Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật ...

Tài liệu Luận văn bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

.PDF
83
127
120

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ LAN BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ LAN BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứ Luận văn thạc sĩ đề tài “ Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp Luật đất đai từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh ” là của riêng tôi. Các thông tin, số liệu, trích dẫn được sử dụng trong Luận văn hoàn toàn chính xác, trung thực. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 2019 Tác giả luận văn Hoàng Thị Lan LỜI CẢM ƠN Tác giả xin trân trọng gửi lời cảm ơn vô cùng sâu sắc tới PGS.TS. Trần Đình Hảo là người hướng dẫn khoa học cho tác giả. Trong quá trình hướng dẫn, PGS.TS. Trần Đình Hảo bằng tinh thần, trách nhiệm, sự nhiệt tình đã hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn thạc sĩ. Đồng thời, tác giả cũng xin gửi lời chân thành cảm ơn đến Ban Giám hiệu, các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ và các giảng viên Học viện khoa học xã hội đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức trong quá trình tác giả theo học tại Học viện. Cảm ơn toàn thể cán bộ, nhân viên Học viện khoa học xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong thời gian học tập và nghiên cứu nhằm hoàn thành chương trình Cao học. Sau cùng, tác giả xin được cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng bảo vệ và kính mong nhận được sự quan tâm, nhận xét của các Thầy, Cô để tác giả có điều kiện hoàn thiện tốt hơn những nội dung của luận văn nhằm đạt được tính hiệu quả, hữu ích khi áp dụng vào trong thực tiễn. Xin trân trọng cảm ơn! Tác giả Hoàng Thị Lan MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP... 8 1.1.Lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ... 8 1.2 Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp........................................................................................................... 20 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 24 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH..25 QUẢNG NINH ...........................................................................................................25 2.1. Thực trạng quy định pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. ..................................................................... 25 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh. ................................... 38 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 59 Chương 3. GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH QUẢNG NINH ...........61 3.1.Những yêu cầu, đòi hỏi khách quan của của việc tiếp tục hoàn thiện pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. .................................................................................. 61 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh gồm: ............. 63 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh.............................................................................................................. 66 Tiểu kết chương 3 ...................... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định. KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................75 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT GCN: Giấy chứng nhận GPMB: Giải phóng mặt bằng NĐ: Nghị định QĐ: Quyết định UBND: Ủy ban nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đang là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh và thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư. Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư là tiến độ bàn giao mặt bằng cho dự án. Điều này liên quan trực tiếp đến các quy định về thu hồi đất, để nhanh chóng bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư thì vấn đề giải quyết quyền lợi của người bị thu hồi đất đó là việc bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản gắn liền trên đất và các quyền lợi liên quan đến việc thu hồi đất cần phải được đảm bảo. Tuy nhiên, từ trước đến nay việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất luôn là vấn đề phức tạp, nó không chỉ dừng lại ở việc Nhà nước được quyền thu hồi thì Nhà nước được quyền áp đặt mọi chính sách để giải quyết hậu quả sau thu hồi đất mà đòi hỏi những chính sách giải quyết này phải đảm bảo được quyền lợi chính đáng cho người bị thu hồi. Việc bồi thường, hỗ trợ không phải trong mọi trường hợp đều giống nhau, bồi thường, hỗ trợ đối với đất ở, đất phi nông nghiệp sẽ khác với bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp. Xét về phương diện nhà đầu tư, ở đây nhà đầu tư có thể là chính Nhà nước , có thể là nhà đầu tư tư nhân ( tư nhân trong trường hợp này được hiểu là nhà đầu tư không phải là Nhà nước ), để đầu tư một lĩnh vực nào thì nhà đầu tư phải xem xét kỹ lưỡng đến các yếu tố: chi phí đầu tư, nhu cầu của thị trường, vị trí địa lý, thủ tục pháp lý, chính sách thu hút đầu tư, mức độ cạnh tranh, nguồn lao động, nguồn nguyên liệu. Trên thực tế, chi phí đầu tư đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định đầu tư của các nhà đầu tư. Tại Quảng Ninh, phần lớn các dự án đầu tư được thực hiện ở những địa phương có tỷ lệ đất nông nghiệp cao, bởi đất khi đầu tư vào những khu vực đất nông nghiệp mang lại lợi ích vô cùng lớn cho nhà đầu tư như: Giá thành bồi thường, hỗ trợ thấp, giảm chi phí san lấp mặt bằng, công tác thu hồi đất và GPMB cũng 1 thuận lợi hơn so với thu hồi đất ở. Mặc dù dựa trên quy của đã có định chung của pháp luật, tỉnh Quảng Ninh cũng đã có những chính sách mới phù hợp hơn trong việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nhưng dường như những quy định này vẫn chưa đáp ứng hết các yêu cầu thực tiễn. Hiện nay, tại những địa phương có dự án được triển khai đều xuất hiện đơn nhiều đơn thư khiếu kiện, tố cáo của người bị thu hồi đất, của người bị ảnh hưởng do việc thu hồi đất. Nhiều nơi như tại Vân Đồn, thị xã Quảng Yên còn trở thành điểm nóng của khiếu kiện về đất đai do có nhiều dự án đầu tư tập trung ảnh hưởng không nhỏ tới ổn định chính trị, kinh tế xã hội của địa phương cũng như tỉnh Quảng Ninh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình khiếu kiện về đất đai của địa phương ngày càng trở nên phức tạp do giá đất thị trường ngày càng tăng trong khi đó giá đất áp dụng bồi thường, hỗ trợ không được áp theo đúng mức giá thị trường, đặc biệt đối với đất nông nghiệp không được xem xét định giá, hay tăng giá bồi thường, hỗ trợ, việc áp dụng chính sách tái định cư không được thống nhất, không xem xét hỗ trợ tái định cư khi thu hồi vào đất nông nghiệp cho người bị thu hồi đất. Ngoài ra còn rất nhiều vấn đề liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp như thu hồi đất không đúng thẩm quyền, xác định trường hợp thu hồi đất không đúng,…dẫn đến khiếu kiện kéo dài, vượt cấp, điều này đang trở thành thách thức cho các cơ quan Nhà nước. Do vậy, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp Luật đất đai từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là vô cùng cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vì vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đã và đang trở thành vấn đề cấp thiết mang tính thời sự và thường xuyên được các phương tiện truyền thông đăng tải cũng như có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình bồi 2 thường, hỗ trợ và ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý người bị thu hồi đất. Vì thế, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề từ có liên quan như thu hồi đất nông nghiệp, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi vì mục đích phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng…Cho đến các vấn đề trực diện của đề tài là bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tiêu biểu như các công trình: Nguyễn Minh Tuấn, “Thu hồi đất vì mục đích kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ (năm 2013); Phạm Thu Thùy " Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam" Luận án Tiến sĩ (năm 2014); Đào Danh Dũng, “ Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo pháp Luật đất đai từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ (năm 2018), Trần Nhật Quân, “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, Luận văn thạc sĩ (2018),… Mặc dù cùng các quy định pháp luật điều chỉnh, nhưng ở mỗi luận văn sẽ gắn với thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật ở từng địa phương. Do đặc điểm về kinh tế, xã hội… nên ở tỉnh Quảng Ninh cũng sẽ có mức giá bồi thường và các biện pháp hỗ trợ khác nhau cho từng đối tượng được bồi thường hỗ trợ. Trong quá trình bồi thường, hỗ trợ về đất nông nghiệp cũng phát sinh nhiều vướng mắc như về đơn giá bồi thường, điều kiện, đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, các khoản hỗ trợ khác cần bổ sung. Do vậy, trong luận văn này, ngoài việc nghiên cứu về các vấn đề truyền thống như cơ sở pháp lý về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tác giả còn cho thấy thực trạng áp dụng pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh như các vấn đề: Xác định đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, thái độ và trình độ chuyên môn của các cơ quan liên quan trong việc thực hiện, giải quyết các vấn đề trong bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp, lý do xuất hiện các dự án treo, nguyên nhân dẫn đến 3 những bất bình trong nhân dân về việc bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp, quy trình bồi thường, hỗ trợ còn chưa được nghiêm chỉnh chấp hành, chưa đảm bảo được tính công khai, minh bạch, từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện và nâng cao công tác thực hiện các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi . 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu: Nhằm phản ánh thực trạng quy định pháp luật và áp dụng các quy định định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp Luật đất đai từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Từ đó tác giả đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: - Phân tích để làm rõ các cơ sở lý luận về các khái niệm, ý nghĩa, vai trò của bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; - Phân tích để làm rõ cơ sở pháp lý về bồi bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh từ đó, chỉ ra những yếu kém, khó khăn, bất cập. - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: 4 Các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực trạng áp dụng những quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. 4.1.2. Phạm vi nghiên cứu: Các quy định pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo luật Luật đất đai 2013 từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận Luận văn dựa vào phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên những quan điểm, định hướng của Đảng về xây dựng Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới; 5.2 Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích: Dựa trên các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để phân tích nội dung điều luật, phân tích các dữ liệu định lượng. Căn cứ vào thực trạng thực hiện các dự án có thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh để phân tích, làm rõ quá trình thực hiện pháp luật của tỉnh. Phương pháp đánh giá: Sau khi phân tích các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh từ đó tác giả đưa ra quan điểm đánh giá những ưu điểm và những hạn chế của các quy định của pháp luật. Phương pháp diễn dịch: Dựa trên những quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, tác giả diễn giải những nội dung, trường hợp áp dụng mà luật quy định để áp dụng, từ đó thấy được những những bất cập khi áp dụng quy định trên thực tế như trường hợp pháp luật còn chưa điều chỉnh hay điều chỉnh chưa phù hợp. 5 Phương pháp quy nạp: Từ những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, tác giả đánh giá, phân tích những yếu tố này để nêu ra những điểm được và chưa được, những khía cạnh còn thiếu của quy định pháp luật từ đó đưa ra những quy định tích cực cần tiếp tục được áp dụng, những giải pháp, phương hướng để hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Phương pháp so sánh: Để đánh giá được sự tiến bộ của pháp luật cũng như sự phù hợp của pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, cần sử dụng phương pháp so sánh quy định pháp luật qua các thời kỳ, mặt khác cũng cần so sánh các khái niệm hay nhầm lần như bồi thường với đền bù, bồi hoàn, thu hồi với trưng mua, trưng dụng…thông qua đó luận văn sẽ thể hiện rõ hơn bản chất của vấn đề được đề cập tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Qua nghiên cứu, luận văn chỉ ra được những tồn tại, hạn chế trong thực trạng quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, khắc phục những hạn chế đó nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật. Từ thực tiễn áp dụng các quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh mà tiêu biểu là thị xã Quảng Yên, góp phần xây dựng luận cứ khoa học để tỉnh Quảng Ninh nhanh chóng ban hành những quy định phù hợp với đòi hỏi thực tiễn của địa phương. Từ đó, tạo cơ sở để nhà nhà lãnh đạo, đại biểu quốc hội của tỉnh nhìn nhận những vấn đề tồn đọng để góp ý kiến với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp, thiếu khách quan trong Luật đất đai năm 2013 cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. 6 7. Cơ cấu của Luận văn Để làm sáng tỏ các vấn đề nêu trên, tác giả bố cục luận văn gồm các phần sau: Mục lục; Danh mục các chữ viết tắt; Mở đầu; chương 1; chương 2; chương 3; kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo. Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Chương 2: Thực trạng pháp Luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh. Chương 3: Giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh. 7 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP 1.1.Lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thu hồi đất nông nghiệp - Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp Vấn đề thu hồi đất đã thực sự được manh nha từ lâu, nhưng nó thực sự được quan tâm từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, thời điểm đó Nhà nước đã tiến hành xoá bỏ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, thiết lập quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Theo đó, Hiến pháp năm 1959 thừa nhận ba hình thức sở hữu đất đai là sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể. Khi tiến hành thu hồi đất Nhà nước tiến hành điều chỉnh ruộng đất hoặc nhượng lại ruộng đất cho người bị trưng dụng sẽ được đền bù từ 1 đến 4 năm sản lượng thường niên của ruộng bị trưng dụng. Mặc dù thời kỳ này, vấn đề thu hồi đất chưa được quy định chi tiết nhưng đó là cơ sở để các quy định về thu hồi đất sau này được phát triển. Hiến pháp năm 1980 quy định đất đai là sở hữu toàn dân, trên cơ sở đó tại mục 3, phần v của quyết định số 201/CP ngày 01/07/1980 Hội đồng Chính phủ quy định về thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước cũng quy định về việc thu hồi đất cụ thể quy định về lý do thu hồi và việc bồi thường khi thu hồi đất. Quan hệ đất đai thời kỳ này đơn thuần chỉ là quan hệ “Giao-thu” giữa Nhà nước và người sử dụng. cho đến trước Luật đất đai năm 2003 thì các quy định về thu hồi đất vẫn tiếp tục được quy định và mở rộng nhưng không có định nghĩa cụ thể. Khi Luật đất đai năm 2003 ra đời đã chính thức đề cập đến định nghĩa thu hồi đất là gì, theo đó, khoản 5, điều 3 Luật đất đai năm 2003 quy định: Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại 8 đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này. Tại định nghĩa này mặc dù đã khái quát được những nội dung cơ bản nhất của việc thu hồi đất đó là việc Nhà nước ra quyết định hành chính, điều này thể hiện tính mệnh lệnh phục tùng đặc điểm đặc trưng của quyết định hành chính, định nghĩa cũng thể hiện được việc thu hồi đất là thu hồi lại quyền sử dụng đất hoặc thu hồi lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn… đây là điểm thể hiện hạn chế của định nghĩa bởi việc thu hồi đất đã giao ngoài các chủ thể được đề cập còn thu hồi đất đã giao của hộ gia đình, cá nhân. Vậy khi Nhà nước thu hồi đất của cá nhân, hộ gia đình thì việc thu hồi đất được xử lý như thế nào, rõ ràng đối với nội dung này, Luật đất đai năm 2003 với các văn bản hướng dẫn luật không có sự thống nhất. Nhận thấy những điểm hạn chế này, thông qua thực tiễn thực hiện và yêu cầu của nền kinh tế. Để đất nước hội nhập nhanh chóng với xu thế phát triển của thế giới, theo kịp các nước phát triển trong khu vực, bắt buộc Nhà nước phải nhanh chóng có những quyết sách phù hợp với thực tế, mà cụ thể là Nhà nước phải sửa đổi những điểm chưa phù hợp của luật và các văn bản hướng dẫn luật trong đó có Luật đất đai năm 2003. Việc sửa đổi, bổ sung những quy định liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là điều tất yếu, bởi một trong những điều kiện để nền kinh tế quốc gia phát triển đó là thu hồi các nguồn vốn đầu tư và nước ta. Mà một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư là điều kiện chính sách của Quốc gia cũng như của địa phương về thu hút đầu tư. Khi các quy định về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung cũng chính là đối với đất nông nghiệp nói riêng được quy định cụ thể, phù hợp với xu thế, cân đối được quyền lợi cũng như trách nhiệm của các bên có liên quan thì việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ 9 sẽ được tiến hành nhanh chóng, đem lại lợi ích cho các bên, góp phần ổn định an ninh xã hội và giúp kinh tế phát triển vững mạnh. Hơn nữa pháp luật quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuế đất, được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng hợp pháp, Nhà nước phải có trách nhiệm bảo hộ quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất, việc thu hồi đất trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Do vậy, để những quan điểm, chính sách về bồi thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trong các văn bản luật thay đổi phù hợp với điều kiện thực tế thì Nhà nước ta đã thực hiện việc sửa đổi đầu tiên ở đạo luật cao nhất của đất nước là Hiến pháp, cụ thể Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; Phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”1. Trên cơ sở đó, Luật đất đai năm 2013 quy định như sau: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”2. Mặc dù hiến pháp quy định Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh; Phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng điều này cũng được áp dụng đối với thu hồi đất nông nghiệp nhưng Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn luật lại bỏ cụm từ này. Trên thực tế, cũng không có văn bản pháp luật nào quy định trường hợp thật cần thiết để Nhà nước thu hồi đất là như thế nào, thế nào là thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh? Thế nào là 1 2 Khoản 3 Điều 54 Hiến pháp năm 2013. Khoản 11 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 10 thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng, điều này vô hình trung đã dẫn đến nhiều trường hợp trong thực tế doanh nghiệp lớn xin quy hoạch để phát triển kinh tế doanh nghiệp nhưng lại được núp dưới vỏ bọc dự án phát triển kinh tế vì lợi ích quốc gia và thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất, còn doanh nghiệp nhỏ hay các cá nhân, hộ gia đình khác cũng đang hoạt động kinh tế, cũng đang trực tiếp sản xuất trên diện tích đất bị thu hồi để phát triển kinh tế gia đình, từ đó góp phần ổn định kinh tế địa phương lại không được xem trọng. Ở một khía cạnh khác, mặc dù Luật đất đai năm 2013 và các văn bản liên quan không quy định nhưng tác giả nhận thấy bản chất của việc Nhà nước thu hồi đất cũng gần giống với trường hợp trưng mua bởi trưng mua là việc ép buộc người có tài sản phải bán cho Nhà nước tài sản đó trong trường hợp nhất định, cũng giống như những trường hợp thuộc Nhà nước thu hồi đất, bằng quyết định thu hồi đất, chủ sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ bàn giao đất cho Nhà nước. Ở đây xét trường hợp Nhà nước thu hồi là đúng với quy định của pháp luật còn trường hợp thu hồi bất hợp pháp tức việc thu hồi đất không thuộc các trường hợp Nhà nước thu hồi đất thì về bản chất người sử dụng đất không có trách nhiệm bàn giao đất cho Nhà nước. Tuy nhiên, giữa trưng mua và trường hợp Nhà nước thu hồi đất có điểm khác nhau cơ bản, đó là khi trưng mua thì Nhà nước chỉ phải chi trả khoản tiền, tài sản tương ứng với giá trị thực tế của quyền sử dụng đất và tài sản bị trưng mua, còn khi thu hồi đất thì Nhà nước bồi thường khoản tiền hoặc diện tích đất có giá trị tương đương với giá trị quyền sử dụng đất, tài sản bị thu hồi, ngoài ra Nhà nước còn áp dụng cách chính sách hỗ trợ khác nhau nhằm đảm bảo cuộc sống sau thu hồi cho người bị thu hồi đất. Tương tự với trường hợp trưng mua thì Nhà nước cũng có thể áp dụng việc trưng dụng quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền trên đất trong 11 trường hợp thật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai. Đối với trưng dụng, không phải mọi trường hợp Nhà nước đều phải bồi thường thiệt hại, nếu không có thiệt hại xảy ra thì Nhà nước không phải bồi thường, mà chỉ phải bồi thường khi tài sản bị hủy hoại hoặc bị thiệt hại do mất thu nhập khi Nhà nước trưng dụng đất. Vậy khi tài sản trưng dụng bị hủy hoại thì vấn đề bồi thường không được quy định chi tiết trong Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn, Nhà nước chỉ bồi thường hay còn hỗ trợ khi tài sản bị hủy hoại, liệu giá trị bồi thường, hỗ trợ có giống với trường hợp Nhà nước thu hồi đất hay không? Trong điều kiện không có chiến tranh thì thời hạn trưng dụng không được xác định cụ thể ( điều kiện bình thường là 30 ngày) mà phụ thuộc vào tình hình chiến tranh nhưng vấn đề bồi thường trong trường hợp này cũng không được đặt ra, mặc dù pháp luật bảo hộ quyền sử dụng đất cho người dân. Việc thu hồi đất cũng như thu hồi đất nông nghiệp dẫn đến hậu quả tất yếu là chấm dứt quyền sử dụng đất của người bị thu hồi đất, nhưng lại mở ra mối quan hệ mới giữa Nhà nước với người được Nhà nước giao lại đất sau thu hồi đất. Khi chấm dứt các quyền sử dụng đối với đất bị thu hồi, Nhà nước sẽ phải có những chính sách pháp lý nhằm bù đắp những thiệt hại thực tế, những ảnh hưởng cơ bản sẽ xảy ra sau thu hồi đất. Các khoản bù đắp có khoản bồi thường và hỗ trợ. Bồi thường trong trường hợp này không phải là bồi thường do bên có lỗi gây ra thiệt hại mà do Nhà nước thu hồi đất được pháp luật cho phép. Nếu pháp luật không phù hợp, không đảm bảo được quyền lợi giữa các bên, đặc biệt là quyền lợi của người bị thu hồi đất hay trong quá trình áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng mà không đảm bảo được quyền lợi chính đáng cho người bị thu hồi đất thì tất yếu sẽ phát sinh mâu thuẫn, mâu 12 thuẫn đó sẽ bộc lộ hay không được bộc lộ ra ngoài tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng đều đó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình ổn định chính trị, xã hội, sự phát triển kinh tế của địa phương bị thu hồi đất cũng như Quốc gia. - Đặc điểm của thu hồi đất nông nghiệp Thứ nhất, nhà nước thu đất nông nghiệp là thu hồi tư liệu sản xuất và đối tượng sản xuất của người bị thu hồi đất, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, đến thu nhập của người bị thu hồi đất. Thứ hai, việc thu hồi đất nông nghiệp đồng nghĩa với việc chấm dứt quyền sử dụng đất của người bị thu hồi đất, chấm dứt các quyền sử dụng đối với các tài sản gắn liền trên đất không phục hồi được như cây trồng, vật nuôi, bờ đầm, cầu cống… Thứ ba, việc thu hồi đất nông nghiệp phần lớn có nhiều thuận lợi hơn so với thu hồi các loại đất khác, do không phải tốn nhiều chi phí phá dỡ, san lấp mặt bằng. Thứ tư, thu hồi đất nông nghiệp mang lại giá trị lợi nhuận lớn cho chủ đầu tư, do giảm bớt các chi phí phụ, đặc biệt giá thành bồi thường, hỗ trợ cho đất nông nghiệp thấp hơn rất nhiều so với đất phi nông nghiệp - Ý nghĩa của thu hồi đất nông nghiệp Việc thu hồi đất nông nghiệp nhằm phục vụ các lợi ích Quốc gia như: an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế xã hội, về phương diện rộng sẽ góp phần lớn thúc đẩy kinh tế Quốc gia phát triển, là nền tảng vững chắc để đẩy mạnh kinh tế địa phương. Việc thu hồi đất nông nghiệp sẽ góp phần đưa địa phương mang một diện mạo mới về kinh tế, xã hội, tạo nguồn cảm hứng lao động, thu hút nhân lực và nhân tài về địa phương lao động, sáng tạo. Thu hồi đất nông nghiệp góp phần giảm bớt lãng phí trong sử dụng đất nông nghiệp như đối với các diện tích đất ít sử dụng, sử dụng không hiệu quả, 13 từ đó đánh thức ý thức sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp của người lao động, do diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp thì người lao động cần phải sử dụng mọi biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động, tránh lãng phí đất đai. 1.1.2. Các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp: Để đảm bảo sự phát triển ổn định của đất nước cũng như đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho người dân, Nhà nước với vai trò là cơ quan đại diện cho toàn dân thực hiện quyền sở hữu đất đai có trách nhiệm đưa ra các quy định phù hợp về việc thu hồi đất tránh việc trường hợp lợi dụng việc Nhà nước thu hồi đất để trục lợi cá nhân. Do vậy, Nhà nước quy định cụ thể những trường hợp thu hồi đất gồm: Một là, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh: rõ ràng, việc đưa ra mục đích thu hồi đất này đầu tiên cho thấy tầm quan trọng của mục đích thu hồi đất này. Theo cách nhìn nhận khách quan của tác giả, việc đưa lý do thu hồi đất này đầu tiên cho thấy tính cấp thiết, tầm quan trọng của mục đích bởi: Quốc phòng, an ninh là là yếu tố hàng đầu đảm bảo cho an ninh quốc gia tạo cơ sở vững chắc cho kinh tế phát triển. Hai là, thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng: Đây là yếu tố trực tiếp tác động đến mức độ phát triển kinh tế của Quốc gia. Nhà nước quy định những trường hợp thu hồi đất vì mục đích này để đảm bảo những dự án có tầm quan trọng, có mục đích phát triển kinh tế quốc gia, công cộng đều có thể thực hiện được (vì lợi ích chung). Hiện nay, xuất hiện rất nhiều trường hợp mặc dù dự án để xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn do doanh nghiệp tư nhân làm chủ được Nhà nước đứng ra thu hồi, bồi thường đất ở cho người dân với giá 3000.000 đồng - 4.000.000 đồng/m2 đất, còn với đất nông nghiệp như đất trồng cây hàng năm là 55.000 đồng…nhưng lại được chủ đầu tư phân lô, bán nền với giá 20.000.000 đồng 25.000.000 đồng. rõ ràng mục đích tư lợi cho doanh nghiệp nhưng luật lại quy 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan