Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn cái tôi trữ tình trong thơ chế lan viên sau 1975...

Tài liệu Luận văn cái tôi trữ tình trong thơ chế lan viên sau 1975

.PDF
105
84
77

Mô tả:

i ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ THU LUYẾN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ: VĂN HỌC VIỆT NAM Thái Nguyên - 2016 ii ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ THU LUYẾN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975 Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN DIỆU LINH Thái Nguyên - 2016 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả được nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thu Luyến ii LỜI CẢM ƠN Được sự phân công của Khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên và được sự đồng ý của cô giáo hướng dẫn TS Nguyễn Diệu Linh tôi đã thực hiện đề tài: “Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975”. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Diệu Linh đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Khoa học Đại học Thái Nguyên đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt để tôi nghiên cứu, học tập và hoàn thành luận văn này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất, song trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái Nguyên, tháng 5 năm 2016 Tác giả Nguyễn Thị Thu Luyến iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 1 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................... 7 3.1. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 7 3.2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................. 7 3.3. Văn bản nghiên cứu................................................................................ 7 4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 8 4.1. Phương pháp nghiên cứu loại hình ........................................................ 8 4.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử..............................................................8 4.3. Phương pháp thống kê - phân loại ......................................................... 8 4.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp ......................................................... 8 4.5. Phương pháp so sánh - đối chiếu ........................................................... 8 5. Đóng góp mới của đề tài .................................................................................. 8 5.1. Về mặt lý luận ........................................................................................ 8 5.2. Về mặt thực tiễn ..................................................................................... 9 6. Bố cục của đề tài .............................................................................................. 9 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ........................................ 10 1.1. Thơ trữ tình và cái tôi trữ tình ....................................................................... 10 1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên trước năm 1975 ............................. 14 1.2.1. Cái tôi tràn ngập nỗi đau trước Cách mạng tháng Tám 1945 ........... 14 1.2.2. Cái tôi cách mạng đầy nhiệt huyết trong hai cuộc kháng chiến ......... 18 1.3. Những yếu tố tạo nên sự chuyển biến của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau năm 1975 .............................................................................................. 23 1.3.1. Sự thay đổi về hoàn cảnh xã hội ......................................................... 24 1.3.2. Sự thay đổi trong quan niệm thẩm mỹ về con người ........................... 26 Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975 ............................................................................................................. 33 2.1. Cái tôi thế sự, đời tư ...................................................................................... 33 iv 2.1.1. Những băn khoăn, chiêm nghiệm về các vấn đề vĩnh cửu của cuộc sống..33 2.1.2. Cái tôi đấu tranh không biết mệt mỏi với thời gian ............................ 39 2.2. Cái tôi khao khát tìm về “bản ngã” ............................................................... 47 2.2.1. Cái tôi có nhu cầu sống trung thực với bản thân ................................ 47 2.2.2. Cái tôi bản lĩnh khi dám nói lên suy nghĩ của mình ........................... 52 2.3. Cái tôi nghệ sĩ tài hoa và trách nhiệm ........................................................... 57 2.3.1. Cái tôi ý thức trách nhiệm với nghề .................................................... 57 2.3.2. Cái tôi trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc ......................... 63 Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN SAU 1975 ............................................................................... 69 3.1. Sự kế thừa và phát triển các thể thơ .............................................................. 69 3.1.1. Thể thơ tự do ....................................................................................... 69 3.1.2. Thơ tứ tuyệt ......................................................................................... 73 3.2. Giọng điệu tâm tình, triết luận ...................................................................... 78 3.2.1. Giọng điệu trữ tình sâu lắng ............................................................... 78 3.2.2. Giọng độc thoại nội tâm ...................................................................... 83 3.3. Hiện đại hóa ngôn ngữ thơ ............................................................................ 86 3.3.1. Ngôn ngữ thơ đậm chất đời thường .................................................... 86 3.3.2. Sử dụng hợp lý, linh hoạt các biện pháp tu từ từ vựng ....................... 89 KẾT LUẬN .................................................................................................. 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong nền Văn học Việt Nam hiện đại, Chế Lan Viên luôn được coi là nhà thơ lớn, có ảnh hưởng sâu rộng tới nền văn học nước nhà. Con đường lịch sử của dân tộc và con đường thơ của Chế Lan Viên luôn gắn bó chặt chẽ, tạo điều kiện và bổ sung cho nhau, làm nên một phong cách thơ rất riêng và đầy sức hấp dẫn. Thơ Chế Lan Viên trên mỗi chặng đường đều có những cách tân nghệ thuật đáng trân trọng. Nhiều thập kỷ qua, tác phẩm của Chế Lan Viên luôn được đưa vào các chương trình giảng dạy ở nhiều cấp học (từ bậc phổ thông đến bậc đại học), bởi thơ ông không chỉ phản ánh lịch sử, phản ánh thời đại mà còn tiêu biểu cho tiến trình phát triển của thơ ca dân tộc ở thế kỷ XX. 1.2. Trong thơ, vấn đề chủ thể cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thơ trữ tình luôn gắn với cái “tôi” bởi nó là trung tâm và là giá trị tinh thần cốt lõi, tạo nên chân dung của nhà thơ. Bởi vậy, khi nghiên cứu cái tôi trữ tình trên các phương diện thuộc về thể loại, các trào lưu, khuynh hướng, các chặng đường sáng tác, các tác giả hay ngay cả một tác phẩm thơ cụ thể, người ta thường quan tâm nhiều đến việc tìm hiểu cái tôi trữ tình. 1.3. Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên phong phú và đa dạng. Đó là một thế giới ấn tượng với sức biểu cảm mang dấu ấn riêng vô cùng độc đáo. Khi nghiên cứu thế giới nghệ thuật của nhà thơ thể hiện qua cái tôi trữ tình, chúng ta nhận ra một hồn thơ giàu có và tràn đầy sức sống. Cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên luôn thể hiện cá tính nghệ thuật bản lĩnh, một phong cách nghệ thuật không ngừng tìm tòi, sáng tạo. Tất cả những điều ấy đã thể hiện tình yêu thương cuộc sống tràn trề, một tinh thần lạc quan, một sự gắn bó máu thịt với cuộc đời. 1.4. Trong thơ Chế Lan Viên luôn tồn tại một cái tôi trữ tình không ngừng biến đổi trên cơ sở kế thừa và cách tân. Đó là sự vận động từ cái tôi lãng mạn trước cách mạng đến cái tôi trữ tình chính trị trong giai đoạn 1945 - 1975 và đến cái tôi đời tư thế sự mang nặng cảm xúc trầm tư, suy ngẫm trong những bài thơ được sáng tác sau năm 1975, đặc biệt là vào giai đoạn cuối đời. Quả là, trong lịch sử phát triển của thơ 2 ca Việt Nam hiện đại thế kỷ XX, hiếm có một nhà thơ nào tạo ra sự chuyển biến liên tục trong suốt cả sự nghiệp sáng tác, tạo nên được sức hấp dẫn đối với công chúng yêu thơ như Chế Lan Viên. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975 nhằm thấy được nét độc đáo trong phong cách, những tiến bộ nghệ thuật, những đóng góp của Chế Lan Viên trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Chúng tôi hy vọng luận văn sẽ góp một phần nhỏ vào việc nhận diện chân dung, tầm vóc của tác giả Chế Lan Viên giai đoạn sau năm 1975. Đồng thời, góp một mảng tư liệu cho việc nghiên cứu và giảng dạy về nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc: Chế Lan Viên. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ngay từ tập thơ đầu tiên Điêu tàn ra đời năm 1937 đến ba tập Di cảo, thơ Chế Lan Viên luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của độc giả và giới phê bình. Cùng với chặng đường 52 năm cầm bút của Chế Lan Viên là chặng đường liên tiếp xuất hiện các bài giới thiệu, các bài phê bình, nghiên cứu, các chuyên luận được in thành sách với một số lượng lớn mà chúng ta khó có thể thống kê một cách đầy đủ. Phải khẳng định ngay rằng, tất cả các bài nghiên cứu đã công bố đều muốn khẳng định sự tiếp tục và đổi mới của hành trình thơ Chế Lan Viên qua các chặng đường: trước 1945, từ 1945 đến 1975 và sau 1975. Nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là các bài giới thiệu về thơ chống Mỹ và thơ thời kỳ đổi mới của Chế Lan Viên. Đặc biệt, vấn đề cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên cũng được nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết tìm hiểu. Các công trình nghiên cứu về cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên trước năm 1975 đều khẳng định cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên là cái tôi vận động từ cái tôi cô đơn lạc lõng thuở Điêu tàn đã hòa nhập vào cái ta chung trong những năm kháng chiến. GS. Hà Minh Đức là một trong những nhà nghiên cứu dành nhiều tình cảm cho Chế Lan Viên. Trong các công trình nghiên cứu của mình, ông đã đề cập đến cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên trong những năm chiến tranh với những nhận định khá xác đáng. Trong công trình “Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại”, ông viết: “Với Ánh sáng và phù sa, vấn đề riêng chung được đặt ra trực diện, cái 3 tôi trữ tình bộc lộ khá rõ nét qua những lời thơ tâm tình, chứa chất biết bao suy nghĩ và cảm xúc tự bên trong” [19, 38]. Cùng với Hà Minh Đức, Trần Đình Sử cũng có ý kiến: “Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường chim báo bão đã đánh dấu bước trỗi dậy, đổi mới của thơ Chế Lan Viên, gắn liền với ý thức về cái tôi của ông…Chế Lan Viên xem cái Tôi như một điểm xuất phát để nói đến tất cả” [61, 151]. Vũ Tuấn Anh cũng là tác giả có nhiều bài viết về Chế Lan Viên. Trong các công trình nghiên cứu ấy, ông đặc biệt chú ý đến sự thể hiện cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên. Trong luận án Phó tiến sĩ với đề tài “Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay” ông cho rằng: “Cái tôi có những trầm tư triết học quanh các câu hỏi Ta là ai? Ta vì ai?”. Hay trong bài Chế Lan Viên với Điêu tàn và Vàng sao, nhà nghiên cứu đã nhận định: “Cả cái tôi bản thể và cái Tôi nghệ sĩ của tác giả đều muốn vượt lên cõi tục để tạo nên một Tháp nghĩ; một Đài thơ, để trên đài thơ cao ấy hướng tới hư vô, tìm trong ấy sức mạnh sáng tạo” [3, 21]. Trong bài Thơ Chế Lan Viên, tác giả Nguyễn Văn Hạnh đã nói đến sự hòa hợp, thống nhất giữa cái tôi công dân và cái tôi nghệ sĩ của Chế Lan Viên trong những năm đánh Mỹ: “Cuộc đời và cái tôi không loại trừ nhau, mà xuyên thấm vào nhau tạo thành thơ hay, thơ rung động sâu sắc người khác” [22, 73]. Sau năm 1975, cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên có sự chuyển động mãnh mẽ hướng tới cảm hứng thế sự - đời tư. Đặc biệt, vào đầu thập kỷ 80 là các tập thơ Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình (1986) sự chuyển đổi ấy càng được thể hiện rõ. Và chặng cuối đường thơ Chế Lan Viên được đánh dấu bằng ba tập Di cảo thơ do nhà văn Vũ Thị Thường sưu tầm, tuyển chọn vào các năm 1992, 1993, 1996 lại càng khẳng định sự thay đổi của cái tôi trữ tình Chế Lan Viên là đúng đắn và cần thiết. Song hành với các tác phẩm ấy cũng là sự ra đời các công trình giới thiệu và khám phá thế giới nghệ thuật của nhà thơ. Tập thơ đầu tiên có dấu hiệu của sự chuyển hướng ngòi bút và tư tưởng của Chế Lan Viên là tập Hái theo mùa. Khi giới thiệu tập thơ này, Trần Ninh Hồ nhận xét: “Phải có một Bình Ngô đại cáo! Ở những ngày này, bằng tiềm 4 lực, suy nghĩ, cảm xúc, Chế Lan Viên đã bắt được cái hơi thở hào hùng sảng khoái dội lại từ xưa ấy” [29, 367]. Nhà thơ luôn đòi hỏi cái tôi “phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghĩ và cảm, tạo nên nhiều bài thơ, tập thơ vừa nồng nhiệt hào hùng vừa thiết tha lắng đọng, có sức cảm hóa thuyết phục lớn lao” [29, 371]. Tập thơ thứ hai thể hiện sự nỗ lực không mệt mỏi của Chế Lan Viên là tập Hoa trên đá. Nhà thơ Tế Hanh khẳng định: “Trong một khuôn khổ nhỏ, nhà thơ vẫn gửi được nhiều xúc cảm của mình từ những đề tài lớn đến những đề tài bình dị”. Và: “Tập Hoa trên đá là một tập thơ đánh dấu một bước tiến mới của tác giả” [21, 3]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình trong bài Chế Lan Viên khi đánh giá sự chuyển biến của cái tôi trữ tình của nhà thơ cũng nhận định: Thơ Chế Lan Viên “bắt đầu bộc lộ những trăn trở nhận thức về trách nhiệm của người cầm bút trước nhiều vấn đề nhân thế mà trước đây thơ còn ít quan tâm” [5, 225]. Trong tập thơ này, nhà thơ đã gửi gắm, đã “bộc lộ tâm tình và triết luận về các vấn đề muôn thuở của nhân sinh”, với những “suy tư, chiêm nghiệm làm cho giọng thơ ông trầm xuống phảng phất một nỗi quan hoài…” [5, 226]. Nguyễn Xuân Nam cho rằng: “Hoa trên đá là tập thơ xứng với tên tuổi tác giả” và “trong tập thơ này đã gặp một giọng thơ nhân tình hơn, gần gũi tiếng nói hàng ngày hơn” [48, 3]. Vĩnh Quang Lê cũng khẳng định hướng đi tới của thơ Chế Lan Viên: “…thơ anh vẫn tiến lên. Có lúc thơ anh bùng cháy lên, và có lúc thơ đi bước một” [44, 135]. Ngô Văn Phú nhìn suốt hành trình thơ Chế Lan Viên từ Điêu tàn đến Hoa trên đá và nhận ra “giọng thơ của anh có một phong cách riêng, và vẫn theo kịp với nhịp đi của đời sống” [56, 10]. Tiếp nối sự chuyển biến về tư tưởng, cảm xúc trong tập Hoa trên đá, năm 1986 Chế Lan Viên cho ra đời tập thơ Ta gửi cho mình, gồm 39 bài. Nếu như ở hai tập thơ trước vẫn còn đậm chất anh hùng ca, thì giờ đây thơ Chế Lan Viên đã chuyển hẳn sang khía cạnh đời tư. Tuy nhiên, tập thơ này hầu như chưa có một công trình nghiên cứu công phu nào. Có chăng chỉ được nhắc đến để so sánh với các tập thơ khác. 5 Ba tập Di cảo thơ là bước hoàn thiện cái tôi thế sự - đời tư của Chế Lan Viên. Nhận xét và đánh giá về hai tập Di cảo thơ I và II, Nguyễn Bá Thành trong bài viết “Đọc hai tập Di cảo thơ” đã nhận định về cảm xúc của Chế Lan Viên trong những năm cuối đời thật tinh tế và sâu sắc: “Cảm xúc của Chế Lan Viên về “thời gian sống” là định hướng lớn nhất cuốn hút tư duy của thơ ông trong những năm cuối đời. Nếu như ở Đối thoại mới nhà thơ vẫn còn đủng đỉnh triết lý về “những chiếc lá thơm hái lúc về già” thì từ năm 1987, cảm xúc của ông dường như dồn nén hơn, thúc bách hơn” [63, 410]. Nhân ngày giỗ thứ tư của Chế Lan Viên (tháng 6 năm 1993), Trần Thanh Đạm có bài Những vần thơ triết lý của Chế Lan Viên qua những trang Di cảo. Ông khẳng định: “Sự tìm tòi chính mình vẫn là việc phải tiếp tục. Đó là niềm khao khát không bao giờ nguôi của một hồn thơ không bao giờ tự thỏa mãn mà luôn luôn tự đòi hỏi, tự đổi mới để đi tìm một tầm cao mới, càng tiến gần hơn đến sự viên mãn, sự tuyệt đối, tuy không bao giờ có thể đạt tới, song nếu không có nó thì cũng sẽ không bao giờ có sự sáng tạo nghệ thuật thực sự hướng đến chân, thiện, mỹ” [11, 396]. Như vậy, Trần Thanh Đạm nhận thấy ý thức tìm lại chính mình của Chế Lan Viên là một nhu cầu cấp bách, luôn thôi thúc tâm hồn nhà thơ, ngay cả khi bóng đã xế tà. Hồ Thế Hà là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu luôn thể hiện sự yêu mến thơ Chế Lan Viên. Trong Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, ông viết: “Cái tôi nhà thơ, cái tôi trữ tình Chế Lan Viên khi bộc lộ khi tiềm tàng, có khi là cuộc phiêu lưu tư tưởng của thế giới nội tâm, có khi tỏ lộ thông qua các biện pháp đối lập, so sánh, thông qua cách nói riêng của ông” [23, 35]. Và khi nhận xét về cái tôi trữ tình Chế Lan Viên qua các chặng đường, nhà nghiên cứu cũng cho rằng: “Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên đầy quyến rũ, năng động” [23, 41]. Tác giả luận án cũng nhận thấy sự phức tạp của thơ Chế Lan Viên trong thời kỳ mới và nhận định: “Khảo sát toàn bộ các tác phẩm của Chế Lan Viên xuất bản sau năm 1975, ta thấy trong một số bài, ông có sự to tiếng nuối tiếc, tự mâu thuẫn với mình. (...). Nhưng thực ra, đó chỉ là những lời tâm sự, tự kiểm điểm chân thành, pha chút chua xót chứ không phải sự phủ định, oán trách. Phảng phất âm hưởng buồn, tiếc cho thơ mình một thời không được sống hết cái hồn nhiên vốn có của nó phải cùng con người lao vào trận 6 mạc. (…). Cho nên sự mâu thuẫn, phủ định giai đoạn trước 1975, nếu có, thì đó chính là sự phủ định biện chứng để tìm hướng mới cho thơ trong hoàn cảnh mới mà thôi” [23, 36 - 37]. Đoàn Trọng Huy cũng ít nhiều nhắc đến cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên trong các công trình của mình. Ông nhận định: “Từ sau 1975, cái tôi trữ tình đã đổi khác, hầu như có một sự thức tỉnh cá nhân mới. Đúng là sự thức tỉnh những nhu cầu xã hội và cá nhân của cái Tôi trong thơ trữ tình” [30, 111]. Đó là đòi hỏi về tất cả những nhu cầu của cuộc sống đời thường cùng sự khẳng định cá tính mạnh mẽ trước thế giới, trong các mối quan hệ xã hội và cá nhân. Nguyễn Quốc Khánh khi nghiên cứu về chặng đường thơ cuối cùng của Chế Lan Viên qua Di cảo thơ với bài Di cảo thơ Chế Lan Viên hành trình tìm lại chính mình đã đánh giá: “Suốt ba chục năm đi trên đại lộ cách mạng với niềm vui, niềm tin phơi phới. Chế Lan Viên rất chân thành gạt bỏ cái tôi cá nhân, hoặc có nói đến cũng chỉ là những niềm ăn năn hối hận về mình trước Cách mạng (…) để hòa cái tôi vào cái Ta chung của nhân dân. Đó là chân dung mà chúng ta đã biết, đã quen thuộc về Chế Lan Viên suốt mấy chục năm qua…” [37, 425]. Và tác giả bài viết cũng cho rằng, thơ Chế Lan Viên trước và sau 1975 là sự tiếp nối chứ không phải sự đứt đoạn của cái tôi trữ tình. Bởi “có một Chế Lan Viên vừa quen vừa lạ…Đọc ba tập Di cảo thơ của Chế Lan Viên người đọc một lần nữa lại phải kinh ngạc về một Chế Lan Viên mới, khác với chân dung ông đã hiện diện trên ba chục năm qua các trang thơ ông đã từng công bố” [37, 423]. Nguyễn Diệu Linh trong bài Di cảo thơ và nhu cầu được sống trung thực với mình của Chế Lan Viên đã nhận định: “Khát vọng “Đời cho anh là anh” luôn cháy bỏng trong nhiều trang thơ của Chế Lan Viên. Được sống với chính bản thân mình, với tất cả sự chân thành, trung thực của con người đã làm nên một nét sắc sảo của ba tập Di cảo thơ” [40, 36]. Như vậy, mặc dù thơ Chế Lan Viên luôn được quan tâm tìm hiểu, nhưng chủ yếu vẫn là những công trình nghiên cứu về thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Qua thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ thuật ấy, cái tôi trữ 7 tình chỉ được đề cập ở một vài khía cạnh nhỏ. Đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên từ sau năm 1975. Đây là giai đoạn cái tôi có sự chuyển biến rõ rệt từ cái tôi sử thi cách mạng sang cái tôi thế sự - đời tư. Chính vì vậy, với luận văn này chúng tôi hy vọng sẽ tìm hiểu những đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975. Qua đó nhận diện rõ hơn bức chân dung tinh thần mới của một cánh chim đầu đàn trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn khảo sát toàn bộ thơ Chế Lan Viên, trong đó tập trung vào các tập thơ ra đời sau năm 1975, nhằm tìm hiểu một cách tổng thể, bao quát nội dung và nghệ thuật thơ Chế Lan Viên ở giai đoạn này. Từ đó, làm sáng tỏ sự thể hiện cái tôi trữ tình của nhà thơ trong những năm tháng cuối đời. Khi đó, sẽ thấy được đặc điểm phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên cùng những đóng góp của ông cho nền thơ hiện đại sau 1975. Mục đích cuối cùng của luận văn là góp phần phục vụ việc nghiên cứu và giảng dạy nhà thơ Chế Lan Viên trong nhà trường. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng của luận văn là những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975. 3.3. Văn bản nghiên cứu Văn bản nghiên cứu của luận văn là toàn bộ những sáng tác thơ của Chế Lan Viên đã được xuất bản bao gồm 14 tập thơ. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu các tập ra đời sau năm 1975 gồm: Hái theo mùa (1977), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội; Hoa trên đá (1984), Nxb Văn học, Hà Nội; Ta gửi cho mình (1986), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội và ba tập Di cảo thơ: tập I nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế (1992), tập II nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế (1993) và tập III nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế (1996). 8 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu loại hình Phương pháp này căn cứ vào những phương diện loại hình của thơ trữ tình để nghiên cứu ngôn ngữ, giọng điệu, thể loại thơ Chế Lan Viên sau năm 1975. Từ đó, làm rõ những đặc điểm cơ bản, mang bản chất loại hình. 4.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử Sử dụng phương pháp này, người viết đặt thơ Chế Lan Viên sau 1975 trong bối cảnh lịch sử của sự phát triển của thơ Chế Lan Viên nói chung. Từ đó tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975 trong sự vận động của cái tôi trữ tình qua hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ. 4.3. Phương pháp thống kê - phân loại Phương pháp này dùng để thống kê các ý kiến về thơ trữ tình và cái tôi trữ tình trong thơ. Thống kê các tập thơ của Chế Lan Viên để phân loại, chọn những tập thơ nào, bài thơ nào là tiêu biểu nhất thể hiện rõ cái tôi trữ tình. Trên cơ sở đó sẽ có cái nhìn chính xác, cụ thể giá trị chính của thơ Chế Lan Viên. 4.4. Phương pháp phân tích - tổng hợp Thống kê chỉ là một phương tiện, còn nhiệm vụ chính là phân tích các ý kiến, các chi tiết nghệ thuật, từ đó đưa ra sự nhìn nhận đánh giá về cái tôi trữ tình. Phân tích tác phẩm sẽ là cơ sở cho việc tổng hợp các vấn đề chính của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau năm 1975. Bên cạnh việc phân tích, người nghiên cứu sẽ tổng hợp lại một cách tổng quát sau khi luận giải các vấn đề. 4.5. Phương pháp so sánh - đối chiếu Đây cũng là phương pháp được sử dụng một cách thường xuyên để thấy được cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên có sự chuyển biến giữa các chặng đường sáng tạo, thấy được sự kế thừa và sự cách tân trong thơ ông. 5. Đóng góp mới của đề tài 5.1. Về mặt lý luận 9 Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên sau năm 1975 sẽ giúp người đọc nhận diện rõ hơn bức chân dung tinh thần mới của một nhà thơ lớn thế kỷ XX với phong cách nghệ thuật tài hoa mà độc đáo. Luận văn cũng góp phần làm rõ quan niệm, cách cảm, cách nghĩ về cuộc đời, về con người, về thơ ca của Chế Lan Viên sau năm 1975, đặc biệt là trong những năm tháng cuối đời. Luận văn cũng góp thêm một cái nhìn có hệ thống về các sáng tác của Chế Lan Viên và khẳng định cái tôi nhiều cảm xúc và suy tư độc đáo trong giai đoạn sau 1975. Từ đó khẳng định những giá trị to lớn, đầy tính nhân văn mà nhà thơ Chế Lan Viên đã để lại cho đời. 5.2. Về mặt thực tiễn Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích trong việc học tập và giảng dạy, nghiên cứu tác phẩm của Chế Lan Viên ở các cấp học. 6. Bố cục của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài được triển khai thành 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận chung Chương 2. Đặc điểm cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975 Chương 3. Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên sau 1975 10 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 1.1. Thơ trữ tình và cái tôi trữ tình Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về thơ. Nguyễn Xuân Nam cho rằng: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống qua những tâm trạng những cảm xúc dạt dào, những tưởng tượng mạnh mẽ trong một ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu rõ ràng”. Các tác giả Nhập môn văn học lại quan niệm: “Thơ là bộc bạch cảm xúc hoặc suy tư”. Xuân Diệu cũng từng cho rằng: “Thơ là lọc lấy tinh chất, là sự vật được phản ánh vào tâm tình”. Còn các tác giả trong nhóm Xuân Thu lại khẳng định: “Thơ là cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thúy, cao siêu, cái hình ảnh bất diệt của cõi vô cùng” vv…Có thể nói, có bao nhiêu người làm thơ, viết về thơ thì có bấy nhiêu quan niệm khác nhau. Mỗi quan niệm đó đều xuất phát trên một số phương diện nhất định của thơ để khái quát, cho nên đều cho ta một ý niệm về thơ. Chúng ta quan niệm thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua một tổ chức ngôn ngữ đặc biệt. Thơ trữ tình cũng như thơ nói chung luôn bộc lộ cảm xúc một cách mãnh liệt. Không có cảm xúc thì không có thơ. Chính vì thơ gắn với cảm xúc, bộc lộ cảm xúc nên khi được sử dụng ở các phương thức khác như tự sự hay kịch thì cũng không mất đi điều đặc biệt này, mà trái lại càng làm cho các tác phẩm đậm chất thơ, chất trữ tình hơn. Cảm xúc thơ khác với cảm xúc của văn xuôi. Cảm xúc văn xuôi dù mãnh liệt đến đâu vẫn mang tính khách quan. Còn cảm xúc thơ, nói như Phan Ngọc là “được cảm hóa ngay lập tức, đến mức là của chính tôi”. Người ta đọc thơ, tiếp nhận cảm xúc thơ như là cảm xúc của chính mình. Người ta lấy thơ ra ngâm, ngẫm nghĩ trong những cảnh ngộ cụ thể, tâm trạng cụ thể của mình. Thơ do đó là tiếng nói tri âm. Người ta tìm đến thơ như tìm đến tri âm. Chẳng thế mà Hoài Thanh đã từng viết: “Thích một bài thơ là thích một con người đồng điệu”. Vì vậy, có thể hiểu thơ trữ tình là một thể loại thơ ca có đặc trưng là bày tỏ, nói lên tư tưởng tình cảm của tác giả, thông qua đó sẽ phản ánh cuộc sống. Thơ trữ tình không miêu tả quá trình sự kiện, không kể tình tiết đầy đủ câu chuyện, cũng không 11 miêu tả nhân vật, cảnh vật cụ thể, mà mượn cảnh vật để bày tỏ tình cảm (tả cảnh trữ tình). Sáng tác thơ là một nhu cầu tự biểu hiện, một sự thôi thúc từ bên trong, nhiều khi mãnh liệt, dồn dập do sự tác động của đời sống con người gây nên. Sáng tạo nghệ thuật là hoạt động có ý thức của người nghệ sĩ, bị chi phối bởi “cái tôi” nghệ sĩ. Nhưng cái tôi ở đây là cái tôi nghệ thuật, không phải là cái tôi nhà thơ. Cái tôi trữ tình, trước hết là tính cách của bản thân người mang lời nói. Cái tôi nghệ thuật trong thơ bao gồm nhiều giá trị khác nhau như tài năng, sự sắp xếp các ngôn từ, cấu trúc nghệ thuật…Cái tôi trữ tình có mối quan hệ thống nhất, nhưng không đồng nhất với cái tôi nhà thơ. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về cái tôi trữ tình như một hiện tượng nghệ thuật. Có thể kể đến một loạt các công trình tiêu biểu của Trần Đình Sử như: Thi pháp thơ Tố Hữu (Hà Nội, 1987); Phẩm chất cái tôi trữ tình (TCVH số 1/1983); Cái tôi và hình tượng trữ tình (Báo Văn nghệ số 19/1993)...Ngoài ra còn rất nhiều các công trình khác nghiên cứu về cái tôi trữ tình trong thơ. Hầu hết các bài nghiên cứu đều nhận thấy, cái tôi của nhà thơ luôn luôn có một mối quan hệ trực tiếp với cái tôi trữ tình trong thơ. Từ cách nhìn, cách nghĩ, cách thể hiện những nỗi niềm sâu kín, những tình cảm, thái độ của tác giả trước thế giới khách quan, cái tôi trữ tình của nhà thơ sẽ được bộc lộ. Cái tôi trữ tình là cái tôi nhà thơ đã được nghệ thuật hóa và trở thành một thành tố quan trọng của thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Như vậy, nhân vật trữ tình trong thơ chính là người bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ thông qua một hệ thống các phương tiện như ngôn ngữ, giọng điệu, hình ảnh…để dẫn dắt người đọc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác giả. Và thông qua thế giới nhân vật ấy, cái tôi trữ tình của nhà thơ được bộc lộ một cách rõ nét. Sự hiện diện của cái tôi trữ tình có thể sẽ là một tín hiệu quan trọng để nhận biết diện mạo, tư tưởng của nhà thơ, thậm chí của cả một thời kỳ văn học. Trong hành trình sáng tạo của mỗi tác giả, cái tôi trữ tình lại được thể hiện khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào sự chuyển biến trong cá tính sáng tạo của mỗi người nghệ sĩ, cũng như sự tác động, chi phối của hoàn cảnh lịch sử, xã hội, của các yếu tố văn hóa, thời đại…Sự thay đổi và chuyển hóa của các kiểu cái tôi trữ tình sẽ tạo nên sự vận động của thơ. Cái tôi trữ tình thường xuyên xuất hiện dưới dạng chủ thể 12 trữ tình hoặc nhân vật trữ tình. Lê Lưu Oanh trong cuốn Giáo trình Lý luận văn học, NXB Đại học Sư phạm (2008) đã chỉ rõ: “Nhân vật trữ tình chính là chủ thể trữ tình, là người tự phát ngôn, tự miêu tả, tự bộc lộ. Nhân vật trữ tình không có tên tuổi, diện mạo, hành động…nhưng để lại dấu ấn rất rõ qua giọng điệu, cảm xúc, cách suy tư…” [54, 200]. Trong cuốn 150 thuật ngữ Văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn cũng chỉ rõ: “Nhân vật trữ tình là kẻ song sinh “đồng dạng” với nhà thơ tác giả; nó được hình thành từ văn bản của kết cấu trữ tình (một trùm thơ, một tập thơ, một trường ca trữ tình, hoặc toàn bộ sáng tác thơ trữ tình), như một dáng người có đường nét rõ rệt hoặc một vai sống động; như một gương mặt có tính xác định của số phận cá nhân, có đường nét tâm lý của thế giới nội tâm, và đôi khi có cả những đường nét tạo hình…” [4, 252]. Trong quá trình hình thành, cái tôi trữ tình luôn thể hiện những đặc trưng cơ bản. Thứ nhất, cái tôi trữ tình mang bản chất chủ quan cá nhân. Người làm thơ bao giờ cũng có nhu cầu tự biểu hiện, giãi bày tâm tư, tình cảm riêng của mình. Hiện thực cuộc sống rất rộng lớn, nhưng quan tâm đến vấn đề gì, nhìn nhận nó như thế nào là do nhà thơ thể hiện dựa trên sự trải nghiệm của cuộc sống cùng với sự thôi thúc cảm hứng sáng tạo nghệ thuật và tài năng của thi nhân. Khi có chất liệu rồi thì đến lượt xây dựng văn bản trữ tình. Sự lựa chọn, cách thể hiện nào trong văn bản trữ tình cũng mang rõ nét cá tính sáng tạo của chủ thể. Do thơ trữ tình in đậm dấu vết cá nhân nên những gì liên quan đến cuộc đời tác giả, từ tiểu sử đến tính cách đều đóng một vai trò nhất định trong sáng tác. Thứ hai, cái tôi trữ tình mang bản chất xã hội. Trong đời sống xã hội xuất hiện những cá thể người như một đơn vị tồn tại độc lập. Điều đó đã khẳng định vị thế của con người trong cộng đồng. Các Mác đã khẳng định: “Con người là sự tổng hòa mọi mối quan hệ xã hội”, con người có thể độc lập tự chủ, suy nghĩ và hành động theo cách riêng của mình, nhưng con người không bao giờ biệt lập với cộng đồng, với nhân loại. Làm thơ là để bày tỏ tình cảm, là sự giao lưu với mọi người xung quanh những vấn đề về số phận, về cuộc sống con người. Thơ trữ tình trong lăng 13 kính hẹp nhất của cái nhìn cá thể, lại luôn luôn phản chiếu những vấn đề chung nhất của con người. Nếu như ở phương diện cái tôi trữ tình mang tính chủ quan cá nhân, chúng ta quan tâm đến mối quan hệ giữa cái tôi nhà thơ với cái tôi trữ tình, thì phương diện cái tôi trữ tình mang bản chất xã hội nhân loại, chúng ta chú ý đến mối quan hệ giữa cái tôi trữ tình với cái ta cộng đồng. Chúng ta thừa nhận thơ trữ tình là vương quốc chủ quan, nhưng cái chủ quan này vẫn hướng về cái ta chung mang tính xã hội, nhân loại. Ở Việt Nam, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã cho ta thấy rõ được khối sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Trong hoàn cảnh ấy sẽ ít có chỗ cho cái tôi cá nhân tồn tại. Nếu như thơ trữ tình lúc đó không phải là những lời hiệu triệu mọi người xông lên phía trước mà chỉ quay xung quanh những cảm xúc cá nhân khép kín, cô đơn thì thơ sẽ trở nên lạc lõng. Thơ phải thể hiện sự lo toan trước vận mệnh nước nhà, phải đề cao ý thức công dân sẵn sàng hy sinh cái riêng, cái cá nhân cho quyền lợi chung của đất nước. Thứ ba, cái tôi trữ tình mang bản chất nghệ thuật. Thông qua sự cảm nhận chủ quan về hiện thực, nhà thơ đã tích lũy cho mình một nguồn tư liệu cần thiết. Nguồn tư liệu ấy được xem như là nội dung, chất liệu làm nên tác phẩm. Đến lượt nó, cái tôi trữ tình sẽ sáng tạo ra một thế giới nghệ thuật đặc thù và tổ chức toàn bộ thế giới nghệ thuật ấy dưới hình thức một văn bản trữ tình. Rõ ràng, việc đưa hiện thực vào trong tác phẩm thơ trữ tình khác với tác phẩm tự sự hay tác phẩm kịch. Bởi thế cần phải nắm được bản chất nghệ thuật thẩm mỹ của cái tôi trữ tình và sáng tạo theo những quy tắc riêng của thể loại. Tác phẩm trữ tình miêu tả và biểu hiện thế giới chủ quan trong tâm hồn con người dưới mọi cung bậc tình cảm một cách ý nhị và tinh tế. Cái tôi trữ tình mang bản chất chủ quan, do đó thơ trữ tình cũng mang bản chất chủ quan của cái tôi nhà thơ. Thế giới trữ tình của cái tôi là một thế giới mang giá trị thẩm mỹ được cấu thành bởi những giá trị văn hóa truyền thống và lịch sử. Như vậy, thế giới trữ tình của cái tôi là một thế giới nghệ thuật giúp người đọc nhận diện cá tính sáng tạo của nhà văn. Tất cả các bản chất trên sẽ quyết định đến sự hình thành nội dung cũng như hình thức nghệ thuật của tác phẩm trữ tình. 14 Nội dung, tình cảm của thơ trữ tình nằm bên trong của sự vật và yếu tố ngoại cảnh được nhắc đến trong thơ chứ không chỉ tồn tại ở trên câu chữ...Cái tôi mang bản chất chủ quan, do đó thơ trữ tình cũng mang bản chất chủ quan của cái tôi. Thế giới trữ tình của cái tôi là thế giới mang giá trị thẩm mỹ được kết tinh bởi những giá trị văn hóa truyền thống và lịch sử. Như vậy, thế giới trữ tình của cái tôi là một thế giới nghệ thuật giúp chúng ta hình dung được cá tính sáng tạo của cái tôi trữ tình dựa trên thế giới quan và truyền thống văn hóa. Người ta gọi thơ là tiếng lòng, là nhịp đập trái tim bởi lẽ trước tiên, thơ xuất phát từ dòng ý thức bên trong, là những điều sâu kín nhất, bí ẩn nhất mà người ta không thể nói bằng lời mà buộc phải dùng những ngôn từ đa nghĩa, hàm ẩn. Đằng sau hình thức chính là nội dung chủ quan, cái tôi chủ thể là yếu tố hiện diện của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thơ trữ tình. Như vậy, cái tôi trữ tình với bản chất chủ quan chi phối mọi hành động, suy nghĩ của cái tôi nghệ thuật có mối quan hệ mật thiết đối với nội dung và hình thức của tác phẩm trữ tình. 1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên trước năm 1975 Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên xuất hiện ở nhiều hình thái khác nhau: khi bộc lộ trực tiếp, khi ẩn khuất, khi như một đối tượng phản ánh, khi thì lại chính là cái tôi tác giả - chủ thể thẩm mỹ, khi thì thiên về nội dung, có khi lại thiên về hình thức…và có sự vận động theo thời gian, gắn liền với các mốc son của lịch sử dân tộc. Về tổng quan, ta có thể thấy sự thể hiện cái tôi trữ tình của Chế Lan Viên trước năm 1975 qua hai chặng đường: trước Cách mạng tháng Tám và trong những năm kháng chiến. 1.2.1. Cái tôi tràn ngập nỗi đau trước Cách mạng tháng Tám 1945 Chế Lan Viên làm thơ từ năm 12 - 13 tuổi. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan thành lập nhóm thơ Bình Định và đã trở thành một hiện tượng độc đáo của nền Thơ Mới. Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) là con “Rồng” (Long), là “ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam”. Thơ Hàn Mặc Tử có hình ảnh đẹp như chính tâm hồn Việt, nhưng lại có những hình ảnh mang chất khủng hoảng; Yến Lan (1916
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan