Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn tội môi giới mại dâm theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành...

Tài liệu Luận văn tội môi giới mại dâm theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

.PDF
83
233
63

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ ĐÌNH QUYỆN TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ ĐÌNH QUYỆN TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN VĂN ĐỘ HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi. Các nội dung trong đề tài này là trung thực và chưa được công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những thông tin, số liệu trong bảng phục vụ cho việc nghiên cứu, phân tích, nhận xét và đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau và có ghi rõ nguồn trích dẫn cũng như trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện bất kỳ gian lận nào tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung đề tài luận văn của mình. NGƯỜI CAM ĐOAN Lê Đình Quyện LỜI CẢM ƠN Để hoàn thiện tốt khóa học và bài Luận văn Thạc sĩ xin chân thành gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô trong Học viện Khoa học xã hội cùng các bạn học tập thân mến đã nhiệt tình giúp đỡ và hỗ trợ truyền đạt kiến thức cũng như kinh nghiệm quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện luận văn Thạc sĩ tại đây. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến giáo viên hướng dẫn PGS TS Trần Văn Độ đã trực tiếp hướng dẫn, định hướng chuyên môn và tạo điều kiện hết sức để tôi có thể hoàn thành tốt bài luận văn của mình. Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý chân thành nhất từ quý thầy cô góp phần tốt hơn nưa cho bài luận văn này. Người thực hiện Lê Đình Quyện MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................ 7 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội môi giới mại dâm .......... 7 1.2. Phân biệt tội môi giới mại dâm với các tội khác ............................. 13 1.3. Đường lối xử lý với tội môi giới mại dâm ...................................... 14 1.4. Khái quát quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội môi giới mại dâm trước khi ban hành bộ luật hình sự năm 2015 ..................................... 15 Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................. 24 2.1. Thực tiễn xét xử tội môi giới mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ..................................................................................................... 24 2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt trong xét xử tội môi giới mại dâm ........ 36 2.3. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân trong xét xử (định tội, quyết định hình phạt) tội môi giới mại dâm................................................ 39 Chương 3: BẢO ĐẢM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM.................. 48 3.1. Sự hoàn thiện của các văn bản pháp luật ............................................. 48 3.2. Yêu cầu nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án về tội môi giới mại dâm 48 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án về tội môi giới mại dâm .............................................................................................................. 59 3.4. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật................................................... 63 KẾT LUẬN .................................................................................................... 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự PGS. TS Phó Giáo Sư Tiến sĩ ThS Thạc Sĩ TP. HCM Thành Phố Hồ Chí Minh TW Trung ương XHCN Xã Hội Chủ Nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về tội môi giới mại dâm so với các tội phạm nói chung trên địa bàn TP. HCM trong thời gian 05 năm (2014 – 2018) .................................................................................................. 25 Bảng 2.2. Tổng số vụ án và bị cáo về tội phạm xâm phạm trật tự an toàn công cộng so với nhóm tội phạm mại dâm và nhóm tội phạm môi giới mại dâm .. 26 Bảng 2.3. Tình hình giải quyết tội môi giới mại dâm trên địa bàn TP. HCM giai đoạn 2014 – 2018 ..................................................................................... 29 Biểu đồ 2.1. Tỉ lệ số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về tội môi giới mại dâm so với tội phạm chung trên địa bàn TP. HCM trong thời gian 05 năm (2014 -2018) .................................................................................................... 25 Biểu đồ 2.2. So sánh số vụ án xét xử sơ thẩm về nhóm tội phạm môi giới mại dâm so với nhóm tội phạm mại dâm và tội phạm xâm phạm an toàn công cộng trên địa bàn TP. HCM trong thời gian 05 năm (2014 – 2018) ........................... 27 Biểu đồ 2.3. So sánh số bị cáo xét xử sơ thẩm về nhóm tội phạm môi giới mại dâm so với nhóm tội phạm mại dâm và tội phạm xâm phạm an toàn công cộng trên địa bàn TP. HCM trong thời gian 05 (2014 – 2018)................................... 28 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong điều kiện thị trường Việt Nam hiện nay, sự gia tăng về dân số cùng tốc độ gia tăng các tệ nạn xã hội đặc biệt là tệ nạn môi giới mại dâm ở Việt Nam hiện nay đang ngày càng báo động. Các tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn mại dâm nói riêng đặc biệt là nghề môi giới mại dâm luôn là vấn nạn khó giải quyết không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Môi giới mại dâm là hoạt động rất khó kiểm soát bởi tính chất phức tạp, tinh vi và trá hình của nó trong khi đó những hệ lụy mà nó gây ra đối với xã hội thì vô cùng nghiêm trọng. Tại Việt Nam, mại dâm nói chung và môi giới mại dâm là hành vi bất hợp pháp. Pháp lệnh phòng chống mại dâm năm 2003 đã được công bố mục đích đưa ra các quy định về phòng và chống mại dâm. Nghề môi giới mại dâm gián tiếp làm trung gian cầu nối cho những người hành nghề mại dâm, làm phát sinh các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Đây là những nguyên nhân dẫn tới các loại tội phạm khác như tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, tội xâm hại trẻ em, hiếp dâm, cưỡng dâm người chưa thành niên, đặc biệt là tội mua bán người. Vì phần lớn người hành nghề mại dâm và môi giới mại dâm phần lớn là những người trình độ học vấn thấp, thu nhập cao trong khi bản than họ lười lao động, sợ vất vả nhưng lại thích ăn chơi đua đòi. Theo thống kê năm 2012 sau khi thực hiện khảo sát tại 3 thành phố lớn ở Việt Nam thì người hành nghề môi giới mại dâm luôn lý lí do là “nhà nghèo” nên phải đi hành nghề môi giới mại dâm. Nhưng thực tế cho thấy đa phần là gia đình trung bình (42,2% nhà nghèo, 52.2% có gia cảnh trung bình, 2.4% gia đình khá giả) [10], 27,6% là do bạn bè rủ rê, 63,9% là do lôi kéo bởi chính những người môi giới mại dâm khác, chỉ có 6% là do bị lừa [5]. 1 Tội phạm môi giới mại dâm thời gian gần đây “nở rộ” do nguồn lợi mà nó mang lại cao cùng nhu cầu ngày một tăng. Tuy nhiên, để bắt giữ rất khó khăn do hoạt động này thường ẩn núp dưới dạng hoạt động kinh doanh như: môi giới hôn nhân, giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động,… Hoạt động môi giới mại dâm ngày càng lớn mạnh và gia tăng bang nhóm, tổ chức tội phạm về ma túy, băng nhóm xã hội đen chuyên hoạt động bảo kê, bắt cóc, giữ người trái phép, cố ý gây thương tích,… Như vậy, hoạt động môi giới mại dâm đang đe dọa trực tiếp đến bản thân và gia đình của người tham gia, ảnh hưởng tới cuộc sống bình yên của nhân dân và sự phát triển xã hội. Môi giới mại dâm là tiền đề hình thành nên các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm khác. Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập với thế giới. Chính vì vậy để triệt để hết các đường dây tệ nạn xã hội nói chung và môi giới mại dâm nói riêng vô cùng khó khăn và không dễ dàng. Không những vậy, xu thế hướng ngoại nên việc tiếp cận các công cụ tân tiến như internet với những phương thức liên kết dễ dàng mang yếu tố tiêu cực tác động không nhỏ đến tâm lý giới trẻ ngày nay, cùng với đó sự thay đổi về tư tưởng sống qua các thế hệ, sự tha hóa về đạo đức, nhân cách. Chính những điều đó, mô hình chung đã tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Trong những năm qua, các quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam và mới đây là BLHS 2015 về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm đã góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn hiện nay, các quy định đó còn chưa cụ thể và đầy đủ. Nhận thức về tội phạm này có nơi, có lúc còn chưa nhất quán với nhau. Trong một số trường hợp, các cơ quan pháp luật còn lúng túng và thiếu sót trong việc đưa ra các phán quyết xử phạt trong việc giải quyết các vụ án về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm. Chính vì lý do đó, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Tội môi giới mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực 2 tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” nhằm phòng chống, tiến tới đẩy lùi, đẩy mạnh triệt xóa tội phạm chứa mại dâm, môi giới mại dâm là một trong những nhiệm vụ quan trọng và vô cùng khó khăn, phức tạp đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Cũng như đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về tội này. 2. Tình hình nghiên cứu Môi giới mại dâm luôn là vấn đề cấp thiết không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các quốc gia phát triển khác trên thế giới. Những hậu quả mà nó đem lại rất lớn ảnh hưởng xấu đến đời sống của người dân và toàn xã hội làm mất trật tự an toàn xã hội, phá vỡ hạnh phúc gia đình, đe dọa tương lai nòi giống dân tộc, vi phạm pháp luật,… Do đó nghiên cứu về tội môi giới mai dâm và tội phạm môi giới mại dâm ở Việt Nam đang trở thành mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Hiện nay, có nhiều công trình khoa học và nghiên cứu về vấn đề môi giới mại dâm ở những mức độ khác nhau như:  Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tòa án Nhân dân tối cao về đề tài: “Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc đấu phòng và chống các tội phạm về tình dục” của tác giả ThS. Nguyễn Quang Lộc.  Luận văn Thạc Sĩ ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự đề tài: “Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội) của tác giả ThS. Vũ Thị Hồng Hạnh.  Luận văn Thạc Sĩ luật học chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm đề tài: “Các tội mại dâm trên địa bàn TP. HCM: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa” của tác giả ThS. Nguyễn Quốc Tuân.  Luận án tiến sĩ luật học: “Tệ nạn mại dâm – Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa” tác giả Trần Hải Âu bảo vệ đề tài năm 2004. Đề tài luận án đưa các lý luận chung về các vấn đề mại dâm trong xã hội Việt Nam hiện nay. Luận án đưa ra các phân tích về tình hình và thực trạng tệ nạn 3 mại dâm và các đặc điểm của tội phạm môi giới mại dâm. Nghiên cứu sâu vào các vấn đề về mại dâm và hoạt động phòng ngừa môi giới mại dâm.  Luận án tiến sĩ luật học: “Điều tra tội phạm về mại dâm có tổ chức” tác giả Nguyễn Hoàng Minh bảo vệ đề tài năm 2010. Đề tài luận án đi sâu nghiên cứu về cơ sở lý luận liên quan đến mại dâm có tổ chức, phân tích đưa ra các số liệu làm rõ loại tội phạm này. Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động điều tra cũng như đưa ra hướng giải quyết tốt nhất nhằm triệt để các đường dây mại dâm có tổ chức. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu là trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích quy định của pháp luật và đánh giá thực tiễn tố tụng, đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tội môi giới mại dâm. - Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: + Tập trung nghiên cứu một cách khoa học và toàn diện có hệ thống các vấn đề lý luận; + Phân tích quy định của pháp luật về tội môi giới mại dâm; + Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về tội môi giới mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. + Đưa ra các kiến nghị, đề xuất và đề ra các giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tội môi giới mại dâm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Phần lớn môi giới mại dâm tập trung ở nam giới và có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi, làm các nghề để môi giới mại dâm như xe ôm, xích lô và có trình độ thấp. - Đối tượng nữ tập trung ở độ tuổi từ 30 tuổi trở lên có trình độ văn hóa thấp. 4 - Đối tượng trẻ làm việc trong các dịch vụ thường được coi như nguy cơ cao có thể tham gia tổ chức, làm trung gian giới thiệu nhằm thực hiện việc mua bán mại dâm như tiếp viên nhà hàng, karaoke, massage,… 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn TP. HCM. Đây là thành phố có lượng người hoạt động môi giới mại dâm tương đối cao so với các địa phương khác trong cả nước, địa điểm nghiên cứu tập trung chủ yếu ở khu vực nội thành trong thời gian 05 năm (từ 2014 đến năm 2018). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của đảng ta về Nhà nước và pháp luật, về phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, về quyền con người. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài áp dụng sử dụng phương pháp nghiên cứu chính là: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; điều tra tâm lý xã hội học, phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn và vụ việc điển hình… Mục đích nhằm đưa ra tình hình phân tích đề tài một cách khách quan và khoa học nhất về các quy định luật hình sự và cơ sở lý luận các vấn đề nghiên cứu mà đề tài đã đưa ra. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Đề tài là một trong những công trình ít ỏi trong khoa học pháp lý nghiên cứu về tội môi giới mại dâm. Luận văn góp tiếng nói khiêm tốn vào việc hoàn thiện lý luận về đấu tranh phòng chống tội mại dâm. Luận văn cũng là tài liệu để tham khảo trong hoàn thiện pháp luật hình sự về tội mại dâm và trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này; đồng thời có thể được sử dụng trong nghiên cứu, học tập luật Hình sự. 5 7. Kết cấu của bài luận văn Ngoài Phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm 3 chương:  Chương 1 Những vấn đề lý luận về tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam;  Chương 2 Thực tiễn xét xử tội môi giới mại dâm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh;  Chương 3 Đảm bảo áp dụng pháp luật và nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án về tội môi giới mại dâm. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội môi giới mại dâm Môi giới là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian cho các bên tiếp xúc, đàm phán và thiết lập các mối quan hệ để hưởng thù lao. Nội dung của hoạt động môi giới thường chỉ gồm việc tìm kiếm khách hàng và tiến hành một số đàm phán với họ, tổ chức cho người được môi giới tiếp xúc với khách hàng và hỗ trợ các bên trong việc đàm phán và kí kết hợp đồng. Khác với người đại diện, người môi giới không trực tiếp giao kết hợp đồng với khách hàng [13]. Người môi giới được hiểu là người đóng vai trò trung gian hoặc giới thiệu trong các hợp đồng kinh tế. Người này có nhiệm vụ giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ của bên bán cho bên mua. Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì người này cung cấp thông tin về bên bán cho bên mua và người lại. Thuật ngữ mại dâm theo tiếng Latin là Prostituere, có nghĩa là “bày ra để bán” là hoạt động dùng các dịch vụ tình dục ngoài hôn nhân giữa người mua dâm và người bán dâm để trao đổi lấy tiền bạc, vật chất hay một số quyền lợi và ưu đãi nào đó [19]. Trong xã hội học và tội phạm học, theo nghĩa rộng thì mại dâm có thể được định nghĩa như việc trao đổi sự thỏa thuận tình dục để lấy tiền hoặc bất cứ giá trị vật chất nào do các bên tự thỏa thuận. Tội phạm môi giới mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội liên quan đến việc mua bán tình dục, được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, ảnh hưởng đến an ninh xã hội, cần được xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự [11]. 7 Môi giới mại dâm được hiểu là làm trung gian cho các hoạt động mua bán dâm. Cũng như người mua bán dâm thì pháp luật hiện hành ở Việt Nam cũng đưa ra các quy định cụ thể về mức phạt cũng như xử lý hành vi môi giới mại dâm. Theo một cách hiểu khác thì người môi giới mại dâm có thể chủ động tạo điều kiện cho người có nhu cầu bán dâm găp gỡ với người có nhu cầu mua dâm hoặc ngược lại. Tiếp theo, các bên có thể tự thỏa thuận về giá cả, địa điểm mua bán và thời gian. Tội môi giới mại dâm không chỉ trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng xã hội, còn xâm phạm đến đạo đức, nếp sống văn minh, các thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Thông thường hành vi môi giới mại dâm kèm theo yếu tố trục lợi. Theo Khoản 1 Điều 328 BLHS 2015 [12, Khoản 1 Điều 328] quy định về tội môi giới mại dâm thì chỉ cần có hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt người mại dâm (gọi chung là môi giới) thì đã cấu thành tội môi giới mại dâm mà không cần đến yếu tố người môi giới có thu lợi hay không. Cũng có định nghĩa khác tại Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm ngày 17/03/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định: “Môi giới mại dâm là hành vị dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người trung gian để các bên thực hiện việc mua, bán dâm.” [17, Điều 3] Bên cạnh đó, dưới nhiều góc độ và quan điểm khoa học hình sự khác nhau cũng đưa ra nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến môi giới mại dâm. - Quan điểm thứ nhất: Môi giới mại dâm là hành vi trung gian giữa người bán dâm và người mua dâm. Môi giới mại dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tạo điều kiện cho tệ nạn xã hội là tệ nạn mại dâm, xâm phạm nghiêm trọng trật tự công cộng.[14] - Quan điểm thứ hai: Môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện mua dâm, bán dâm; do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi hoặc 16 tuổi trở lên cố ý thực hiện, xâm phạm đến trật tự nơi công cộng. [4] 8 Qua đó, ta thấy được mặc dù có những khái niệm khác nhau về môi giới mại dâm nhưng nhìn chung các luồng quan điểm trên đưa ra được mặt khách quan của tội môi giới mại dâm và các dấu hiệu khác đặc trưng cho tội môi giới mại dâm gồm như khách thể của tội phạm, mặt chủ quan và chủ thể của loại tội phạm này. Đặc biệt, các quan điểm trên đều có điểm chung đó là môi giới mại dâm đều có hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt mại dâm. Ý nghĩa về quy định tội phạm môi giới mại dâm trong quy định của BLHS Việt Nam: Đứng trên phương diện đạo đức xã hội thì môi giới mại dâm là vấn đề tiêu cực bị xã hội lên án khá gay gắt đối vơi hành vi này. Ngay cả thời kỳ phong kiến thì hoạt động môi giới mại dâm đã được hình thành và hoạt động còn khá đơn giản nhằm phục vụ cho các quan lại lớn mặc dù thời kỳ này thì hành vi môi giới mại dâm chưa được xem là vi phạm pháp luật. Nhưng nhìn chung, nghề môi giới mại dâm đã được tồn tại từ rất lâu. Tuy nhiên, sớm nhận thấy tác hại vô cùng nghiêm trọng của ngành nghề này mang lại thì ngay từ khi giành được chính quyền và độc lập năm 1945 thì nhà nước ta đã có những chính sách và hoạt động giúp ngăn ngừa loại tội phạm này. Cả nước lúc bấy giờ tập trung vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, tội môi giới mại dâm được chính phủ cách mạng lâm thời lúc bấy giờ quy định đây là loại tội phạm và cần có hình phạt xử lý đối với người vi phạm. Trải qua từng giai đoạn của đất nước loại tội phạm môi giới mại dâm tiếp tục được ghi nhận trong BLHS đầu tiên của Việt Nam vào năm 1985 tại Điều 202 về tội môi giới mại dâm. Tiếp theo đó là BLHS 1999 quy định tại Điều 255 BLHS về tội môi giới mại dâm thuộc Chương XIX về tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Tiếp theo đến BLHS 2015 quy định tại điều 328 BLHS về tội môi giới mại dâm. Từ đó, ta thấy được những nhận thức đúng đắn về ý nghĩa các quy định trong BLHS Việt Nam lúc bấy giờ. Việc đưa ra quy định về tội môi giới mại dâm trong 9 BLHS 2015 của Đảng và Nhà nước là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm đấu tranh chống lại hành vi xâm phạm an toàn công cộng, trật tự xã hội gây ảnh hưởng tiêu cực đến các thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội đang trong xu hướng ngày càng gia tăng. Qua đó, ta thấy được ý nghĩa của việc quy định các điều khoản đối với tội môi giới mại dâm có ý nghĩa vô cùng quan trọng: Việc quy định loại tội phạm này là sự ghi nhận và đảm bảo về phương diện pháp luật Việc Nam đối với các chuẩn mực đạo đức xã hôi, lối sống, nhân phẩm con người, danh sự, sức khỏe,… được thừa nhận bởi cộng đồng. Ngăn chặn hành vi xâm phạm và biểu hiện xâm phạm bằng pháp luật quy định trong BLHS là phương pháp đảm bảo hiệu quả nhất giúp răn đe và trừng trị kẻ phạm tội. Quy định về tội môi giới mại dâm được quy định trong BLHS được ghi nhận tại bộ luật này có sự bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ nhân dân, bảo vệ bình đẳng và lợi ích hợp pháp của người dân, đồng thời còn thể hiện sự quyền uy của nhà nước trong việc xử lý và xử phạt hành vi trái pháp luật. Chính vì vậy, bảo vệ chuẩn mực đạo đức, các thuần phong mỹ tục, đạo đức, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm con người là nhiệm vụ cơ bản và hàng đầu mang lại ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết. - Khách thể của tội môi giới mại dâm Tội môi giới mại dâm là các tội phạm xâm phạm đến an toàn trật tự công cộng đạo đức, thuần phong mỹ tục, đến đời sống văn hóa, xã hội một cách tiêu cực, gây thiệt hại vật chất. Khách thể của tội môi giới mại dâm là các trật tự công cộng nguy cơ làm tăng thêm nhiều tệ nạn xã hội khác và các bệnh xã hội nguy hiểm đến tín mạng con người. - Mặt khách quan của tội môi giới mại dâm Xét về mặt khách quan của tội môi giới mại dâm được thực hiện với nhiều thủ đoạn khác nhau và ngày càng được biến tấu rất tinh vi như: dụ dỗ, lôi kéo, dẫn dắt với vai trò là bên trung gian giữa bên bán và mua dâm bất kể 10 người mua/bán dâm là ai. Tội phạm được cấu thành tội kể từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi dụ dỗ, dẫn dắt, lôi kéo và bên mua, bán dâm nhận lời hoặc đồng ý thỏa thuận. Xét về hậu quả thì hậu quả mà nó đem lại thì không được xem là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Như vậy chỉ cần có dấu hiệu dụ dỗ, dẫn dắt, lôi kéo và được sự thỏa thuận giữa các bên mua, bán dâm thì hành vi đã cấu thành tội môi giới mại dâm. Mặt khách quan của tội môi giới mại dâm có rất nhiều hình thức thực hiện như: - Dụ dỗ hoặc dẫn dắt mối cho các bên mua bán dâm; - Làm trung gian giao dịch trong việc mua bán dâm với các thỏa thuận giữa các bên; - Tổ chức cuộc gặp gỡ cho các bên mua dâm và bên bán dâm gặp nhau; - Đứng ra thu tiền mua dâm và phân chia lợi ích cho bên bán dâm,… Xét về hành vi thì tội môi giới mại dâm bao gồm các hành vi sau đây: Bên trung gian giao dịch giữa người bán và mua dâm, người phạm tội môi giới mại dâm sẽ thực hiện việc giao dịch, thỏa thuận giá cả, địa điểm thực hiện mua bán dâm và các điều kiện khác đi kèm. Dẫn dắt, dụ dỗ người khác tham gia mua bán dâm. Người phạm tội môi giới mại dâm tổ chức để bên bán và bên mua dâm gặp gỡ, giới thiệu lẫn nhau. Thực hiện việc thu tiền, phân chia tiền, lợi ích thu được từ những hành vi môi giới mại dâm nếu trên. Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A làm nghề vận chuyển và lái xe ôm, quen biết chị Nguyễn Thị B hành nghề gái mại dâm. Vì thế anh A đã nhiều lần móc nối và chở chị B đến nhà nghỉ hoặc khách sạn để bán dâm cho khách. A chỉ biết chở chị B đến theo yêu cầu của chị B chứ không hề biết khách mua dâm là ai. Như vậy, hành vi của A vẫn được xem là hành vi môi giới mại dâm, làm trung gian thực hiện các việc mua bán dâm. 11 Trong thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy hành vi môi giới mại dâm được thực hiện rất đa dạng, có thể bằng trực tiếp hoặc thông qua trung gian để dụ dỗ, dẫn dắt mại dâm, bon tội phạm còn thực hiện nhiều thủ đoạn tinh vi hơn như dung máy nhắn tin, điện thoại di động…. để hoạt động nhằm tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng; người có hành vi môi giới cũng đồng thời đứng ra tổ chức, chứa chấp mại dâm, nhưng cũng có thể làm công việc dẫn dắt môi giới mại dâm. Tùy vào từng trường hợp tính chất, hành vi, của người phạm tội cụ thể mà họ có thể chịu trách nhiệm hình sự theo nguyên tắc phạm nhiều tội. - Chủ thể của tội môi giới mại dâm Chủ thể của tội môi giới mại dâm là người có đủ điều kiện chịu trách nhiệm hình sự về tội này: đạt độ tuổi theo luật quy định và không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thực hiện tội phạm. Theo quy định tại Điều 12 và Điều 328 BLHS 2015, thì chủ thể của tôi môi giới mại dâm là người từ đủ 16 tuổi trở lên và tại thời điểm mà họ thực hiện hành vi môi giới mại dâm không ở trong tình trạng không có trách nhiệm hình sự, tức tình trang đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất đi khả năng nhận thức và điểu khiển hành vi của mình. - Mặt chủ quan của tội môi giới mại dâm Tội môi giới mại dâm được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ mục đích là vụ lợi hoặc động cơ mục đích khác, nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc. Người môi giới mại dâm nhận thức rõ hành vi của mình có nguy hiểm đến xã hội cũng như có thể làm gia tang các tệ nạn xã hội, bị cấm theo quy định của BLHS, nhận thức rõ hậu quả của nó nhưng vẫn cố tình tìm mọi cách để thực hiện hành vi môi giới mại dâm. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định động cơ của tội phạm của cực kỳ quan trọng. Nó ảnh hưởng đến mức phạt, nếu động cơ người phạm tội càng 12 xấu và có tổ chức thì hình phạt dành cho người phạm tội càng nặng và ngược lại. Người môi giới mại dâm nhận thức được rõ hành vi của mình là nguy hiểm, vi phạm pháp luật theo BLHS và nhận thức được rõ mức độ và tính chất nghiệm trọng nhưng vẫn tiến hành thực hiện dụ dỗ, dẫn dắt người mua bán dâm để thực hiện việc mua bán dâm. Trong trường hợp nếu người đó không hề biết hoặc không thể biết việc mua bán dâm thì người đó không phạm tội. 1.2. Phân biệt tội môi giới mại dâm với các tội khác - Phân biệt tội môi giới mại dâm với tội tổ chức mại dâm Khoản 5 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, tổ chức hoạt động mại dâm quy định: “Tổ chức hoạt động mại dâm là hành vi bố trí, sắp xếp thực hiện việc mua dâm, bán dâm” . Như vậy, tội tổ chức mại dâm và tội môi giới mại dâm khác nhau chủ yếu về hành vi khách quan của tội phạm. Tổ chức mại dâm là việc thực hiện các hoạt động bố trí điều kiện cho hoạt động mua bán dâm diễn ra ví dụ như bố trí, sắp xếp phòng, nhà nghỉ, khách sạn để thực hiện hành vi mua bán dâm. Còn môi giới mại dâm là hành vi là trung gian để người mua dâm và người bán dâm thoả thuận, thống nhất về việc mua, bán dâm. - Phân biệt tội môi giới mại dâm với tội chứa mại dâm Trên thực tế hiện nay có nhiều khái niệm và quan điểm về tội chứa mại dâm và được xem là hành vi tiêu cực, ảnh hưởng đến nhiều mặt của xã hội. Theo Khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự 2015 như sau: Người nào chứa mại dâm thì bị phạt tù từ 01 đến 05 năm [12, Khoản 1 Điều 327]. Tội chưa mại dâm thông thường được hiểu là hành vi tạo điều kiện thuận lợi về mặt vật chất, tinh thần cho hoạt động mua bán mại dâm được thực hiện tốt hơn như việc cho sử dụng, thuê hoặc cho thuê, mượn hoặc cho mượn địa điểm hoặc phương tiện như bố trí người canh gác, bảo vệ hoạt động mua bán dâm, nhận 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan