Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn nhân vật người trí thức trong tác phẩm của ma văn kháng và giả bình ao...

Tài liệu Luận văn nhân vật người trí thức trong tác phẩm của ma văn kháng và giả bình ao

.PDF
95
119
75

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ DUYÊN NHÂN VẬT NGƯỜI TRÍ THỨC TRONG TÁC PHẨM CỦA MA VĂN KHÁNG VÀ GIẢ BÌNH AO LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ DUYÊN NHÂN VẬT NGƯỜI TRÍ THỨC TRONG TÁC PHẨM CỦA MA VĂN KHÁNG VÀ GIẢ BÌNH AO Ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. Ôn Thị Mỹ Linh THÁI NGUYÊN - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn: “Nhân vật người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Ôn Thị Mỹ Linh. Các nội dung trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Duyên Xác nhận của Khoa chuyên môn Xác nhận của Người hướng dẫn khoa học TS. Ôn Thị Mỹ Linh LỜI CẢM ƠN Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn, khoa sau Đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Ôn Thị Mỹ Linh, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, đồng nghiệp cùng bạn bè đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khóa học này. Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Duyên MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii MỤC LỤC ................................................................................................................ iii MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................3 2.1. Nghiên cứu về Ma Văn Kháng và tác phẩm của ông...........................................3 2.2. Nghiên cứu về Giả Bình Ao và tác phẩm của Giả Bình Ao ................................6 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................10 3.1. Mục đích nghiên cứu ..........................................................................................10 3.2. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................10 3.3 Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................10 4.Phương pháp nghiên cứu........................................................................................10 5. Đóng góp của luận văn ..........................................................................................11 6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................................11 Chương 1. MA VĂN KHÁNG VÀ GIẢ BÌNH AO TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI VĂN HỌC .......................................................................................................12 1.1. Ma Văn Kháng trong bối cảnh đổi mới văn học của Việt Nam........................12 1.1.1. Bối cảnh đổi mới văn học Việt Nam ...............................................................12 1.1.2. Tác giả Ma Văn Kháng ...................................................................................14 1.1.3. Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú .........17 1.2. Giả Bình Ao và bối cảnh đổi mới văn học của Trung Quốc .............................19 1.2.1. Bối cảnh đổi mới của văn học Trung Quốc ...................................................19 1.2.2. Tác giả Giả Bình Ao ......................................................................................24 1.2.3. Tiểu thuyết Phế đô, Nôn Nóng........................................................................27 *Tiểu kết ...................................................................................................................29 Chương 2. CHÂN DUNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC TRONG TÁC PHẨM CỦA MA VĂN KHÁNG VÀ GIẢ BÌNH AO ................................30 2.1. Người trí thức với nỗi đau thân phận .................................................................30 2.1.1. Bi kịch bị tha hóa nhân cách trước danh vọng, vật chất .................................31 2.1.2 Bi kịch hôn nhân gia đình ...............................................................................39 2.2. Giữ gìn, phát huy phẩm chất tốt đẹp ..................................................................45 2.3. Tự ý thức và khát vọng vươn lên .......................................................................51 Tiểu kết: ...................................................................................................................55 Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT NGƯỜI TRÍ THỨC TRONG TÁC PHẨM CỦA MA VĂN KHÁNG VÀ GIẢ BÌNH AO................56 3.1. Điểm nhìn trần thuật...........................................................................................56 3.1.1. Điểm nhìn bên trong........................................................................................56 3.1.2. Điểm nhìn bên ngoài .......................................................................................60 3.2. Đối thoại, độc thoại nội tâm ...............................................................................64 3.2.1. Dựng đối thoại .................................................................................................64 3.2.2. Độc thoại .........................................................................................................69 3.3. Giọng điệu nghệ thuật ........................................................................................74 3.3.1. Giọng điệu triết lí, lí luận ................................................................................74 3.3.2. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm .....................................................................78 Tiểu kết: ...................................................................................................................82 KẾT LUẬN ..............................................................................................................83 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................85 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Ma Văn Kháng là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam đương đại, là nhà văn có nhiều đóng góp cho công cuộc đổi mới tư duy nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam. Vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi tính dân chủ công khai chưa trở thành “một không khí tinh thần bao trùm toàn xã hội” nhưng sáng tác của Ma Văn Kháng đã đón trước yêu cầu “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá sự thật, nói rõ sự thật” tạo nên những cuộc tranh luận sôi nổi trên các diễn đàn văn học nghệ thuật. Các tác phẩm Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989) đã thu hút được đông đảo sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học và độc giả yêu văn chương trong cả nước. Ma Văn Kháng sáng tác đều tay và thành công trên nhiều đề tài khác nhau. Viết về đề tài miền núi, ngòi bút của ông hướng đến sự phản ánh đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi trong công cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới và toàn vẹn lãnh thổ, về cuộc sống lao động của những người dân miền núi Tây Bắc can trường nhưng rất mực nhân hậu, thủy chung. Viết về đề tài thành thị, ông quan tâm nhiều đến sự bộn bề, đa cực, đa giá trị của cuộc sống thời kì mở cửa. Đề tài người trí thức, đề tài về gia đình được ông quan tâm, phản ánh và đã có những thành công nhất định. Giả Bình Ao là nhà văn hiện đại Trung Quốc quen thuộc với độc giả Việt Nam. Ông sinh ngày 21/2/1953 tại một làng quê nghèo khó huyện Đan Phượng, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Cội nguồn văn hóa Thiểm Tây phong phú, kì bí cùng những trải nghiệm về một tuổi thơ đầy sóng gió đã sớm hình thành ở ông những suy tư đầy tính triết lí về thân phận con người cũng như hình thành ở nhà văn một tâm thế văn hóa và một quan niệm giá trị mang đầy bản sắc thiền khi ông nhìn nhận mọi sự vần xoay của cuộc đời. Là một tài năng văn học trẻ khi mới 25 tuổi, Giả Bình Ao đã có tập truyện ngắn Mãn Nguyệt Nhi đạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc lần thứ nhất. Danh hiệu này còn được giữ ở mùa giải sau với tập tản văn Dấu vết tình yêu và truyện vừa Tháng chạp. Ngoài ra, Giả Bình Ao còn nhận được giải thưởng lớn của văn học Mĩ, Pháp. Được đánh giá là một cây bút đa tài, Giả Bình Ao đã thử sức và thành công ở cả ba thể loại: truyện ngắn, tản văn và tiểu thuyết. Nếu như tiểu thuyết Nôn Nóng 1 (1986) đánh dấu sự thành công ở giai đoạn sáng tác đầu tiên của tác giả thì tiểu thuyết Phế đô (1993) lại được coi là tác phẩm mở đầu cho giai đoạn sáng tác thứ hai và cũng là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông tính tới thời điểm này. Với sự xuất hiện của Phế đô, sáng tác của Giả Bình Ao đã bước sang chặng đường sáng tác mới với nhiều thành quả rực rỡ “Giả Bình Ao đã thực sự bước vào trung tâm của đời sống văn học, thực sự và cả đột ngột với nhiều người” [15, tr.12]. Giai đoạn này được xem như một bước ngoặt thể hiện sự chuyển đổi trong đề tài sáng tác của nhà văn. Nếu các tác phẩm ở giai đoạn trước của Giả Bình Ao viết về con người nông thôn thì đến tác phẩm Phế đô, Giả Bình Ao lại viết về đời sống người trí thức ở thành thị. Trải qua sự thử thách lâu dài của thời gian, sáng tác của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao vẫn ngày càng thu hút sự quan tâm của bạn đọc trong và ngoài nước. Điều đó chứng tỏ, sáng tác của hai nhà văn này vừa mang giá trị dân tộc đặc thù vừa phản ánh những giá trị phổ quát chung của văn học nhân loại. 1.2. Đối với bạn đọc Việt Nam, Ma Văn Kháng và tác phẩm của ông rất quen thuộc và gần gũi. Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về sáng tác của ông. Giả Bình Ao cũng là một hiện tượng văn học lớn không xa lạ với bạn đọc Việt Nam. Tác phẩm của ông thu hút sự quan tâm của đông đảo nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Đọc tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao chúng tôi nhận thấy kiểu nhân vật được hai nhà văn này quan tâm là nhân vật người trí thức. Kiểu nhân vật này xuất hiện nhiều trong sáng tác của hai nhà văn và đã gây nên một xúc cảm mạnh mẽ trong lòng người đọc, đặc biệt là hình ảnh người trí thức trong thời kì đổi mới của Việt Nam và Trung Quốc. Ở Việt Nam, cho đến nay chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về nhân vật người trí thức của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao trong mối quan hệ đối chiếu so sánh. Đây là những lí do thúc đẩy chúng tôi lựa chọn đề tài Nhân vật người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao. Thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung nhận diện chân dung người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao, thấy những điểm tương đồng và khác biệt của kiểu nhân vật này; lí giải sự tương đồng và khác biệt đó trên cơ sở phong cách sáng tác, đặc điểm lịch sử, xã hội, văn hóa dân tộc. 2 2. Lịch sử vấn đề Với đề tài Nhân vật người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao, chúng tôi tập trung xem xét những tư liệu có liên quan đến nhân vật người trí thức trong sáng tác của hai nhà văn. Qua tổng hợp tư liệu, chúng tôi nhận thấy, mặc dù chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề nhân vật người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao từ góc nhìn so sánh nhưng ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết, luận văn đề cập riêng biệt tới người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và cùng vấn đề này trong sáng tác của Giả Bình Ao. 2.1. Nghiên cứu về Ma Văn Kháng và tác phẩm của ông Mùa lá rụng trong vườn (1985) được coi là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển biến của nhà văn vì tác phẩm có nhiều đóng góp cả về nội dung và nghệ thuật, chứng tỏ sự thâm nhập của nhà văn vào xã hội thành thị đang biến động. Tác giả Trần Đăng Suyền trong bài Phải chăm lo cho từng người trên báo Văn nghệ số 40 ra ngày 5/10/1985 khẳng định: “Cái làm nên sức hấp dẫn trong tác phẩm không phải ở những trang chính luận thông minh, sắc sảo mà chủ yếu là ở những hình tượng nhân vật khá độc đáo, hấp dẫn của anh”. Năm 1999, trong cuộc thảo luận tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Hồ Anh Thái đã nhận xét: “Ma Văn Kháng đã xây dựng nên nhân vật chị Lý, kiểu đàn bà thị dân đầy chất tiểu thương, miệng lưỡi hoạt ngôn, đưa đẩy, uyển chuyển thực dụng sành sỏi mà ngây thơ nông cạn, đanh đá bốc đồng mà cũng có lúc chín chắn muốn phục thiện. Ngôn ngữ linh hoạt đầy màu sắc của nhân vật này khiến người ta liên tưởng đến một người bạn của Ma Văn Kháng, một con người đã ám vào nhiều nhân vật phụ nữ sau này của anh trong các truyện ngắn Vòng quay cổ điển, Những người đàn bà... đặc biệt đậm đặc trong nhân vật Hoan ở Ngược dòng nước lũ”. Sự ra đời của tiểu thuyết luận đề Đám cưới không có giấy giá thú (1989) đã tạo ra một làn sóng dư luận trong cả nước. Trên báo Nhân dân số ra ngày 4/8/1990, tác giả Lê Thành Nghị trong bài viết Về người trí thức trong Đám cưới không có giấy giá thú đã nói lên sự lung lay niềm tin của một số trí thức khi phải đối diện với bất công, cảnh báo về sự tha hóa nhân cách của một bộ phận trong đội ngũ những người trí thức. 3 Tác giả Phong Thu trong bài Tâm sự với tác giả Đám cưới không có giấy giá thú đăng trên báo Hà Nội chủ nhật số ra ngày 6/5/1990 cũng có những đánh giá cao về nhân vật người trí thức trong tác phẩm và chỉ ra những lực cản ngăn trở người trí thức cống hiến tài năng cho xã hội. Trong bài Đám cưới không có giấy giá thú- một cách nhìn nhận về người thầy đăng trên báo Giáo viên nhân dân số 16 ra ngày 18/4/1990 tác giả Đào Thanh Tùng lại bày tỏ cách nhìn lo ngại trước cái nhìn méo mó về người trí thức trong tác phẩm. Trong cuộc thảo luận về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú do báo Văn nghệ tổ chức ngày 11/1/1990, với sự tham gia của nhiều nhà văn, nhà lý luận phê bình nổi tiếng, tác giả Phan Cự Đệ đã nhận xét: “Trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú, nhà văn Ma Văn Kháng đã phản ánh được cái bi kịch của một nhà giáo, một tri thức, anh ta lúc thì đóng vai một nhà hiền triết, một nhân cách cao cả và thánh thiện nhưng lại bị ném vào một môi trường mà các giá trị tinh thần đang bị đảo lộn: một môi trường bị ô nhiễm, bị băng hoại về đạo đức và nhân phẩm, lúc thì hiện ra như một con người mơ mộng và lãng mạn, hay đỏ mặt vì mặc cảm và sĩ diện nhưng lại bị nhúng chìm trong cái biển đời thường dung tục, ở đó hàng ngày diễn ra cái cảnh chen lấn, cướp đoạt một cách trâng tráo, vô sỉ, lúc là một người say mê nghề nghiệp, nhiều hoài bão và khát vọng, muốn chiếm lĩnh các đỉnh cao khoa học nhưng lại bị vây bủa bởi một xã hội thực dụng và cơ hội, một xã hội tiêu thụ đang lên cơn sốt với những đam mê và khoái lạc, với khát vọng làm giàu, khát vọng chiếm đoạt quyền lực bằng bất cứ giá nào! Nhân vật anh giáo Tự phảng phất một mô-típ đã quen thuộc trong văn xuôi Việt Nam và thế giới: lúc là Đôn Ki-hô-tê một mình một dáo dũng cảm xông lên đánh nhau với lũ yêu quái, lúc lại là ông giáo Thứ đang sống mòn và chết mòn trong sạch một cách thụ động ở cái trường tư ngoại ô, lúc là một Hoàng thân Mưt-skin, một Pi-e Bê-du-khốp nhưng nhuốm màu sắc triết học phương Đông. Ma Văn Kháng đã viết về cái “bi kịch vỡ mộng” của một “bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một cuốn sách hay để lầm chỗ” đó một cách viết rất tâm huyết, với tất cả suy nghĩ và trăn trở, niềm khát vọng và nỗi đau của một nhà văn trước thời cuộc, trước tình trạng xuống cấp về trình độ tư duy và phẩm chất đạo đức ngay trong một số người tự cho mình là cán bộ lãnh đạo, là trí thức hoặc kỹ sư của tâm hồn. Ma Văn Kháng đã nói lên 4 được cái tâm sự có thật của những trí thức có tâm huyết, có hoài bão. Cách lý giải có thể còn phải bàn cãi, nhưng điều đáng trân trọng là tấm lòng trung thực và trong sáng của người cầm bút, là những trang viết chân thành và xúc động” [23, tr.15]. Cuốn tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ sau khi ra đời năm 1999 lại tiếp tục gây sự chú ý trong dư luận. Trong cuốn Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ ( NXB Hội nhà văn Hà Nội, năm 2000), tác giả Nguyễn Ngọc Thiện có ý kiến: “Tư tưởng của Ma Văn Kháng ánh lên các sắc thái thẩm mĩ khác nhau: cái lý tưởng, cái cao cả đi bên cạnh những cái đê tiện, thấp hèn, cái bi tráng, trữ tình, thăng hoa ngẫu hứng đan xen với cái hài hước, thô kệch, dung tục, sắp đặt lộ liễu. Giọng điệu và mạch văn cũng được biến hóa linh hoạt… Tác phẩm đạt đến trình độ điêu luyện trong ngôn ngữ kể và tả, đối thoại và độc thoại” [85, tr.45]. Ngoài ra các ý kiến đánh giá riêng về tác phẩm, những vấn đề lớn trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng cũng trở thành đề tài cho nhiều nhà nghiên cứu. Đỗ Hải Ninh trên tạp chí Sông Hương năm 2002 đã có những nhận định khái quát về nhân vật người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng: “Đúng như bản chất của giới mình, nhân vật người trí thức trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng luôn ý thức sâu sắc về bản thân, nghề nghiệp…Ý thức đó gắn với nhu cầu khám phá nhận thức thế giới, khiến cho nhân vật trí thức trở thành nơi hội tụ, đúc kết tư tưởng và chân lý” [44, tr.24]. Trần Bảo Hưng trong bài viết Người trí thức trong Đám cưới không có giấy giá thú lại có cái nhìn khá cụ thể: “Những người trí thức có năng lực thực sự, có tâm huyết nhưng bị cuộc đời xô đẩy, trôi dạt, bị hành hạ đến điêu đứng bởi bàn tay tàn bạo của những con người mang thẻ Đảng, mang danh trí thức nhưng hoặc là dốt nát, hoặc là cá nhân vị kỉ, ác độc, thâm hiểm, đã lũng đoạn thao túng, gây nên biết bao là đổ vỡ, bi kịch cho xã hội, cho những người lương thiện”[30, tr.22]. Tác phẩm của Ma Văn Kháng nói chung, hình tượng người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng nói riêng là vấn đề được quan tâm nghiên cứu trong một số luận văn, luận án như Nhân vật trí thức với sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết sau 1980 của Phạm Thị Kim, Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng của Đỗ Thị Thanh Quỳnh, Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng của Bùi Lan Hương, Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kì đổi mới của Lê Minh Chung… 5 2.2. Nghiên cứu về Giả Bình Ao và tác phẩm của Giả Bình Ao Giả Bình Ao thuộc thế hệ nhà văn thứ năm trong văn đàn Trung Quốc, là một trong số rất ít những cây bút lớn đang được đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước đổ xô đi tìm đọc tác phẩm. Tác phẩm của ông đã thu hút sự quan tâm của đông đảo nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Do năng lực ngoại ngữ hạn chế, chúng tôi không có điều kiện khảo sát trực tiếp các công trình nghiên cứu về Giả Bình Ao của các học giả Trung Quốc mà chỉ có thể tìm hiểu một phần rất nhỏ các công trình nghiên cứu của họ thông qua các bản dịch trên sách báo và tạp chí xuất bản trong nước. Tam Mao - một cây bút nổi tiếng ở Đài Loan có viết: “Tôi đặc biệt yêu thích sách của Giả Bình Ao- nhà văn Thiểm Tây… Truyện Thiên Cẩu và Nôn Nóng, tôi đọc một lần đã mê tít, đọc luôn ba lần, nghiên cứu từng dấu chấm, dấu phảy, hay vô cùng. Anh dùng từ lạ lắm, thú vị lắm, mỗi lần đọc xong tôi đã khóc, hai mắt nhạt nhòa. Sách của anh viết hay lắm, tôi đọc nhiều sách, song không có loại nào tôi đọc mấy lần liền như sách của anh, hễ có thời gian là đọc” [1, tr.6]. Tìm hiểu về Giả Bình Ao, trong lời dịch cuốn Tản văn và truyện ngắn Giả Bình Ao, dịch giả Vũ Công Hoan có trích dẫn lời nhận định của nhà văn Lôi Đạtnhà văn Trung Quốc về sáng tác của Giả Bình Ao: “Giả Bình Ao giàu trí tuệ và nhạy cảm, dường như chịu đựng nhiều đau khổ và lo âu hơn người thường. Những tác phẩm của anh có tính thăm dò thử nghiệm và cũng từng nổi cơn bão tố, có vinh quang, có thất bại. Có điều anh đã quen với quạnh vắng, kiên trì sáng tác, không vì danh, cũng không vì lợi. Người tài trời ban, dường như anh sinh ra là dành riêng cho văn học và sống cho văn học. Trên các lĩnh vực tản văn, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, tùy bút, thơ ca, anh đều có sự sáng tạo và cống hiến phi phàm. Những thể loại khác nhau ấy dường như được ánh sáng linh hồn anh chiếu vào và tỏa ra những màu sắc rực rỡ” [1, tr.7]. Ở Việt Nam, Vũ Công Hoan là người dịch và giới thiệu Giả Bình Ao từ khi những tác phẩm đầu tay của Giả Bình Ao được xuất bản. Ông đã từng viết trong lời tựa cuốn sách Phế đô :“Trong 14 tập tuyển văn đồ sộ của Giả Bình Ao, tiểu thuyết Phế đô đã gây xôn xao dư luận nhất cả nước…Ngay trong lúc Phế đô chưa chính thức xuất bản hoặc vừa mới xuất bản đã có những người đặt ngang hàng Phế đô 6 với Hồng lâu mộng và Kim bình mai, là Hồng lâu mộng và Kim bình mai hiện đại. Trong lĩnh vực miêu tả và khắc họa người trí thức thì Phế đô là tác phẩm hay nhất. Giới văn học Trung Quốc đã một thời tranh luận rộ lên về cuốn sách này, thậm trí có địa phương còn tổ chức hội thảo văn học học thuật về Phế đô và hiện tượng Phế đô. Trong hội thảo có người khen, người chê, người thì khen trong chê, người thì chê trong khen, người bảo Phế đô thật, người bảo Phế đô giả, người bảo Phế đô thiện, người bảo Phế đô ác, người bảo Phế đô đẹp, người bảo Phế đô xấu” [2, tr.6]. Trước những ý kiến trái ngược nhau về cuốn tiểu thuyết, Giả Bình Ao đã phải lên tiếng. Ông không muốn gán cho người ta quá nhiều định danh như thế: “Phế đô chẳng thật, chẳng giả, chẳng xấu, chẳng đẹp, chẳng thiện, chẳng ác. Phế đô chẳng là gì cả. Phế đô là Phế đô mà thôi”[4, tr.6]. Trong bản dịch tác phẩm, Vũ Công Hoan đã nêu ra nhận định khái quát về các nhân vật trong Phế đô: “Qua mối liên hệ đan xen giữa các nhân vật, mà chủ yếu là danh nhân Trang Chi Điệp với những người đàn bà cùng những người thân cận của anh, toàn bộ đời sống hiện thực và tâm linh của con người đang tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa được tái hiện sống động với những số phận khác nhau và tính cách tiêu biểu qua các trang viết của Phế đô, mỗi bạn đọc đều có những cảm thụ riêng, chẳng hạn không nên vứt bỏ cái sẵn có trong tay để tìm hắt bóng, khi người ta đã phạm sai lầm lần đầu tiên sẽ có thể liên tiếp dấn thân vào sai lầm thứ hai, thứ ba… Khi con người cho dù là nhân vật tiếng tăm, song đã thoái hóa, suy đồi, và khi thực trạng đầy rẫy bệnh hoạn, thì theo quy luật tuyển chọn tự nhiên tất sẽ bị phế bỏ, không ai đánh đổ được mình trừ chính mình. Quả thật trong đời sống xã hội đã không ít những người vô tình hay hữu ý hủy hoại bản thân và môi trường mình đang sống. Đọc Phế đô càng làm cho ta cảm thấy sâu sắc sự cần thiết phải sống trong sáng, lương thiện và trung thực biết nhường nào”[4, tr.6]. Khi dịch cuốn Tản văn và truyện ngắn Giả Bình Ao, nhà nghiên cứu Vũ Công Hoan đã nhận xét về văn phong của nhà văn này: “Giả Bình Ao không ham quyền lực, niềm say mê và mục tiêu duy nhất của đời anh là suốt đời vì văn, vì người. Anh ví mình đang bê hòn đá kéo lúa leo lên bậc thềm, không dám buông tay, hễ buông tay là hòn đá rơi xuống. Sự nghiệp vì văn, vì người của anh chỉ có dũng cảm, kiên trì như bê hòn đá kéo lúa leo bậc thềm mới tới đích… Văn anh ngắn gọn, 7 hàm súc, ngôn từ chính xác đắc địa, từ đầu chí cuối chan chứa một tình cảm chân thành, giữa các dòng chữ bao giờ cũng toát lên triết lí cuộc sống, hào quang trí tuệ và những ước ao, hi vọng, gửi gắm. Anh miêu tả hiện thực đời sống y như nó có sát với từng đối tượng, sống động như cuộc sống. Anh là người thư kí trung thành của thời đại” [1, tr.6]. Về hình ảnh người trí thức trong tiểu thuyết của Giả Bình Ao, trong một số công trình, các nhà nghiên cứu cũng đã đề cập tới. Phạm Tú Châu là người đầu tiên ở Việt Nam giới thiệu và đánh giá toàn diện văn nghiệp của Giả Bình Ao trên ba lĩnh vực: tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn. Nhà nghiên cứu viết: “Ở chặng đầu tiên, nhất là vào thời kì đầu, tiểu thuyết của ông đậm đà sắc thái đồng quê và phong tục dân gian, xoay quanh một chủ đề là cải cách xã hội ở nông thôn. Sinh trưởng và sinh sống trong không gian văn hóa đồng quê, Giả Bình Ao rất thông thạo phong tục dân gian ở nông thôn nhất là vùng Thiểm Tây quê hương ông và cũng nắm vững truyền thống văn hóa đất nước do đó tái tạo rất sinh động và thành công con người cùng hình thái sinh tồn của thôn quê. Tiểu thuyết của ông hấp dẫn người đọc chẳng những vì góc cạnh sù sì, đặc thù của nhân vật mà còn vì nét thần bí vốn có trong văn học dân gian Trung Quốc cũng phảng phất trong đó”[15, tr.15]. Đến chặng sau: “Từ một nhà văn nhiệt thành với cải cách đến mức độ đề ra cả phương án hết sức cụ thể cho công cuộc cải cách nông thôn, nhà văn trở nên đau khổ, day dứt và cảm thấy trong lúc thời đại biến động gay gắt này, trí thức dường như chỉ là phế nhân, chẳng dùng vào được việc gì. Ông đặt mình vào người trí thức thành phố, thử cố gắng biểu hiện những lo âu, trăn trở, bối rối vì mất phương hướng của họ, cho họ chìm đắm trong những thú vui đồi phế mang đặc sắc bản thể của văn hóa Trung Quốc để nêu lên một vài mặt nghiêng của thành phố hiện nay. Trong đó có sự suy đồi của xã hội và tâm thế hồi mạt thế của con người”[15, tr.16]. Về truyện ngắn Giả Bình Ao, Phạm Tú Châu cho rằng: “Nó mang đậm triết lí cổ Trung Hoa, trong đó có triết lí đạo Thiền: Thợ săn: “Săn đuổi vật gì tất biến thành vật đó”; Người đào sâm: “Đạo tặc không phải từ ngoài vào mà có sẵn ở trong tâm và chính cái tâm tặc này khiến con người bỏ mạng”[15, tr.45]. Phạm Ánh Sao khi tìm hiểu tiểu thuyết Phế đô cũng đã có những ý kiến về các nhân vật: “Phải khẳng định rằng Phế đô đối với văn đàn Trung Quốc lúc bấy giờ tuy không phải của độc, hoàn toàn mới mẻ nhưng nó thực sự đã gây dị ứng và 8 phản cảm cho một bộ phận các nhà phê bình và độc giả vốn trước nay chỉ quen đọc những tác phẩm lời hay ý đẹp, với những hình tượng nhân vật được phân tuyến rõ ràng…chịu sự chế ước của sự thực và tính khách quan, được mô tả hợp tình, hợp lý theo một quy luật hay quá trình khách quan nào đó”[71, tr.12]. Trịnh Thị Quỳnh với luận văn thạc sĩ Huyền thoại trong tiểu thuyết Phế đô của Giả Bình Ao, trong khi khai thác vấn đề huyền thoại cũng đã đề cập tới con người tâm linh và con người tha hóa: “Chúng tôi nhận thấy con người tâm linh, đời sống tâm linh trong Phế đô thường được nhìn bằng con mắt của huyền thoại. Các biểu hiện phổ biến của đời sống tâm linh: niềm tin tôn giáo, khả năng linh cảm, giấc mơ… đồng thời là những hình tượng nghệ thuật gián tiếp, có tầm khái quát lớn lung linh, đa nghĩa. Trang Chi Điệp của Giả Bình Ao tuy chưa đạt đến mức độ xa lạ hơn một kẻ xa lạ song cảm giác được cũng mất mà thua cũng mất cũng như trạng thái buông xuôi cuối tác phẩm gợi người ta nghĩ đến bóng dáng của con người tha hóa- sản phẩm của cái phi lí trong cuộc đời”[70, tr.43]. Trong khóa luận tốt nghiệp Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Phế đô của Giả Bình Ao, Nguyễn Quỳnh Ngân khi khai thác quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người đã viết : “Đặt con người trong mối quan hệ với môi trường xã hội hiện đại, Giả Bình Ao đã nêu lên vấn đề con người phải đối mặt với đó là sự tha hóa. Trong mối quan hệ với chính nó, Giả Bình Ao không ngần ngại đi sâu vào bản chất bên trong của con người, đột phá vào những khu cấm, tiến tới một cái nhìn chân thực nhất về con người, con người hiện ra trong cả cái tốt và cái xấu, phần bản năng lẫn ý thức và cả phần tâm linh vô thức”[52, tr.25]. Từ những khảo sát trên đây, chúng tôi nhận thấy, các công trình nghiên cứu đều đã ít nhiều đề cập tới vấn đề người trí thức trong sáng tác của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao, nhưng mới chỉ dừng lại ở những nhận xét, đánh giá, chưa được so sánh tìm hiểu một cách có hệ thống. Luận văn của chúng tôi tiến hành tìm hiểu so sánh về nhân vật người trí thức trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao để có cái nhìn toàn diện hơn về giới trí thức trong xã hội Việt Nam và Trung Quốc thời kì mở cửa. Và chúng tôi nhận thấy đây là một vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, cần thiết được nghiên cứu để hiểu hơn về các sáng tác của hai nhà văn. 9 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi hướng tới việc nhận diện chân dung tinh thần của người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao trong mối tương quan với các nhân vật trí thức trong giai đoạn văn học trước và cùng thời. Đồng thời, khái quát được những nét cơ bản về nghệ thuật thể hiện nhân vật người trí thức trong sáng tác của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao. Qua đó, thấy được thông điệp của hai nhà văn chuyển tải qua việc khắc hoạ chân dung người trí thức: thể hiện cái nhìn phản tư về đời sống và đổi mới tư duy nghệ thuật của hai nhà văn. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Nhân vật người trí thức trong giai đoạn đổi mới của xã hội Việt Nam và xã hội Trung Quốc trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao. 3.3 Phạm vi nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu nhân vật người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao, chúng tôi chọn và khảo sát hai cuốn tiểu thuyết của Ma Văn Kháng: Mùa lá rụng trong vườn; Đám cưới không có giấy giá thú và hai cuốn tiểu thuyết của Giả Bình Ao: Phế đô; Nôn Nóng. Sở dĩ chúng tôi lựa chọn bốn cuốn tiểu thuyết trên vì đây là những tác phẩm tiêu biểu viết về người trí thức của hai nhà văn trong thời kì đổi mới ở Việt Nam và Trung Quốc. Qua các tác phẩm này, hai nhà văn đã thể hiện một cách tập trung nhất hình ảnh của người trí thức trong xã hội Việt Nam và Trung Quốc thời kì đổi mới đồng thời thấy được tài năng nghệ thuật của hai nhà văn trong việc xây dựng nhân vật người trí thức. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn tiến hành khảo sát một số tác phẩm viết về người trí thức của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Nam Cao, Lỗ Tấn và một số tác giả phương Tây hiện đại để có những so sánh làm nổi bật những nét khác biệt của nhân vật trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao. 4. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thiện đề tài này, từ lý thuyết nghiên cứu văn học so sánh, chúng tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như phương pháp tiếp cận tác 10 phẩm từ góc nhìn văn hóa - xã hội, phương pháp nghiên cứu thi pháp học, phương pháp phê bình tiểu sử. Từ góc nhìn văn hóa - xã hội chúng tôi tiến hành nghiên cứu tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao trong mối liên hệ mật thiết với hoàn cảnh văn hóa, xã hội Việt Nam và Trung Quốc thời kì đổi mới. Phương pháp nghiên cứu thi pháp học được chúng tôi sử dụng với mục đích phân tích những biểu hiện của hình tượng nhân vật người trí thức trong thế giới nghệ thuật của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao. Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng phương pháp phê bình tiểu sử để thấy được sự tác động qua lại giữa cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao, làm sáng tỏ những căn cứ để lí giải đặc điểm nhân vật người trí thức trong tác phẩm của hai nhà văn. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng các thao tác thống kê, phân loại, bình giá để làm rõ hơn vấn đề cần nghiên cứu. 5. Đóng góp của luận văn Trên cơ sở tìm hiểu chân dung người trí thức và nghệ thuật phác họa chân dung người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao, chúng tôi mong muốn có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về giới trí thức Việt Nam và Trung Quốc trong thời kì xã hội đổi mới. Qua đó, khẳng định những giá trị nhân văn có tính nhân loại được chuyển tải trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm có ba chương: Chương 1: Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao trong bối cảnh đổi mới văn học Chương 2: Chân dung tinh thần của người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao Chương 3: Nghệ thuật thể hiện nhân vật người trí thức trong tác phẩm của Ma Văn Kháng và Giả Bình Ao 11 Chương 1 MA VĂN KHÁNG VÀ GIẢ BÌNH AO TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI VĂN HỌC 1.1. Ma Văn Kháng trong bối cảnh đổi mới văn học của Việt Nam 1.1.1. Bối cảnh đổi mới văn học Việt Nam Mười năm sau giải phóng miền Nam, tuy đã có những nỗ lực đáng kể trong công cuộc khôi phục phát triển kinh tế, văn hóa nhưng về cơ bản Việt Nam vẫn là một nước chậm phát triển, đời sống vật chất thấp, nhiều vấn đề phức tạp trong đời sống nảy sinh. Làm thế nào để có một nền kinh tế phát triển, một nền văn hóa tiên tiến để có thể hội nhập với thế giới đang là một vấn đề cấp thiết đặt ra. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 diễn ra như một yêu cầu tất yếu của lịch sử. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật và nghiêm túc phê phán, đại hội đã chỉ rõ những nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển, trên cơ sở đó, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã có những chủ trương đổi mới mang tính đột phá. Ông kêu gọi “đổi mới tư duy” và thực hiện “những việc cần làm ngay” để đổi mới trên cả lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa. Đặc biệt Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 thông qua Nghị quyết về đổi mới nền văn học, coi đổi mới văn học là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất nước. Nghị quyết VI của Đảng luôn luôn đặt cho văn học nghệ thuật một nhiệm vụ mới quan trọng đó là: “Bảo đảm tự do dân chủ cho mọi sáng tạo của văn học nghệ thuật, tạo điều kiện làm việc thuận lợi để phát huy hiệu quả của lao động nghệ thuật”. Văn nghệ phải biết cổ vũ cái tốt, phê phán cái xấu, chống các khuynh hướng trái với đường lối văn nghệ của Đảng. Công cuộc đổi mới đã đáp ứng đúng nguyện vọng của các nhà văn và độc giả cũng như quy luật phát triển khách quan của lịch sử và nó trở thành phong trào mạnh mẽ. Văn học Việt Nam thời kỳ sau chiến tranh có thể tạm thời chia làm hai giai đoạn: 1975-1985, 1986 đến nay. Giai đoạn 1975- 1985 là giai đoạn khởi động của văn học thời kỳ đổi mới. Gọi là giai đoạn khởi động vì nếu chỉ nhìn bề ngoài thì văn học dường như vẫn vận động theo quán tính của văn học thời chiến tranh. Đề tài chiến tranh lúc này vẫn là đề tài cơ bản của văn học và được thể hiện chủ yếu theo khuynh hướng tổng kết, 12 khái quát về chiến tranh thông qua sự trải nghiệm của mỗi nhà văn, nhà thơ trong suốt những năm trực tiếp cầm súng. Thơ ca chưa có nhiều đổi mới nên không tạo được sự hấp dẫn lôi cuốn như thơ ca thời kỳ chống Mỹ. Những tác phẩm được quan tâm không nhiều. Đáng chú ý hơn cả có: Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố và Thư mùa đông của Hữu Thỉnh, Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu, Tự hát của Xuân Quỳnh, Người đàn bà ngồi đan của Ý Nhi, Ánh trăng của Nguyễn Duy, Xúc sắc mùa thu của Hoàng Nhuận Cầm, Nhà thơ và hoa cỏ của Trần Nhuận Minh, Gọi nhau qua vách núi của Thi Hoàng… Có một số cây bút xuất hiện sau năm 1975 đang từng bước khẳng định được vị trí, tiêu biểu có Y Phương với tập Tiếng hát tháng giêng, Nguyễn Quang Thiều với Sự mất ngủ của lửa… Văn xuôi có nhiều khởi sắc hơn thơ ca, các nhà văn đã thể hiện được cái nhìn mới khi tiếp cận hiện thực. Tiêu biểu có Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Hai người trở lại trung đoàn của Thái Bá Lợi, Đứng trước biển và Cù lao tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Cha và con và Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải, Mưa mùa hạ và Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lựu, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê của Nguyễn Minh Châu… Văn học dịch thời kỳ này rất phát triển. Nó đã đem đến cho độc giả Việt Nam những tác phẩm đặc sắc nhất thuộc các trường phái nghệ thuật khác nhau của các tác gia châu Âu và châu Mỹ đương đại cùng một số công trình nghiên cứu lý luận mới của phương Tây. Việc tiếp thu các thành tựu lý luận phương Tây đã đem đến cho cả người đọc, người sáng tác và người nghiên cứu những góc nhìn mới hơn về nghệ thuật. Các nhà văn đã từng sáng tác ở giai đoạn trước nhận ra rằng nếu viết như cũ họ sẽ dần dần đánh mất độc giả. Vì vậy, đổi mới là nhu cầu cấp thiết lúc này. Giai đoạn từ 1986 đến nay là giai đoạn văn học chính thức bước vào chặng đường đổi mới (nó diễn ra đồng thời với sự đổi mới trên các lĩnh vực nghệ thuật khác như hội họa, âm nhạc, sân khấu điện ảnh…). Văn học dịch vẫn phát triển nhưng hoạt động lý luận phê bình lại vượt lên phía trước giữ vai trò là nhân tố mở đường cho văn học phát triển. Từ đó, hoạt động lý luận phê bình và hoạt động sáng tác của các nhà văn nhà thơ giữ vị trí quan trọng nhất trong công cuộc đổi mới văn học. Nghị quyết 05 về phê bình văn học của Bộ Chính trị được giới văn nghệ sĩ đón 13 nhận một cách vô cùng nồng nhiệt. Trên tờ Văn nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội nhà văn việt Nam (số 49-50, ra ngày 05/12/1987), Nguyễn Minh Châu đã cho in bài phát biểu nổi tiếng Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa. Bài báo là tuyên ngôn lý thuyết thể hiện tinh thần đổi mới văn học một cách hết sức triệt để của giới sáng tác. Những vấn đề tưởng như đã cũ nay cũng được giới phê bình đem ra bàn bạc với tinh thần đổi mới. Do vấn đề đổi mới tư duy, phương châm nhìn thẳng vào sự thật được coi trọng, phóng sự có điều kiện phát triển mạnh mẽ và thu hút được sự chú ý của độc giả. Các cây bút phóng sự được dư luận quan tâm lúc này là Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang, Hoàng Hữu Các, Trần Khắc, … Văn xuôi có nhiều khởi sắc với với những tác phẩm đạt giá trị nghệ thuật cao như tập truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Thơ ca cũng có nhiều bước đột phá mới với các tên tuổi như Thanh Thảo, Ý Nhi, Nguyễn Duy, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly… Thể ký cũng có những thành công nhất định với các tên tuổi như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Hoài… Kịch nói cũng rất phát triển. Các tên tuổi được nhắc đến ở thời kỳ này có: Hồng Phi, Doãn Hoàng Giang, Võ Khắc Nghiêm, Nguyễn Quang Lập, Xuân Trình, Lưu Quang Vũ… Lý luận, nghiên cứu, phê bình cũng có những bước đổi mới do được tiếp cận với nền lý luận của phương Tây. Ngoài những cây bút đã thành danh từ giai đoạn trước đã xuất hiện nhiều cây bút mới có nhiều triển vọng. Công cuộc đổi mới văn học cho đến nay vẫn đang tiếp tục vì thế chưa có một công trình nghiên cứu một cách khoa học và tổng thể về giai đoạn này. Tuy nhiên, nhận định một cách chung nhất, văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới đã có nhiều bứt phá so với giai đoạn văn học kháng chiến và bước đầu đã có những thành tựu được ghi nhận, trong đó quan trọng nhất là đổi mới cái nhìn hiện thực và con người của nhà văn. Ma Văn Kháng là một trong những tên tuổi thành công nhất trong thời kỳ văn học đổi mới. Người đọc biết đến ông ở cả thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. 1.1.2. Tác giả Ma Văn Kháng 1.1.2.1. Cuộc đời Nhà văn Ma Văn Kháng tên khai sinh là Đinh Trọng Đoàn, quê ở phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội. Ông vốn là người sớm ý thức về trách nhiệm của 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan