004… Như vậy, qua những tác phẩm trên ta thấy mỗi tác phẩm đề cập tới những khía cạnh và góc độ khác nhau về liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam. Các tác phẩm trên là nguồn tư liệu quan trọng để phục vụ cho công tác nghiên cứu vấn đề liên minh chiến đấu Lào – Việt một cách tổng quan. Trên cơ sở tiếp thu, chọn lọc bài viết của các tác giả, tôi quyết định tiếp tục phát triển vấn đề một cách khái quát và hệ thống, hy vọng có thể tái hiện tương đối nội dung mà khóa luận đặt ra. 3 3. Đối tƣợng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là: “Liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)”. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Khoá luận tập trung làm rõ các vấn đề: - Cơ sở hình thành liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam. - Liên minh chiến đấu Lào – Việt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954). 3.3. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận tập trung tìm hiểu liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam trong giai đoạn 1945 – 1954. 4. Cơ sở tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở tƣ liệu Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi có tham khảo các cuốn sách: Hồ chí Minh toàn tập, Văn kiện Đảng, bài viết của các nhà lãnh đạo cách mạng, các cơ quan chuyên môn, cùng các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố.. 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành khóa luận, tôi kết hợp sử dụng nhiều phương pháp: logic, lịch sử, so sánh đối chiếu, phân tích, tổng hợp các vấn đề theo mối quan hệ biện chứng với nhau. 5. Đóng góp của khóa luận Khóa luận hoàn thành sẽ có ý nghĩa quFan trọng sau đây: - Khái quát hóa được tiến trình phát triển của liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954). - Giúp cho những người quan tâm đến quan hệ hữu nghị, truyền thống đặc biệt Lào – Việt Nam hiểu sâu sắc hơn về liên minh quân sự này. - Là nguồn tư liệu giúp các nhà giáo, sinh viên và học sinh tham khảo để giảng dạy và học tập tốt hơn môn lịch sử. 4 6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận gồm 2 chương: Chương 1: Cơ sở hình thành Liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam. Chương 2: Liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954). 5 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU LÀO – VIỆT NAM 1.1. Khái quát về Lào và Việt Nam 1.1.1. Khái quát về Lào Lào là quốc gia có lịch sử tồn tại và phát triển khá lâu đời, nằm ở Đông Nam Á, khu vực được coi là cái nôi nông nghiệp đầu tiên và cũng là cội nguồn của văn minh nhân loại. Nền văn hóa Lào có quan hệ chặt chẽ với văn hóa của nhiều dân tộc và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ, văn hóa Trung Quốc. Địa lý Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không giáp biển. Ngày nay, diện tích của Lào khoảng 236 800 km2 , phía Bắc giáp Trung Quốc với 416 km đường biên giới, phía Tây Bắc giáp Mianma với 230 km đường biên giới, tiếp theo đó phía Tây Nam giáp Thái Lan: 1730 km, phía Nam giáp Campuchia: 492 km và phía Đông giáp Việt Nam: 2067 km đường biên giới. Địa hình nước Lào đa dạng, được chia làm 3 khu vực: núi đồi, cao nguyên và đồng bằng. Núi đồi và cao nguyên chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ. Từ sông Nậm Kạ Đinh trở lên phía Bắc là khu vực Thượng Lào, nơi tập trung nhiều dãy núi trùng điệp, có đỉnh cao nhất là Phu Bia cao 2 817 m. Vùng biên giới phía Bắc nước Lào có hai dãy núi lớn chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam và Đông Bắc – Tây Nam rồi hạ thấp dần xuống, hình thành một chuỗi các cao nguyên: Hủa Phăn, Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng, Khăm Muộn, Xavanakhet, Bôlôven. Từ sông Nậm Kạ Đinh trở xuống phía Nam là miền Trung và Hạ Lào, địa hình thoải dần về phía Tây. Đồng bằng ở Lào có diện tích nhỏ bé nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của các dân tộc ở Lào. Dọc sông Mê Kông có một chuỗi đồng bằng châu thổ nhỏ hẹp: - Phía Bắc Viêng Chăn có các đồng bằng: Mường Xỉnh, Huội Sai, Pạc Thà, Pạc Bèng, Pạc Lai, Xaynhabali, Nặm Khàn… 6 - Phía Nam Viêng Chăn có đồng bằng Viêng Chăn, đồng bằng Nam Lào. Đây là vùng dân cư tập trung đông đúc, sản xuất nông nghiệp phát triển. Hầu hết các trung tâm kinh tế, văn hóa của Lào đều nằm ở khu vực địa hình này. Lào là quốc gia có khí hậu nhiệt đới tiêu biểu nóng và ẩm, mỗi năm có hai mùa mưa, khô rõ rệt. Từ tháng 4 đến tháng 10 là mùa mưa với đặc trưng là nóng ẩm và mưa nhiều, có gió mùa Tây Nam hoạt động. Mùa khô ít mưa và lạnh, kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, có gió mùa Đông Bắc hoạt động. Hệ thống sông ngòi ở Lào dày đặc, hầu hết đổ về sông Mê Kông. Phần sông Mê Kông chảy qua nước Lào dài khoảng 1 800 km, đây là con sông dài, rộng nhất nước. Sông Mê Kông cùng phụ lưu, chi lưu của nó trở thành hệ thống giao thông đường thủy quan trọng nối liền Bắc – Nam, Đông – Tây của đất nước Lào. Hệ thống sông ngòi ở Lào có vị trí quan trọng trong đời sống nhân dân các dân tộc Lào như trong sản xuất nông nghiệp, giao lưu giữa các vùng khi đường bộ chưa phát triển, nguồn cung cấp cá, tôm tươi sống trong bữa ăn hàng ngày của người dân. Tài nguyên thiên nhiên của Lào phong phú và đa dạng với nhiều loại khoáng sản kim loại, rừng tự nhiên, đất đai màu mỡ. Tuy nhiên do hạn chế về mặt địa hình, sự chia cắt bởi các dãy núi, đặc biệt là vị trí địa lý không giáp biển nên việc mở rộng giao lưu buôn bán của người dân không được thuận lợi. Dân cư Khoảng thiên niên kỉ I TCN, người Thái di cư từ Trung Quốc xuống phía nam, họ sinh sống ở nhiều nơi trong đó có phần đất thuộc lãnh thổ nước Lào và được người Hán gọi là Ai Lao. Dân tộc Lào có nguồn gốc là người Thái, người Thái đã đồng hóa hoặc đẩy lui những người Môn – Khơme Nam Á, thành lập nên các tiểu vương quốc của họ. Người Lào coi đây là thời điểm bắt đầu lịch sử quốc gia của họ. Lào có 68 bộ tộc chia làm 3 nhóm với các tên gọi: Lào lùm (các tộc người Lào cư trú ở các vùng thấp), Lào thơng (các tộc người Lào cư trú ở các vùng trên), Lào xủng (các tộc người Lào cư trú ở các vùng rẻo cao). 7 Nhóm Lào lùm bao gồm các tộc sinh sống ở các vùng thấp thuộc ngữ hệ Lào – Thay. Dân số trên 2 triệu người, chiếm khoảng 60% dân số, gồm các dân tộc: Lào, Thay, Phuôn, Lự, Phu Lay, Duôn, trong đó có người Lào đông nhất, khoảng 1,8 triệu người. Hầu hết các dân tộc thuộc nhóm Lào lùm đều lập bản mường ở vùng đồng bằng dọc sông Mê Kông hoặc ở các thung lũng, những vùng trũng trên cao nguyên. Người Lào lùm sinh sống bằng nghề nông, làm ruộng nước. Ngoài ruộng rẫy, mỗi hộ nông dân Lào lùm còn có mảnh vườn rộng lớn chuyên trồng các loại rau, cây ăn quả. Nghề thủ công trong vùng người Lào lùm cũng khá phát triển như: dệt vải, đan lát, đồ gốm, nấu đường, làm muối… Nhóm Lào xủng chiếm đa số và giữ vai trò chủ yếu về chính trị, kinh tế, văn hóa trong quá trình dựng nước và giữ nước ở Lào. Nhóm Lào thơng thuộc ngữ hệ Môn – Khơme, gồm trên 20 tộc sinh sống trên những vùng sườn đồi, núi, cao nguyên. Dân số khoảng 1 triệu người, chiếm 15% dân số, trong đó dân tộc Khơ mú đông nhất trên 300 nghìn người. Các dân tộc thuộc nhóm Lào thơng cư trú rải rác trên địa bàn rộng lớn suốt từ Bắc xuống Nam tại các triền núi, cao nguyên dọc theo các con sông, suối nhỏ. Người Lào thơng cũng ở nhà sàn, cột gỗ thưng phên tre nứa hoặc gỗ nhưng thấp hơn nhà sàn người Lào lùm. Làm nương rẫy là nguồn sống chủ yếu của người Lào thơng. Một số vùng của dân tộc Khơ mú, Puộc, Phoọng ở Bắc Lào; Xồ, Xẹc ở Trung Lào; La Ven, Suồi ở Nam Lào làm thêm ruộng hoặc chuyển sang làm ruộng là chủ yếu. Trừ một số tộc xuống làm ruộng, học được nghề dệt vải với người Lào lùm còn đại bộ phận người Lào thơng chưa biết dệt vải hoặc dệt còn thô sơ. Người Lào thơng thường trao đổi với người Lào lùm vải mặc và một số hàng thiết yếu khác như muối, mắm, đường. Vật phẩm để trao đổi, chủ yếu là lâm thổ sản, bởi vậy việc khai thác lâm thổ sản có vị trí quan trọng đối với người Lào thơng. Xã hội Lào thơng còn tồn tại nhiều tàn tích của thời bộ lạc thị tộc, trình độ sản xuất phát triển còn chậm. Nhóm Lào xủng gồm những tộc cư trú trên những rẻo cao, đỉnh núi, thuộc ngữ hệ Mèo – Dao, Tạng – Miến, dân số khoảng 400 nghìn người, chiếm khoảng 10% dân số, gồm có các tộc: H’mông, Dao, Lô Lô, Hà Nhì, trong đó tộc 8 H’mông đông nhất với gần 250 nghìn người. Tuy đã cư trú trên địa bàn Lào hàng thế kỷ nhưng theo lịch sử Lào thì nhóm Lào xủng xuất hiện sau nhóm Lào lùm, Lào thơng. Người Lào xủng thường sống trên những ngọn núi cao từ 1000m trở lên, nơi khí hậu mát mẻ về mùa hè, giá rét về mùa đông. Họ sống tập trung ở các dãy núi phía Bắc Lào. Người Lào xủng sinh sống bằng nương rẫy, trồng ngô, lúa; chăn nuôi chủ yếu là nuôi lợn, bò, dê, ngựa. Về tiểu thủ công, người Lào xủng có nghề dệt còn thô sơ chỉ tự túc được một phần, phải dựa vào việc trao đổi với nhóm người Lào lùm, nghề rèn của người Lào xủng cũng khá phát triển. Nhìn chung xã hội Lào xủng phát triển chậm. Trong lịch sử, nhân dân các dân tộc Lào luôn sinh sống hòa thuận xây dựng đất nước, đoàn kết trong đấu tranh chống kẻ thù. Lịch sử Các công cụ bằng đá được phát hiện ở Hủa Phăn và Luông Pha Băng chứng minh cho sự hiện diện của con người thời tiền sử trong lãnh thổ Lào ít nhất cách ngày nay 40 nghìn năm. Thời tiền sử ở Lào được đặc trưng bởi sự tiếp xúc với nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Tuy nhiên trước thế kỉ XIV, lịch sử nước Lào chưa được ghi chép rõ ràng. Đến năm 1353, vua Pha Ngừm thống nhất các tiểu vương quốc (Hủa Phăn, Viêng Chăn, Chăm Pa Sắc…) thành lập vương quốc Lan Xang, đóng đô ở Luông Pha Băng, lịch sử thành văn chính chức được công nhận ở Lào. Vua Pha Ngừm đã thiết lập chế độ phong kiến tập quyền và đây chính là thời kì phát triển rực rỡ nhất của lịch sử phong kiến Lào. Vương quốc Lan xang được mở rộng bởi người kế vị vua Pha Ngừm, đáng chú ý là thời vua Xệt-tha-thi-lát, ông đã rời đô từ Luông Pha Băng về Viêng Chăn. Nửa sau thế kỉ XVI, vương quốc Lan Xang bị Miến Điện xâm lược ba lần. Nhân dân Lào kiên cường nổi dậy khởi nghĩa chống ách thống trị của Miến Điện và giành độc lập vào năm 1581. Sau đó dưới thời vua Xu-li-nha-vông-xả (1637 – 1694), Lan Xang được khôi phục về mọi mặt, đây cũng là thời kì vàng son của nước Lào. Sau khi vua Xu-li-nha-vông-xả qua đời, các thế lực phong kiến nổi lên tranh giành quyền lực. Năm 1713, Lan Xang bị chia thành ba vương quốc là Luông Pha Băng, Viêng Chăn và Chăm Pa Sắc. Tất cả các cuộc chiến tranh và 9 nổi dậy trong nước làm suy yếu vương quốc, tạo cơ hội cho kẻ xâm lược nước ngoài mới xâm nhập. Năm 1778, Xiêm (Thái Lan) đưa quân sang đánh Lào, ngay sau đó Lào bị phong kiến Xiêm đô hộ. Nhân dân Lào dưới sự lãnh đạo của vua A Nụ đã vùng lên chống ách đô hộ của phong kiến Xiêm. Hiệp ước Pháp – Xiêm đã giúp cho Pháp chiếm đóng và cai trị phần lãnh thổ phía Đông Lào từ năm 1893 đến năm 1945. Lào được sáp nhập vào Liên bang Đông Dương năm 1983. Trong thời kì thuộc Pháp, ở Lào đã nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới sự lãnh đạo của Khi-vo-lả-lạt (1900-1901), Phò-càđuộc (1901 – 1903), Chậu-phạ-pat-chay (1918 – 1922), Ông Kẹo và Ông Comma-đam (1901 – 1937)… nhưng đều bị đàn áp. Với bản hiệp ước Pháp - Xiêm, Lào còn bị mất vùng I Xản (Đông Bắc Thái Lan hiện nay) vào tay Xiêm. Trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945), Nhật thay chân Pháp cai trị ở Đông Dương. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, ngày 12 tháng 10 năm 1945, Lào tuyên bố độc lập. Lịch sử Lào từ khi dựng nước đến khi giành độc lập trải qua nhiều thay đổi nhưng với sức mạnh đoàn kết toàn dân thì đất nước Lào vẫn tồn tại và phát triển vững chắc. Đây là điều kiện tiền đề để nhân dân Lào tiếp tục chiến đấu chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ những năm tiếp theo của thế kỉ XX. Văn hóa Nước Lào còn gọi là Lan Xang, “Lan” nghĩa là triệu, “Xang” là voi. Lan Xang có nghĩa là Triệu Voi, vì vậy Lào được mệnh danh là đất nước Triệu Voi. Nằm ở nơi giao thoa của hai nền văn minh vĩ đại và hùng mạnh nhất châu Á là Ấn Độ và Trung Hoa, người dân Lào đã tiếp thụ có chọn lọc những tinh hoa văn hóa, những phong tục, tập quán và tín ngưỡng của hai nền văn minh đó để hình thành nên một nền văn hóa hết sức độc đáo và đặc sắc của riêng mình. Nền văn hóa Lào là nền văn hóa Phật giáo. Đạo Phật đã ăn sâu vào tư tưởng của người Lào, sự ảnh hưởng này được phản ánh trong ngôn ngữ, văn học và nghệ thuật biểu diễn của Lào. Với dân số khoảng 6,6 triệu người (2012) nhưng có tới 1 400 ngôi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa so với dân số cao nhất thế giới. Chùa chiền, đền 10 tháp là “chất keo cộng đồng” gắn kết các dân tộc Lào lại với nhau. Chùa chiền với những mái ngói uốn cong còn là biểu hiện sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và thẩm mỹ của người Lào. Lễ hội gắn với chùa chiền, chùa chiền gắn liền với làng bản, làng bản lại là nơi để mọi người gặp gỡ, vui chơi, múa hát, góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Lào trường tồn. Lào là đất nước bốn mùa lễ hội. Cũng như các nước trong khu vực Đông Nam Á. Lễ hội ở Lào được gọi là Bun, nghĩa đúng của Bun là phước. Làm Bun nghĩa là làm phước để được phước. Lào có tết cổ truyền Bun Pi May (có nghĩa là mừng năm mới), hay còn gọi là Tết Té nước diễn ra vào tháng 4 hàng năm. Ngoài ra còn có Tết Dương Lịch, Tết Nguyên Đán, các lễ hội: Bunbangphay (Phật hóa thân), Bun Visakha Puya (Phật Đản), Bun Khao Padapdin (tưởng nhớ người đã mất)... Người Lào gọi tết là vui tết chứ không gọi là ăn tết, tất cả các cuộc vui được chuẩn bị theo truyền thống tôn giáo, phù hợp với phong tục tập quán của người Lào. Trong những ngày lễ hội, vui chơi là chủ yếu, tuy nhiên họ cũng chuẩn bị đồ ăn, thức uống thịnh soạn hơn ngày thường, đặc biệt là không thể thiếu rượu. Trong những ngày này, mọi người thăm viếng chúc tụng lẫn nhau, ăn uống, vui chơi. Với người Lào, những phong tục trong lễ hội Bun Pi May mang ý nghĩa đem lại sự phồn vinh cho vạn vật, ấm no, hạnh phúc cho cuộc sống, là dịp để nuôi dưỡng và hun đúc nghệ thuật dân tộc. Chăm pa là một loài hoa biểu tượng của đất nước và con người Lào. Mang đậm một bản sắc riêng biệt, hoa chăm pa với hương sắc ngào ngạt của mình phản ánh rõ tính cách, tâm hồn của dân tộc Lào, những con người có một vẻ đẹp giản dị, chan hoà và chất phác. Người dân Lào thường trồng hoa chăm pa để tô điểm cho vẻ đẹp thanh bình êm ả của đất nước và làm sống động hơn trong không khí hội hè. Văn hoá Lào như một dòng chảy ngọt ngào truyền từ đời này qua đời khác, hun đúc nên tâm hồn, cốt cách và văn hoá của người Lào. Qua thời gian, nó được kết tinh ở những phong tục đẹp đẽ như Tết Té nước để giải trừ mọi lo âu phiền 11 muộn, buộc chỉ cổ tay chúc phúc người thân và chúc phúc khách quý, bạn bè... đó là mỹ tục độc đáo và hiếm có. Đất nước, con người và nền văn hoá Lào mang trong mình nguồn sức mạnh vô biên, ẩn chứa biết bao điều kỳ diệu. Đó chính là tiềm năng và là nguồn nội lực to lớn để nhân dân các dân tộc Lào đoàn kết trong xây dựng và bảo vệ đất nước. 1.1.2. Khái quát về Việt Nam Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực châu Á, có lịch sử xây dựng và phát triển lâu đời. Việt Nam – vùng đất mang đậm dấu ấn văn hóa Đông phương với nền tảng tam giáo đồng nguyên tồn tại hàng ngàn năm phong kiến. Vì vậy, đất nước và con người Việt Nam luôn bộc lộ khí chất kiên cường, một bản lĩnh anh hùng cách mạng từ buổi đầu dựng nước cho đến ngày nay. Địa lý Lãnh thổ Việt Nam có dạng hình chữ S, chạy dọc bờ biển phía đông của bán đảo Đông Dương. Diện tích tự nhiên là 331 212 km2, phía Bắc giáp Trung Quốc với 1 281 km đường biên giới, phía Tây giáp Lào và phía Tây Nam giáp Campuchia với đường biên giới lần lượt là 2 130 km và 1 228 km. Phía Đông và Nam Việt Nam giáp biển Đông có 3 260 km đường bờ biển. Vị trí địa lý của Việt Nam có nhiều điều kiện để giao lưu với các quốc gia trên thế giới. Địa hình Việt Nam rất đa dạng, bao gồm ba dạng chính: đồi núi, cao nguyên và đồng bằng. Đồi núi và cao nguyên chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ, núi tập trung thành 4 vùng: Tây Bắc, Đông Bắc, Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam. Điểm cao nhất Việt Nam là đỉnh Phan-xi-păng cao 3 143 mét, thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn. Cao nguyên và đồi trung du nằm ở nơi chuyển tiếp giữa miền núi với đồng bằng, có các cao nguyên lớn như: Mộc Châu, Kom Tum, Mơ Nông, Lâm Viên… Các vùng đồng bằng như đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng duyên hải miền Trung là nơi tập trung đông dân cư và hoạt động sản xuất phát triển nhất, hình thành các vựa lúa lớn. 12 Khí hậu Việt Nam mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa. Tuy nhiên giữa hai miền Nam Bắc lại có sự phân hóa: tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa ở miền Nam với hai mùa (mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến giữa tháng 9 và mùa khô từ giữa tháng 10 đến tháng 4 năm sau), tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa có mùa đông lạnh ở miền Bắc với bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông rõ rệt. Do nằm dọc theo bờ biển, khí hậu Việt Nam được điều hòa một phần bởi các dòng biển và mang nhiều yếu tố khí hậu biển. Sông ngòi ở Việt Nam dày đặc với các hệ thống sông lớn như: sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Cửu Long, sông Đồng Nai… Phần lớn các con sông đều chảy từ miền núi xuống đồng bằng nên có nhiều tiềm năng về thủy điện ở miền núi và có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp ở các đồng bằng. Sông Đà, sông Xê Xan, sông Đồng Nai… là những con sông có giá trị thủy điện lớn ở Việt Nam. Hai hệ thống sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long đã bồi bắp và hình thành nên hai đồng bằng châu thổ lớn nhất cả nước. Việt Nam sở hữu nguồn tài nguyên phong phú, đặc biệt là rất giàu có về khoáng sản, đất trồng, nguồn nước mặt nên có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế. Các vùng đồng bằng và ven biển có nhiều điều kiện để giao lưu buôn bán với bên ngoài. Dân cư Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó người Kinh (Việt) chiếm gần 86%, còn các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14% tổng số dân của cả nước. Người Kinh tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng và ven biển. Người Kinh cho rằng họ là con cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ, nòi giống con rồng cháu tiên. Ngôn ngữ của người Kinh là tiếng Việt thuộc ngữ hệ Việt – Mường. Người Kinh sinh sống trong các đơn vị cơ sở là làng, xã. Làng, xã là tổ chức cộng đồng có chức năng cố kết người dân sinh sống trong cùng một địa vực lại với nhau, nơi kết nối mọi thành viên trong gia đình với một xã hội thu nhỏ. Người Việt có nghề trồng lúa nước cổ truyền, đánh bắt tôm cá và chăn nuôi gia súc rất phát triển. Hoạt động sản xuất nông nghiệp gắn bó với các con sông là nguồn cung cấp nước tươi và bồi bắp phù sa làm đất đai màu mỡ. Bên cạch nông nghiệp, người Kinh từ xa 13 xưa đã biết làm nhiều mặt hàng thủ công như: đồ gốm, dệt lụa, rèn sắt… Người Việt có vai trò chủ yếu về chính trị, kinh tế, văn hóa ở Việt Nam. Những dân tộc thiểu số phần lớn đều sinh sống ở các vùng miền núi và cao nguyên. Có một số dân tộc thiểu số đã định cư trên lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu đời như dân tộc: Thái, Mường, Dao, Chăm, Khơ me… nhưng cũng có các dân tộc chỉ mới di cư vào Việt Nam trong vài trăm năm trở lại đây như người Hoa ở miền Nam. Với đặc thù sinh sống trên các vùng đất cao nên hoạt động sản xuất nông ngiệp chủ yếu của các dân tộc thiểu số là làm nương rẫy, chăn thả gia súc, dệt thổ cẩm… Tổ chức cộng đồng của họ là bản, mường, buôn… mỗi thành viên đều sinh sống hòa thuận, đoàn kết. Các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam luôn đoàn kết, giúp đỡ nhau trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn hòa thuận để phát triển kinh tế – xã hội. Lịch sử Người dân Việt Nam luôn tự hào về bốn ngàn năm lịch sử của mình, theo truyền thuyết về thời Hồng Bàng, thế kỷ VII TCN, người Lạc Việt đã lập nên nhà nước Văn Lang tại khu vực mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam, và kế tiếp là nhà nước Âu Lạc vào giữa thế kỷ III TCN. Bắt đầu từ thế kỷ II TCN, người Việt bị các triều đại phong kiến Trung Quốc cai trị trong hơn 1000 năm. Nhiều cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Lý Bí, Bà Triệu, Mai Thúc Loan... đã nổ ra nhưng phải đến năm 938, Việt Nam mới chính thức giành được độc lập lâu dài, khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Sau khi giành được độc lập, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV dân tộc Việt Nam đã xây dựng đất nước, tổ chức chính quyền theo thể chế quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, chính quyền chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Trong suốt thời kỳ phong kiến, Việt Nam nhiều lần phải chống lại sự xâm lược của các triều đại phương Bắc và cũng có những lần xâm chiếm mở rộng lãnh thổ xuống phía nam. Đến giữa thế kỷ XIX, cùng với các nước ở Đông Dương, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, phát xít Nhật chiếm Việt Nam và toàn thể Đông Dương, ngay sau khi hay tin đế quốc Nhật đầu hàng quân 14 Đồng Minh, Việt Minh đã giành lại chính quyền từ tay Nhật. Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Với truyền thống yêu nước và tinh thần dân tộc sâu sắc, trải qua hàng ngàn năm lịch sử, Việt nam vẫn trường tồn và phát triển mạnh mẽ. Đó là gốc rễ để Việt Nam làm nên những chiến thắng lừng lẫy trong thế kỉ XX chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Văn hóa Việt Nam có nền văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa tộc người. Cộng đồng 54 dân tộc anh em sinh sống trên đất nước Việt Nam có những phong tục tập quán tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội mang nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng như: hội mùa, lễ cúng cơm mới, hội đua thuyền… Văn hóa Việt Nam là sự tổng hòa của những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của các tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp, truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn học, nghệ thuật. Điều đó được thể hiện trong nếp sống của mỗi con người, nếp nhà của mỗi gia đình Việt. Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam. Từ cái nôi văn hóa Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng với nền văn hóa làng xã và văn minh lúa nước của người Việt, đến những sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi tại Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên... Từ những ảnh hưởng từ lâu đời của văn hóa Trung Hoa và văn hóa khu vực Đông Nam Á đến những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây trong các thế kỷ XIX, XX, văn hóa Việt Nam đã có những thay đổi theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Đặc biệt, trong thời kì kháng chiến chống ngoại xâm thế kỉ XX, văn hóa trở thành mặt trận xung kích, những cán bộ văn hóa thông tin là chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng, khẩu hiệu “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến” đã thúc dục ý chí quyết chiến, quyết thắng toàn dân. 15 1.2. Cơ sở hình thành liên minh chiến đấu Lào – Việt Nam Từ bao đời nay, Lào và Việt Nam là hai nước láng giềng cùng nằm trên bán đảo Đông Dương, Việt Nam nằm ở phía đông, Lào nằm ở phía tây của bán đảo. Hai nước cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, có chung đường biên giới dài gần 2 100 km và cùng chung dòng sông Mê Kông là điểm tựa gắn bó nhau về mặt địa lý. Xuất phát từ vị trí địa – chiến lược của hai nước, từ bản chất nhân văn, nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc có chung nguyện vọng về hòa bình nên Lào và Việt Nam đã hình thành một liên minh quân sự mang tính chất tự nhiên và bền vững trong suốt nhưng năm tháng kháng chiến chống thực dân, đế quốc phương Tây. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi Có vị trí địa – chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á là do Lào và Việt Nam nằm trên ngã tư đường giao thương hàng không, hàng hải quốc tế, nối liền Đông Bắc Á, Nam Á qua Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nơi có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú, một điểm nóng của sự tranh giành lợi ích và ảnh hưởng giữa các cường quốc trên thế giới. Sông Mê Kông là nguồn sống chính của nhân dân Lào, cung cấp nước, phù sa và dưỡng chất cho sản xuất nông nghiệp, đồng thời tạo nên vựa lúa lớn nhất của Việt Nam. Dãy Trường Sơn trở thành đường biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Lào, là bức tường thành hiểm yếu, tạo điều kiện cho hai nước tựa lưng vào nhau, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước. Do đó, vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của hai nước Lào, Việt Nam trở thành cơ sở đầu tiên cho sự hình thành liên minh chiến đấu Lào – Việt trong chiến tranh một cách thuận lợi. Đặc sắc trong truyền thống văn hóa và cộng đồng dân cư Là những quốc gia đa dân tộc, Lào và Việt Nam có nhiều nét tương đồng về văn hóa. Quá trình cộng cư hoặc sinh sống xen cài của những cư dân Lào và cư dân Việt Nam dọc tuyến biên giới của hai nước đã phản ánh sinh động, liên tục mối quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc từ xa xưa của nhân dân hai nước. Cả hai dân tộc đều có những nét chung thống nhất về nền văn hóa Đông Nam Á, đó là lấy sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước làm phương thức sản xuất chính. Cho 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan