Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm...

Tài liệu Luận văn nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

.PDF
85
92
92

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN XUÂN NHÂN NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN XUÂN NHÂN NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH TUYÊN Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn của tôi với đề tài “Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu của luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây. Hà Nội, ngày 12 tháng 3 năm 2020 Học viên Trần Xuân Nhân MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ...................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm về phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................................................................... 7 1.2. Căn cứ của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................................... 12 1.3. Nội dung nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................................ 17 1.4. Ý nghĩa nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................................ 22 Chương 2: SỰ THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH BẮC NINH .......................................................................................... 26 2.1. Sự thể hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự 2015 ......................... 26 2.2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Bắc Ninh................................... 37 Chương 3: MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI................................................. 55 3.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .................................................... 55 3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................ 58 KẾT LUẬN .................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 77 DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự NQ: Nghị quyết Tr: Trang HĐXX: Hội đồng xét xử MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật ở nước ta đã có những tác động rõ rệt đối với đời sống của toàn xã hội. Hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các quyền và lợi ích cơ bản của con người, của công dân, bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cùng với các ngành luật khác, pháp luật hình sự là một trong những công cụ hết sức quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội khi phát sinh hành vi nguy hiểm cho xã hội. Luật hình sự có vai trò bảo vệ các quan hệ xã hội, thông qua việc trừng phạt nghiêm minh các hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội, bảo vệ tối đa và toàn diện quyền con người, quyền công dân. Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực được thể hiện dưới dạng những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Do đó, khi một người bị tuyên là có tội thì phải chịu sự trừng phạt của pháp luật về những hành vi mà họ gây ra. Mỗi hành vi phạm tội của từng chủ thể, các giai đoạn cụ thể, trường hợp cụ thể thường có sự khác nhau, do đó TNHS đặt ra đối với họ cũng khác nhau. Việc nghiên cứu nguyên tắc phân hóa TNHS đối với chủ thể là người dưới 18 tuổi được đặt ra có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà còn cả về mặt thực tiễn áp dụng, bởi chủ thể đặc thù trong trường hợp này là người dưới 18 tuổi – những người được coi là tương lai của mỗi các quốc gia là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bác Hồ đã từng dạy “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”, tương lai đất nước “Việt Nam có được vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần rất lớn ở công học tập của các cháu”. 1 Trong những năm qua, tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, cũng như về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi gây ra. BLHS 2015 ra đời với nhiều sửa đổi, bổ sung tiến bộ, được xem là một công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Đồng thời BLHS 2015 (sửa đổi 2017) được đánh giá là Bộ luật thể hiện rõ nhất sự thể hiện nguyên tắc phân hóa TNHS trong các BLHS của nước ta từ trước đến nay. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng qua hơn hai năm thi hành BLHS 2015 đã bộc lộ không ít những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng nguyên tắc phân hóa TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong các quy định về phân loại tội phạm, miễn trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt…Những hạn chế trên chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Do vậy việc nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề lý luận về nguyên tắc phân hóa TNHS đối với người dưới 18 tuổi và thực tiễn áp dụng quy định này là cấp thiết. Vì vậy, học viên xin lựa chọn đề tài: “Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sỹ. 2. Tổng quan nghiên cứu: Trong những năm trở lại đây, đã có một số công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến nội dung nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong BLHS Việt Nam. Có thể kể đến như: Luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ: Cao Thị Oanh (2008), ”Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Xuân Trường (2018), “Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội – Viện 2 hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam; Dương Thị Ngọc Thương (2013), Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học Khoa Luật trường đại học Quốc gia Hà Nội; Đỗ Thị Minh Phượng (2002), Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và sự thể hiện của nó trong Bộ luật Hình sự năm 1999, luận văn thạc sĩ luật học trường Đại học luật Hà Nội; … Các sách, giáo trình: Võ Khánh Vinh, Giáo trình luật hình sự phần chung, Học viện khoa học xã hội, năm 2014; TS. Nguyễn Đức Mai, “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự hiện hành (sửa đổi bổ sung năm 2017)”, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội; Đinh Văn Quế, “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 – Phần thứ nhất: Những quy định chung”, Nxb. Thông tin và truyền thông; … * Các bài báo, tạp chí: Cao Thị Oanh, Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí luật học năm 2007; Nguyễn Ngọc Hòa, “Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự 1999”, Tạp chí luật học năm 2000; Lê Thị Sơn, Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội và sự thể hiện trong Bộ luật hình sự, Tạp chí Luật học năm 2015; Phí Thành Chung, Phân hóa trách nhiệm hình sự của đồng phạm trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Số 3/2016; Cao Thị Oanh, Biểu hiện của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong các quy định về các chế tài hình sự thuộc phần các tội phạm, Tạp chí Nhà nước và pháp luật năm 2006… Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các vấn đề về nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ một tỉnh cụ thể là Bắc Ninh. Do đó luận văn đảm bảo tính mới và không trùng lặp với các đề tài đã được công bố. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và quy định thể hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi, trên cơ sở thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. Từ đó đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Bắc Ninh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ cần được giải quyết như sau: - Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Phân tích sự thể hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi trong một số quy định của BLHS, đánh giá tình hình áp dụng nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó. - Trình bày giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Bắc Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nguyên cứu Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được thể hiện trong một số quy định của BLHS như: Quy định về phân loại tội phạm, miễn trách nhiệm hình sự, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt….. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số quy định hiện hành thể hiện rõ nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Phần thực tiễn được giới hạn trong việc phân tích thực tiễn áp dụng nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong quy định về quyết định hình phạt. - Về địa bàn nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu trong giai đoạn xét xử tại TAND tỉnh Bắc Ninh. - Thời gian nghiên cứu: Các số liệu, kết quả, bản án thu thập trong 05 năm từ năm 2015-2019. 6. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành; những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: thống kế, khảo sát, so sánh, thu thập, phân tích…nhằm làm sáng tỏ, luận giải các luận văn, nội dung nghiên cứu đề tài. 7. Nội dung của Luận văn Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 5 Chương 2: Sự thể hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong bộ luật hình sự 2015 và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh. Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm về phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội Cho đến nay, trong các văn bản pháp luật Việt Nam cũng chưa có một quy định hay định nghĩa cụ thể về người dưới 18 tuổi mà chỉ có thuật ngữ “người chưa thành niên”. Điều 1 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 lại ghi “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi”. Như vậy, theo tinh thần của Công ước thì vấn đề xác định độ tuổi để được coi là trẻ em tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tập quán của mỗi quốc gia mà xác định, phân loại độ tuổi dưới 18 tuổi khác nhau. Ở Việt Nam, xuất phát từ các mối quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nên tại Điều 21 BLDS Việt Nam quy định “Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên; người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”. Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 của Việt Nam có quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Chính từ quy định tùy nghi của Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà BLHS 2015 cũng đã quy định tại Điều 12 về “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự” và Chương XII là “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”, trong đó có quy định phân hóa trách nhiệm hình sự dựa trên hai mức độ chịu trách nhiệm hình sự là “Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi” và “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Tuy chưa có khái niệm cụ thể về người dưới 18 tuổi phạm tội, song trong thực tiễn đời sống, chúng ta đều hiểu rằng: người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, chưa có đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của công dân, chưa có khả năng nhận thức, kiểm soát 7 được suy nghĩ, hành vi của mình. Do đó, người dưới 18 tuổi dễ bị chi phối bởi tác động bên ngoài và thực hiện các hành vi thiếu suy nghĩ chín chắn. Từ sự phân tích trên, có thể hiểu Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm và phải chịu chế tài hình sự do Tòa án áp dụng đối với họ. 1.1.2. Khái niệm trách nhiệm hình sự Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau trong việc đưa ra khái niệm TNHS, có thể kể đến: Theo TSKH.GS. Lê Cảm thì “TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định”[1]. PGS.TS Nguyễn Ngọc Hoà và TS. Lê Thị Sơn thì cho rằng “TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích” 11, tr. 126; Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học có định nghĩa “TNHS là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình”. Hiện nay, BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định chủ thể của tội phạm ngoài cá nhân là người phạm tội thì hiện nay bao gồm cả pháp nhân thương mại nên khái niệm TNHS cũng cần phải được hiểu đầy đủ là trách nhiệm của người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình. Trách nhiệm trong lĩnh vực pháp luật nói chung thường được hiểu theo hai nghĩa: là chức trách, nghĩa vụ, bổn phận phải làm hoặc là hậu quả pháp lý của việc vi phạm pháp luật. Thuật ngữ TNHS không dùng để chỉ nghĩa vụ, bổn phận mà công dân 8 phải thực hiện với Nhà nước và xã hội mà nó phải được hiểu theo nghĩa là hậu quả pháp lý bất lợi mà một người phải gánh chịu trước Nhà nước và xã hội vì họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự bắt buộc phải thực hiện gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ”[26; tr.126]. TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý phản ánh mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước với người phạm tội khi người đó thực hiện tội phạm. Do vậy, để nhận thức đầy đủ và toàn diện về TNHS, việc nghiên cứu khái niệm TNHS không chỉ dừng lại ở trách nhiệm của người phạm tội trước nhà nước mà cần được xem xét đồng thời từ hai góc độ: thực hiện hoạt động truy cứu TNHS từ phía Nhà nước và chịu TNHS từ phía người phạm tội”[27; tr.7]. Tuy đều là hậu quả của việc phạm tội nhưng việc thực hiện truy cứu TNHS từ phía Nhà nước mới đưa đến kết quả phải chịu TNHS của người phạm tội. Thực chất, TNHS chính là nội dung của mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội phát sinh từ thời điểm tội phạm thực hiện hành vi phạm tội. Không chỉ được điều chỉnh bởi BLHS mà mối quan hệ này còn được điều chỉnh bởi cả luật tố tụng hình sự và pháp luật về thi hành án. Nhắc đến vấn đề TNHS chính là nói đến hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể hiện ở chỗ người gây ra tội phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và Nhà nước. Hậu quả pháp lí của việc thực hiện tội phạm đối với người phạm tội không chỉ thể hiện ở trách nhiệm cuối cùng của người phạm tội là bị kết án và phải chịu hình phạt nhất định mà còn thể hiện cả ở việc bị truy cứu TNHS. Như vậy, đối với người phạm tội, chịu TNHS có nghĩa là phải chịu tất cả các hậu quả do việc phạm tội đem lại: phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích. Bản chất của TNHS là sự lên án của Nhà nước đối với người có lỗi khi 9 thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm, Bằng bản án kết tội, Nhà nước chính thức lên án đối với người đã có hành vi phạm tội và trên cơ sở đó thể hiện thái độ phản ứng của mình thông qua việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự như áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp. Những biện pháp cưỡng chế này có đặc điểm chung là đều gây ra những tác động bất lợi về pháp lý đối với người phạm tội nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Từ những phân tích trên, ta có thể định nghĩa: TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý đồng thời là hậu quả pháp lý bất lợi cho người thực hiện hành vi phạm tội với nội dung bao gồm việc phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích. 1.1.3. Khái niệm nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Khái niệm phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra khái niệm, có thể kể đến như: Quan điểm 1: Phân hoá TNHS là sự phân chia các trường hợp phạm tội thành những nhóm khác nhau dựa vào tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó và các đặc điểm nhân thân người phạm tội, đồng thời, phải được xử lý bằng biện pháp hình sự phù hợp. Quan điểm 2: Những hành vi phạm tội cụ thể không những có sự khác nhau về nguyên nhân và điều kiện phát sinh, về tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm phạm mà còn có sự khác nhau ngay ở tính chất và mức độ nguy hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng như ở nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác. “Chính do có sự khác nhau như 10 vậy mà vấn đề phân hoá và cá thể hoá TNHS được đặt ra và được coi là một nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam”. Quan điểm 3: Với vai trò là một nguyên tắc của luật hình sự, phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt “tồn tại xuyên suốt thượng tầng pháp lí hình sự, đó là lý luận về luật hình sự, các quy phạm pháp luật hình sự, các quan hệ pháp luật hình sự và ý thức pháp luật”. Bên cạnh đó, cũng có tác giả cho rằng: “Phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt là hai nguyên tắc có quan hệ biện chứng với nhau”. Quan điểm 4: không giống với cách tiếp cận của các nhà khoa học pháp lý trên, một số tác giả lại cho rằng: Nếu coi nguyên tắc là tư tưởng chỉ đạo, là quy luật của hiện tượng xã hội thì tư tưởng phân hóa bao trùm và thâm nhập không chỉ một ngành luật mà là các ngành luật. Tư tưởng phân hóa hình phạt trong luật hình sự được chuyển hóa vào pháp luật thi hành án hình sự và việc tách bạch chúng là không thể. Chúng mang tính chất liên quan và thâm nhập lẫn nhau. Cho nên, cần đồng ý với quan điểm cho rằng nguyên tắc phân hóa hình phạt là nguyên tắc liên ngành. Như vậy, mặc dù giữa các quan điểm nói trên vẫn tồn tại những khác biệt nhất định nhưng nhìn chung các tác giả đều thống nhất trong việc khẳng định phân hóa TNHS là một nguyên tắc của luật hình sự. Bên cạnh đó, phân hóa TNHS chính là sự phân chia các trường hợp phạm tội thành những nhóm khác nhau dựa theo độ tuổi, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân người phạm tội, từ đó đưa ra quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Nhìn chung, dựa trên cơ sở tham khảo các ý kiến khoa học của các nhà khoa học pháp lý trên và sự nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự hiện hành, học viên xin đưa ra quan điểm về khái niệm nguyên tắc phân hóa TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau: 11 Nguyên tắc phân hóa TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hệ thống những quy định, phân chia các trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội thành những nhóm khác nhau dựa trên độ tuổi, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện và những đặc điểm nhân thân của họ để từ đó quyết định hình phạt hoặc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự phù hợp đối với từng trường hợp phạm tội riêng biệt. 1.2. Căn cứ của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Căn cứ của nguyên tắc phân hoá TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là những tiêu chí để phân hóa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện thành những nhóm khác nhau, từ đó truy cứu TNHS phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Phân hóa TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm 4 căn cứ là: Một là, căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm: Khi nhắc đến vấn đề phân hóa TNHS thì tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm luôn được đề cập hàng đầu, vì đây là yếu tố quyết định xử lý về mặt hình sự đối với các hành vi phạm tội, là tiêu chí thể hiện bản chất của tội phạm. Do đó, nó là căn cứ pháp lý thống nhất cho sự phân hóa TNHS trong chế định tại Phần chung và phần các tội phạm cụ thể, đồng thời ở các quy định của các ngành luật có liên quan là tố tụng hình sự. Tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy định: “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự...”. Cũng tại Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015 quy định 4 loại tội phạm là: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.Việc phân loại như vậy có tác dụng làm cơ sở cho việc phân hóa TNHS nói chung và phân hóa TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. 12 Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thuộc tính được phản ánh qua những yếu tố khác nhau như: tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại, tính chất của hành vi phạm tội, thủ đoạn, phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, mức độ hậu quả mà tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra, tính chất và mức độ lỗi. Việc xác định đúng mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cần phải được đánh giá một cách tổng hợp tất cả các yếu tố có liên quan mà trong đó, mỗi yếu tố cụ thể đều ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội cụ thể như: quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm càng quan trọng thì tội phạm càng nguy hiểm; tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý bao giờ cũng nguy hiểm hơn tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý tương ứng, hậu quả mà tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra càng nghiêm trọng thì tội phạm càng nguy hiểm... Khi phân hóa tội phạm, nhà làm luật không nên chia tách các hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội tương đương nhau thành các nhóm khác nhau để tránh tình trạng quy phạm pháp luật trở nên vụn vặt. Căn cứ vào tính nguy hiểm của hành vi phạm tội để phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi, đã được thể hiện rõ nét tại Điều 12 BLHS 2015 như: Theo khoản 2 Điều 12 của BLHS 1999 quy định thì “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Việc quy định như vậy đã không bảo đảm nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với lứa tuổi này, bởi lẽ trong thực tế có rất nhiều trường hợp người đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phạm những tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nhưng không phải do họ cố ý mà có thể chỉ là bị sai khiến, nhiều trường hợp cũng sẽ không thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý cơ bản để xác định tội phạm. VD: Trường hợp người 15 tuổi phạm một trong các tội về xâm phạm an ninh quốc gia, nhưng là do bị người khác sai khiến chứ họ không hề 13 có mục đích chống lại Chính quyền nhân dân thì không thể truy cứu trách nhiệm họ trong trường hợp này được. Chính vì vậy, khoản 2 Điều 12 BLHS 2015 đã sửa đổi là “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều...”. Theo đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 28 điều luật đã được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 mà thôi. Quy định này đã thể hiện chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi một cách rõ nét và phù hợp với sự phát triển về tâm – sinh lý cũng như nhận thức còn hạn chế của người dưới 18 tuổi. - Hai là căn cứ đặc điểm nhân thân của người phạm tội: Cùng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, các đặc điểm nhân thân người phạm tội thể hiện khả năng giáo dục hoặc hoàn cảnh đặc biệt của họ cũng cần được cân nhắc khi truy cứu TNHS người phạm tội. Để thực hiện được yêu cầu đó trong áp dụng luật đòi hỏi các quy định của luật hình sự cũng phải được phân hóa theo tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm và nhân thân loại người phạm tội. Ngoài ra, hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội cũng là yếu tố cần được cân nhắc khi xác định TNHS của họ (ví dụ: người phạm tội là người già, phụ nữ có thai). Nhân thân người phạm tội được sử dụng là căn cứ phân hóa TNHS vì TNHS (trong đó có hình phạt) được quyết định không chỉ vì người nào đó đã thực hiện tội phạm mà còn nhằm thay đổi bản chất xã hội trong nhân thân của người đó, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Mặt khác, mức độ đạt được các mục đích của việc áp dụng hình phạt hay còn gọi là giá trị thực tiễn của cá thể hóa TNHS một phần phụ thuộc vào mức độ các đặc điểm nhân thân người phạm tội được cân nhắc trong quá trình tác động đối với chính người đó. Đặc điểm nhân thân người phạm tội có thể được quy định trong các tình tiết định khung 14 hình phạt, đồng thời, được quy định trong một số chế định thuộc Phần chung BLHS (như chế định người dưới 18 tuổi phạm tội) và được quy định là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Ngoài ra, theo quy định của BLHS 2015, trong một số trường hợp, đặc điểm xấu về nhân thân người phạm tội được sử dụng trong các quy định mang tính định tội. Lúc này, đặc điểm xấu về nhân thân lại trở thành căn cứ hỗ trợ cho căn cứ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thực hiện để chuyển hành vi vi phạm pháp luật khác thành hành vi phạm tội. Ví dụ: Tại điểm a, b khoản 1 Điều 173. Tội trộm cắp tài sản Tóm lại, trong hai căn cứ phân hóa TNHS, tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bao giờ cũng là căn cứ chủ đạo quy định sự khác biệt về TNHS. Nhân thân người phạm tội chỉ là căn cứ được sử dụng mang tính bổ sung cho căn cứ trên trong một số trường hợp (Ví dụ: phân hóa TNHS giữa những trường hợp phạm tội do chủ thể ở các độ tuổi khác nhau thực hiện). - Ba là, căn cứ vào độ tuổi: Để truy cứu TNHS, thì căn cứ về độ tuổi không thể không được nhắc đến. Theo pháp luật hình sự Việt Nam thì tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi trở lên Độ tuổi người phạm tội được phân hóa không chỉ đối với nhóm tuổi dưới 18 tuổi với nhóm tội trên 18 tuổi; mà ngay trong nhóm tuổi dưới 18 tuổi cũng có sự phân hóa TNHS. Theo đó, độ tuổi dưới 18 tuổi được chia thành 02 giai đoạn là từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi: - Từ đủ 16 tuổi trở lên: Trong độ tuổi này, người phạm tội phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật hình sự có quy định khác. Quy định khác ở đây được hiểu là trong thiết kế điều luật phần tội phạm của BLHS, thì có một số tội mà BLHS đòi hỏi người phạm tội là chủ thể đặc biệt, là người từ đủ 18 tuổi trở lên. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan