VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ TÌNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ TÌNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN HOÀNG ANH
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ luật học ―Quản lý nhà nước về giáo dục
pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam‖ là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các nhận định và kết luận trong luận văn là trung thực, khách
quan và chưa từng được công bố. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước
pháp luật.
Tác giả
Phạm Thị Tình
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN ........................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật
cho sinh viên ........................................................................................................... 8
1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp quản lý nhà nước
về giáo dục pháp luật cho sinh viên ...................................................................... 19
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho
sinh viên và tiêu chí đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước về giáo dục pháp
luật cho sinh viên .................................................................................................. 26
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO SINH VIÊN TẠI TỈNH HÀ NAM ................................................... 33
2.1. Khái quát về các yếu tố đặc thù của tỉnh Hà Nam có tác động tới quản lý
nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên ...................................................... 33
2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên tại tỉnh
Hà Nam ................................................................................................................. 38
2.3. Đánh giá chung quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên trên
địa bàn tỉnh Hà Nam ............................................................................................. 52
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỐI
VỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH
VIÊN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM ............................................................. 58
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả đối với quản lý nhà nước về giáo dục pháp
luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam ......................................................... 58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đối với quản lý nhà nước về giáo dục pháp
luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam ......................................................... 62
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 79
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GDPL
: Giáo dục pháp luật
HĐND
: Hội đồng nhân dân
HĐPH
: Hội đồng phối hợp
HĐPHPBGDPL
: Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật
NQ
: Nghị quyết
PBGDPL
: Phổ biến giáo dục pháp luật
QLNN
: Quản lý nhà nước
TW
: Trung ương
UBND
: Ủy ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ hội nhập ở nước ta hiện nay, đa số sinh viên có ý chí phấn đấu
vươn lên trong học tập, có hoài bão khát khao lớn. Bên cạnh đó, dưới tác động của
nền kinh tế thị trường, kinh tế mở cửa và rất nhiều nguyên nhân khác, hành vi lệch
chuẩn của sinh viên cũng có xu hướng ngày càng tăng khiến gia đình và xã hội lo
lắng, phổ biến như : vi phạm giao thông, đua xe trái phép, cờ bạc, rượu chè, quay
cóp bài…có lối sống hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, xa hoa, lãng phí, lười lao động
và học tập. Những phẩm chất ấy là kết quả của giáo dục không đồng bộ giữa nhà
trường, gia đình và xã hội; đồng thời cũng do trong thời gian khá dài, công tác
GDPL cho sinh viên còn hạn chế dẫn tới tình trạng vi phạm pháp luật trong giới trẻ
nói chung và sinh viên nói riêng có chiều hướng gia tăng. Một tỷ lệ không nhỏ sinh
viên còn hiểu về pháp luật một cách sơ sài, hời hợt. Nhiều sinh viên coi các môn học
pháp luật trong trường đại học, cao đẳng chỉ là môn phụ, thậm chí có những sinh viên
chưa phân biệt được hành vi hợp pháp với hành vi không hợp pháp giữa các loại vi
phạm pháp luật hành chính, dân sự, hình sự…dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật một
cách đáng tiếc.
Ngoài ra những hạn chế này còn do nhiều nguyên nhân tác động, thể hiện ở
việc nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác GDPL ở một số trường
chưa đúng mức, chương trình nội dung GDPL còn dàn trải chưa thống nhất giữa các
trường, hình thức và phương thức giáo dục còn chậm đổi mới, hoạt động giáo dục
ngoại khóa còn đơn điệu, thiếu hấp dẫn, đội ngũ nhà giáo và cán bộ làm công tác
GDPL còn thiếu về số lượng, năng lực của một số cán bộ chưa đáp ứng được nhu cầu
trong công việc, cơ chế phối hợp giữa các chủ thể GDPL còn chưa đồng bộ.
Vì vậy GDPL trong các nhà trường, đặc biệt trong các trường cao đẳng, đại
học là rất quan trọng, nó góp phần đào tạo nhân lực, hình thành một cách vững chắc
những thế hệ người lao động mới đáp ứng những yêu cầu của xã hội hiện tại và
tương lai. Do đó, Đảng và Chính phủ đã ra những nghị quyết, chỉ thị trong đó đã
khẳng định rằng để xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân cần đưa
việc GDPL vào các trường học, các cấp học, từ phổ thông đến đại học, trung học
1
chuyên nghiệp cùng toàn thể nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của
Đảng khẳng định “các cấp uỷ Đảng, các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể phải
thường xuyên giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, đưa việc giáo dục
pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống có pháp luật và tôn
trọng pháp luật”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng nhấn
mạnh: “coi trọng công tác giáo dục tuyên truyền, giải thích pháp luật, đưa việc dạy
pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ
thông, đại học) của các đoàn thể nhân dân”. Đặc biệt, Luật Phổ biến, giáo dục pháp
luật được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012 đã quy định cụ thể về
GDPL nói chung và GDPL trong nhà trường nói riêng. Trong đó, tại Khoản 4 Điều
3 quy định: “Giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục
quốc dân được lồng ghép trong chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ
đào tạo; là một nội dung trong chương trình giáo dục trung học cơ sở, trung học phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học”
Trên tinh thần ấy, các cơ quan chức năng đã phối hợp, từng bước triển khai
việc đưa GDPL vào các trường học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, đổi mới
chương trình, mục tiêu giáo dục ở các hệ đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề. Trong chương trình chính khóa, GDPL trong nhà trường thực
hiện thông qua việc dạy và học các môn học pháp luật hoặc lồng ghép, tích hợp vào
các môn học có liên quan. Bên cạnh đó, GDPL cho sinh viên được các nhà trường
thực hiện thông qua các hoạt động ngoại khóa, giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Để công tác GDPL cho sinh viên đạt hiệu quả cao nhất thì cần có sự QLNN về
GDPL cho sinh viên. Bộ Tư pháp là cơ quan QLNN về công tác PBGDPL, vừa là
cơ quan thường trực của HĐPH công tác PBGDPL của Chính phủ; tăng cường sự
chủ động và cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành, đoàn thể trong công tác
PBGDPL. Do đó, thời gian qua công tác QLNN về GDPL cho sinh viên đã đạt
nhiều kết quả đáng kể. Tuy nhiên, cho đến nay, so với nhu cầu thực tiễn, công tác
này còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đi vào chiều rộng và chiều sâu nhất là ở các
trường cao đẳng, đại học, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề ở các tỉnh lẻ.
2
Nguyên nhân một phần là do công tác quản lý, chỉ đạo theo dõi đôn đốc, kiểm tra
chưa được sâu sát, kịp thời.
Thực tế hiện nay cho thấy, hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên trên cả
nước còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Hà
Nam là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng, là cửa ngõ phía Nam của Thủ
Đô, là nơi giao thông thuận lợi với hầu hết các tỉnh thành trong cả nước và đang là
nơi thu hút để xây dựng rất nhiều các trường cao đẳng, đại học. Hiện tại, trên địa
bàn tỉnh Hà Nam có gần mười trường cao đẳng, đại học đang hoạt động với khoảng
gần mười nghìn sinh viên không chỉ đến từ tỉnh Hà Nam mà còn rất nhiều tỉnh
thành khác trong cả nước. Ở lứa tuổi này, nhiều bạn sinh viên có khát khao, hoài
bão lớn nhưng cũng còn rất nhiều bạn có những hành vi lệch chuẩn do ảnh hưởng
của nền kinh tế thị trường và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vì
vậy, nhu cầu GDPL cho sinh viên ngày một gia tăng. Trong khi đó, đội ngũ làm
công tác quản lý về giáo dục đào tạo cho sinh viên còn chưa đáp ứng yêu cầu, lúng
túng trong quản lý, điều hành. Đồng thời, cơ sở vật chất và kinh phí dành cho hoạt
động QLNN về GDPL cho sinh viên chưa được quan tâm đầu tư tương xứng với vị
trí và vai trò của công tác này.
Đứng trước yêu cầu mang tính cấp thiết nêu trên, tôi lựa chọn đề tài: ―Quản lý
nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam‖ để làm đề
tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học. Việc nghiên cứu này có ý nghĩa cả về phương
diện lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về GDPL cho sinh viên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong khoa học pháp lý ở nước ta, vấn đề QLNN về GDPL được các chuyên
gia pháp luật, các nhà khoa học Việt Nam quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ,
mức độ khác nhau, cụ thể:
- Dưới góc độ nghiên cứu về GDPL cho các đối tượng khác nhau có các công
trình của các tác giả sau: Nguyễn Tất Viễn (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Đề tài cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà
Nội [55]. Trần Ngọc Đường - Dương Thị Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp
luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hà Thị Tuyến (2011), Phổ biến pháp luật cho
3
người nông dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền, Luận văn Thạc sĩ. Phạm Hàn Lâm (2001), Giáo dục pháp luật
cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đắc Lắc - thực trạng và giải pháp, Luận văn
Thạc sĩ Luật học. Đinh Thị Hoa (2005), Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở
tỉnh Ninh Thuận hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật. Lê Thị Thùy (2015), Giáo dục pháp
luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề qua thực tiễn Tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội [40]. Nguyễn Duy Lãm (2012), Sự cần
thiết và quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Tạp chí Dân chủ
và Pháp luật- số chuyên đề tháng 10 năm 2012, Bộ Tư pháp, Hà Nội [26]. Lê Thị Thu Ba
(2006), Tăng cường vai trò của Hội đồng Phối hợp công tác PBGDPL đáp ứng đòi hỏi
của nhiệm vụ đưa pháp luật vào cuộc sống, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề
năm 2006, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
Trong các công trình trên, các tác giả đã chỉ rõ một số vấn đề lý luận về GDPL
như khái niệm, đặc điểm, nội dung, các yếu tố bảo đảm về GDPL. Đồng thời, từ
thực tiễn hoạt động GDPL, nhiều công trình đã đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác GDPL. Bên cạnh đó, một số công trình đi sâu phân tích, làm rõ khía
cạnh GDPL đối với học sinh, sinh viên trong nhà trường.
- Dưới góc độ nghiên cứu về QLNN về giáo dục đào tạo và GDPL cho các đối
tượng khác nhau có các công trình của các tác giả sau: Nguyễn Thị Thu Hà (2012),
Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Phan Hồng Dương (2005), Phân cấp quản lý
nước về giáo dục đào tạo, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội. Hoàng Thị Tú Oanh (2007), Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo - Thực
trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội [31]. Phạm Đức Hoài (2009), Quản lý nhà nước về PBGDPL
trong Bộ Quốc Phòng hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công. Bạch
Tú Anh (2010), Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học
công lập tại Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính. Phan Thị Cẩm Ly
(2013), Đổi mới quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên đại học từ thực tiễn
Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia [28].
4
Bùi Thành Hùng (2017), Quản lý nhà nước về PBGDPL cho sinh viên người dân
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Luật học [23]. Dương
Hồng Nhung (2018), Quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội
[30]. Đỗ Xuân Lân, Quản lý nhà nước về Phổ biển, giáo dục pháp luật thực trạng
và giải pháp nâng cao hiệu quả, http://pbgdpl.moj.gov.vn, 21/2/ 2017 [27].
Các công trình khoa học trên đã cung cấp nhiều tư liệu quý báu về cơ sở lý
luận, thực tiễn QLNN, kinh nghiệm đối với công tác QLNN trên nhiều góc độ.
Nhưng có rất ít các công trình nghiên cứu QLNN về GDPL cho sinh viên. Đặc biệt,
chưa có công trình nào nghiên cứu về QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà
Nam. Đó chính là lý do để học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Cung cấp những luận chứng khoa học để làm sáng tỏ cơ sở lý luận và pháp luật
của QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam. Đồng thời nghiên cứu thực
trạng QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam. Từ đó, đề xuất các quan điểm
và giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật cơ bản của QLNN
về GDPL cho sinh viên.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, xác định những vấn đề lớn đang đặt ra trong
QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam.
- Đề xuất quan điểm, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về
GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm khoa học về QLNN về GDPL cho sinh viên.
- Hệ thống quy định pháp luật và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Trung
ương và tỉnh Hà Nam về QLNN về GDPL cho sinh viên.
- Thực tiễn hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên tại tỉnh Hà Nam hiện nay.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu QLNN về GDPL cho sinh viên.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên
trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian 05 năm từ năm
2014 đến 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính
sách của nhà nước và chính quyền các cấp về QLNN về GDPL cho sinh viên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong từng chương
như: Chương 1, sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, phương pháp
diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp;
Chương 2, sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp
đánh giá; Chương 3 sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá,
phương pháp tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận QLNN về GDPL cho sinh
viên. Qua đó, nhận thức rõ hơn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác này,
góp phần ổn định chính trị tư tưởng, ý thức pháp luật, ngăn ngừa phòng chống
những hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong nhà trường.
Luận văn xác định các yêu cầu, quan điểm và một số giải pháp có tính khả
thi, có khả năng ứng dụng trong công tác QLNN về GDPL cho sinh viên trên địa
bàn tỉnh Hà Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những đề xuất của luận văn có ý nghĩa nhất định trong việc QLNN về
GDPL cho sinh viên tỉnh Hà Nam cũng như có giá trị tham khảo cho các địa
phương có điều kiện tương tự như tỉnh Hà Nam.
6
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên
cứu liên quan sau này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về giáo
dục pháp luật cho sinh viên
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh
viên tại tỉnh Hà Nam
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
giáo dục pháp luật cho sinh viên từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật
cho sinh viên
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
1.1.1.1. Giáo dục pháp luật cho sinh viên
Để tiếp cận với GDPL, trước hết các nhà khoa học xuất phát từ khái niệm
giáo dục. Theo quan niệm của khoa học sư phạm, giáo dục được tiếp cận dưới hai
nghĩa khác nhau:
- Theo nghĩa rộng: Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách được
tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, thông qua các hoạt động và các quan hệ
giữa người giáo dục với người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh kinh
nghiệm của xã hội loài người
- Theo nghĩa hẹp: Giáo dục là một phần của quá trình sư phạm, quá trình giáo
dục theo nghĩa rộng – Là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm,
thái độ, những nét tính cách của nhân cách XHCN, những hành vi và thói quen cư
xử đúng đắn trong xã hội.
Từ khái niệm giáo dục có thể thấy GDPL là hình thức giáo dục cụ thể, là “cái
riêng”, “cái đặc thù” trong mối quan hệ với giáo dục nói chung. Với tư cách là một
bộ phận trong hệ thống giáo dục, GDPL vừa mang những chung của giáo dục, sử
dụng các hình thức, phương pháp của giáo dục vừa có những nét đặc thù. Những nét
riêng đó được thể hiện ở mục đích giáo dục là hình thành tri thức (mục đích nhận
thức), hình thành tình cảm, lòng tin với pháp luật (mục đích cảm xúc) và xây dựng
thói quen thực hiện hành vi hợp pháp (mục đích hành vi).
GDPL là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nhận
thức hình thành ý thức pháp luật. Khái niệm GDPL có thể thấy là một dạng hoạt
động gắn liền với việc triển khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật [30].
8
- Quan niệm thứ nhất cho rằng: GDPL là một bộ phận của giáo dục chính trị tư
tưởng, đạo đức. Theo quan niệm này khi tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng cho
nhân dân thì tự nó sẽ hình thành nên ý thức pháp luật, tức là nếu làm tốt công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức sẽ có được sự tôn trọng pháp luật của
công dân
- Quan niệm thứ hai cho rằng: không có khái niệm GDPL. Quan điểm này cho
rằng, pháp luật là quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung và mọi chủ thể có nghĩa vụ
phải tuân thủ pháp luật; do vậy, không cần đặt ra vấn đề GDPL nữa.
- Quan niệm thứ ba: đồng nhất GDPL với tuyên truyền, phổ biến hay giải thích
pháp luật
- Quan niệm thứ tư: đồng nghĩa GDPL với dạy và học pháp luật ở các trường học,
còn việc tuyên truyền phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội thì không phải là GDPL.
Trong quá trình phát triển của con người thì GDPL là một nội dung, một hoạt
động không thể thiếu. So sánh với tuyên truyền và phổ biến pháp luật thì GDPL có
tính toàn diện hơn. Tính toàn diện đó thể hiện ở chỗ GDPL vừa có tính định hướng
rõ ràng, vừa có tính hệ thống để bảo đảm đối tượng giáo dục được nâng cao cả về
kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện pháp luật và thái độ tôn trọng pháp luật.
GDPL phải nhằm đạt tới sự hình thành ý thức tự giác trên cơ sở hiểu biết đầy đủ về
pháp luật và các vấn đề liên quan [14]. Kết quả của GDPL không chỉ ở chỗ đối
tượng biết pháp luật quy định như thế nào mà còn hiểu vì sao lại quy định như vậy
để họ vận dụng pháp luật một cách chủ động, sáng tạo và chính xác.
Theo đó, GDPL là một phạm trù rộng lớn, là nhiệm vụ chung của toàn xã hội,
của gia đình và nhà trường, trong đó vai trò định hướng, dẫn dắt bởi các nội dung
và hình thức giáo dục trong nhà trường có tầm quan trọng đặc biệt.
Từ các phân tích nêu trên có thể định nghĩa: Giáo dục pháp luật là hoạt động
có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng
giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri
thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật
hiện hành [30].
9
Thuật ngữ "sinh viên" có nguồn gốc từ tiếng La-tinh "Student" có nghĩa là
người làm việc, học tập nhiệt tình, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. Theo ngôn
ngữ Hán Việt thì "sinh viên" là người bước vào cuộc sống, cuộc đời. Còn theo Từ
điển tiếng Việt, khái niệm "sinh viên" được dùng để chỉ những người học ở bậc đại
học [29]
Theo Điều 59, Luật Giáo dục Đại học số: 08/2012/QH13 thì: "sinh viên"
được hiểu là người học của các cơ sở giáo dục đại học theo chương trình đào tạo
cao đẳng và chương trình đào tạo đại học.
GDPL cho sinh viên là rất quan trọng và cần thiết, vì sinh viên là đại diện của
một nhóm xã hội cơ động. Đặc biệt, đó là nhóm những người đang chuẩn bị bước
vào lao động sản xuất. Đứng về mặt quan hệ xã hội thì thời kỳ sinh viên là sự quá
độ của tuổi thanh niên từ những giai cấp và nhóm xã hội khác nhau chuyển thành
một nhóm xã hội mới: giới trí thức. Vì thế, sinh viên vừa là một bộ phận hữu cơ
của thanh niên, vừa là một bộ phận của giới trí thức[14]
Từ khái niệm chung về GDPL nói trên có thể hình thành khái niệm về GDPL
cho sinh viên: Giáo dục pháp luật cho sinh viên là hoạt động có định hướng, có tổ
chức, có chủ định của chủ thể giáo dục pháp luật tác động tới sinh viên thông qua
hoạt động giáo dục chính khóa và ngoại khóa bằng các phương thức giáo dục
khác nhau nhằm mục đích trang bị cho họ tri thức pháp luật cơ bản, định hướng
phát triển nhân cách và tư cách công dân, nâng cao nhận thức, góp phần điều
chỉnh hành vi, hình thành thói quen tự giác xử sự đúng pháp luật, có ý thức tuân
thủ pháp luật và có tri thức pháp luật về chuyên môn nghiệp vụ, ngành nghề, lĩnh
vực mà mình được đào tạo [14]
1.1.1.2. Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về giáo dục
Khoa học về quản lý định nghĩa: “Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức,
có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý trên các mặt chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội… thông qua hệ thống pháp luật, chính sách, các nguyên tắc, các
quy định và bằng các biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự
phát triển của đối tượng quản lý”. Như vậy, hiểu một cách đơn giản nhất, quản lý
10
chính là sự tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua các công
cụ quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Sự ra đời của nhà nước đã dẫn đến sự xuất hiện QLNN. QLNN phụ thuộc vào
chế độ lịch sử, chính trị, đặc điểm văn hóa, trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia qua các giai đoạn lịch sử. Trong toàn bộ hệ thống xã hội, có nhiều chủ thể tham
gia quản lý xã hội như: tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế,
các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội...Trong các chủ thể quản lý xã hội đó thì Nhà
nước là một chủ thể đặc biệt và QLNN có những điểm khác biệt sau:
Thứ nhất, chủ thể QLNN (theo nghĩa rộng) là các cơ quan, cá nhân trong bộ
máy nhà nước được trao quyền gồm: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ
quan tư pháp.
Thứ hai, đối tượng QLNN là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống và hoạt
động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, công dân làm việc bên ngoài quốc gia.
Thứ ba, QLNN là quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao...
Thứ tư, QLNN mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng công cụ pháp luật và
các chính sách của nhà nước để quản lý xã hội.
Thứ năm, mục tiêu của QLNN là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và
phát triển của toàn xã hội.
Từ những đặc điểm trên, có thể hiểu QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc
biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật để điều chỉnh hành vi của
cá nhân, tổ chức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và do các cơ quan
trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và
phát triển xã hội [24, tr.55].
Theo nghĩa hẹp, QLNN là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền (chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước) trên cơ sở Hiến pháp, luật để tổ
chức đời sống xã hội theo Hiến pháp và luật. Như vậy, QLNN là một hình thức hoạt
động của nhà nước được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có
nội dung là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp luật, nghị quyết của cơ quan quyền lực
11
nhà nước để tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây
dựng kinh tế, văn hóa - xã hội và hành chính - chính trị. [30]
Từ khái niệm QLNN, có thể đưa đến khái niệm QLNN về giáo dục: QLNN về
giáo dục là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các
hoạt động giáo dục do các cơ quan quản lý có trách nhiệm về giáo dục của nhà nước
từ Trung ương đến địa phương tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy
định của nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục, duy trì kỷ cương, thỏa mãn
nhu cầu giáo dục của nhân dân, thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước.
1.1.1.3. Quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
QLNN trong lĩnh vực GDPL cho sinh viên đã được Đảng và Nhà nước ta xác
định là một công việc trọng tâm, thường xuyên và liên tục của các cơ quan nhà
nước và của các cấp, các ngành. Trách nhiệm của nhà nước được xác định là: xây
dựng cơ chế phối hợp hoạt động GDPL có hiệu quả, phát huy trách nhiệm của các
cấp, các ngành, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội, nâng cao hiệu quả, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức và cá nhân
trong hoạt động GDPL cho đối tượng là sinh viên.
Trên cơ sở đó, có thề hiểu, QLNN về GDPL cho sinh viên là hoạt động của các
cơ quan QLNN (ban hành văn bản pháp luật, tổ chức thực hiện văn bản pháp luật
về GDPL, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong GDPL...) nhằm bảo đảm hoạt
động GDPL cho sinh viên đạt được yêu cầu và mục đích đề ra.
1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho sinh viên
QLNN về GDPL cho sinh viên trước hết là một hoạt động QLNN về giáo dục
vì vậy nó cũng có đầy đủ các đặc điểm chung, đó là: Thứ nhất, tính quyền lực nhà
nước trong hoạt động quản lý. Đây là đặc điểm nổi bật của QLNN ở mọi lĩnh vực
nói chung và QLNN về giáo dục nói riêng. Biểu hiện:1) Điều kiện để thực hiện
quản QLNN về giáo dục là chủ thể quản lý về giáo dục phải có thẩm quyền và thẩm
quyền đó phải được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật; 2)
Phương tiện QLNN về giáo dục là các văn bản pháp luật; 3)Trong QLNN phải tuân
thủ thứ bậc chặt chẽ theo sự phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh phục tùng, tập trung dân
chủ tức là cơ quan QLNN về giáo dục cấp dưới phải phục tùng cấp trên, cấp địa
12
phương phải phục tùng cấp Trung ương. Bên cạnh đó các cấp QLNN về giáo dục
vẫn phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Thứ hai, kết hợp quản lý hành chính và
quản lý chuyên môn trong các hoạt động QLNN về giáo dục. Đặc điểm này thực
chất là để triển khai chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do nhà nước quy định, các cơ
quan, tổ chức thay mặt nhà nước để triển khai sự nghiệp giáo dục và điều hành, điều
chỉnh các hoạt động giáo dục. Đây là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động
QLNN về giáo dục nhằm đảm bảo việc thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước
trở nên thống nhất và có hiệu quả cao, nói cách khác đó cách “hành chính hóa” các
hoạt động chuyên môn. Thứ ba, kết hợp Nhà nước – xã hội trong quá trình triển
khai QLNN về giáo dục. Giáo dục đào tạo là hoạt động mang tính xã hội cao. Đảng
ta đã nhấn mạnh: giáo dục đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân.
QLNN về giáo dục sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự tham gia đông đảo
lực lượng trong xã hội. Đây là đặc điểm quan trọng cần nhận thức trong QLNN về
giáo dục.
Tuy nhiên, đối tượng của hoạt động QLNN về GDPL ở đây rất cụ thể đó là
sinh viên nên nó còn có các đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, đối tượng của QLNN về GDPL cho sinh viên là GDPL cho sinh viên.
GDPL cho sinh viên là một tất yếu khách quan, là một bộ phận cấu thành trong
chương trình giáo dục đại học, cao đẳng ở nước ta. Sinh viên là một tầng lớp trí
thức trẻ, hiện nay họ ngày càng phát huy và nỗ lực phấn đấu trong học tập và lao
động “vì ngày mai lập nghiệp”. Họ không chỉ có kiến thức chuyên môn mà còn rất
năng động, sáng tạo, chủ động và nhạy bén trong việc vận dụng những tri thức đã
học vào cuộc sống, tham gia tích cực các hoạt động xã hội. Tuy vậy, ở lứa tuổi
chớm thành niên này, các bạn sinh viên không tránh khỏi nhược điểm, hạn chế là
nhân cách chưa hoàn chỉnh, nông nổi, bồng bột, dễ bị kích động, khó kiềm chế, đôi
khi tự cao, tự mãn, thích tự do phóng khoáng, hay đua đòi và đặc biệt là hiểu biết về
pháp luật chưa hoàn thiện và sâu sắc. Những đặc điểm đó của sinh viên làm cho
hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên khác biệt hẳn với QLNN về GDPL cho
các đối tượng khác. Để hiểu rõ hơn về đối tượng của QLNN về GDPL cho sinh
viên, chúng ta xem xét nội hàm của GDPL cho sinh viên được xác định trên cơ sở
13
mục đích của công tác này, bao gồm:1)Mục đích tổng quát của GDPL cho sinh viên
chính là góp phần hình thành và nâng cao văn hóa pháp lý cho sinh viên và toàn xã
hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN, xây dựng nhà nước pháp quyền; 2)Mục
đích cụ thể gồm: Mục đích nhận thức (nâng cao hiểu biết pháp luật cho sinh viên);
Mục đích cảm xúc (hình thành lòng tin vào pháp luật của sinh viên); Mục đích hành
vi (nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của sinh viên); Mục đích góp phần
nâng cao hiệu lực và hiệu quả QLNN trong quản lý xã hội và quản lý sinh viên.
Như vậy, từ đặc điểm và mục đích của việc GDPL cho sinh viên ta thấy GDPL
cho sinh viên tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường QLNN
bằng pháp luật, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình QLNN,
quản lý xã hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực,
chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý. GDPL cho sinh viên là sự tác
động có định hướng, có tổ chức nhằm hình thành tri thức, tình cảm và hành vi phù
hợp với quy định của pháp luật cho sinh viên để họ tự giác tuân thủ, thi hành pháp
luật, nâng cao ý thức pháp luật cho bản thân. Việc GDPL đó được thực hiện thông
qua hoạt động dạy và học pháp luật (cả chính khóa và ngoại khóa) trong các trường
đại học, cao đẳng nhằm thực hiện mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, góp phần hình thành và bồi dưỡng ý thức công dân, sống
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực trong
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ 2, hoạt động QLNN về GDPL cho sinh viên mang tính quyền lực nhà nước
Nhà nước là bộ phận trung tâm của hệ thống chính trị, nhà nước là chủ thể duy
nhất nắm giữ quyền QLNN trên toàn xã hội. GDPL đối với sinh viên là một hoạt
động quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của toàn dân, vì vậy để hoạt động GDPL
đi theo đúng định hướng, đạt mục đích và hiệu quả cao nhất đòi hỏi phải có sự quản
lý sát sao của nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, xuất phát từ đối tượng chịu sự
quản lý của hoạt động GDPL là sinh viên sẽ có những khác biệt so với các đối
tượng khác như học sinh, người khuyết tật, phụ nữ... Vì vậy, cách thức quản lý về
GDPL đối với sinh viên cũng khác so với những đối tượng nêu trên. Hoạt động
QLNN về GDPL cho sinh viên diễn ra ở các cơ quan QLNN từ trung ương đến địa
14
phương. Nhà nước sẽ sử dụng quyền lực nhà nước để đảm bảo việc thực hiện công
tác QLNN về GDPL đi vào thực tiễn. Vì vậy, hoạt động QLNN về GDPL cho mọi
đối tượng nói chung và cho sinh viên nói riêng đều mang quyền lực nhà nước.
QLNN được thực hiện thông qua hệ thống pháp luật, lúc này pháp luật trở thành
công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý cơ sở giáo dục và tổ chức thực hiện công tác
GDPL cho sinh viên. Mặt khác, bên cạnh pháp luật, nhà nước còn ban hành các chính
sách để quản lý hệ thống cơ sở giáo dục đối với sinh viên.
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu QLNN về GDPL đối với sinh viên, trước hết cần
xây dựng một bộ máy nhà nước thực sự vững mạnh, với hệ thống cơ quan quản lý
đảm bảo, có đủ điều kiện và nguồn lực thực hiện chức năng quản lý. Đây là điều
kiện tiên quyết trước khi tổ chức thực thi hoạt động QLNN về GDPL đối với sinh
viên trên thực tế.
Thứ 3, QLNN về GDPL cho sinh viên hướng đến một xã hội ổn định và phát triển
Mục tiêu QLNN về GDPL đối với sinh viên, về tổng thể, đó là bảo đảm trật tự,
kỷ cương trong các hoạt động giáo dục và đào tạo, để thực hiện được mục tiêu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát triển nhân cách của sinh
viên. Mỗi cấp học, mỗi ngành học có những mục tiêu cụ thể được quy định trong
Luật Giáo dục và các điều lệ nhà trường. QLNN về GDPL đối với sinh viên là
hướng đến một xã hội ổn định và phát triển, mà nền tảng chính là đối tượng sinh
viên. Đó là nhóm những người đang chuẩn bị bước vào lao động sản xuất, họ vừa là
một bộ phận hữu cơ của thanh niên, vừa là một bộ phận của giới trí thức. Qua đây
sẽ giáo dục ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, có thái độ tôn
trọng pháp luật của sinh viên; nhằm giáo dục toàn diện người lao động trí thức, lao
động có tay nghề trong tương lai; góp phần tích cực vào việc đào tạo nguồn nhân
lực không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn năng động, sáng tạo hiểu biết pháp luật,
tuân thủ pháp luật, biết vận dụng pháp luật vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và
vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Thứ 4. QLNN về GDPL cho sinh viên cần một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn
chỉnh để quản lý, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong quản lý sinh viên
15