Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Mô hình và cơ chế hoạt động của tổ chức đầu tư tăng trưởng quỹ bhxh ở việt nam...

Tài liệu Mô hình và cơ chế hoạt động của tổ chức đầu tư tăng trưởng quỹ bhxh ở việt nam

.PDF
59
312
124

Mô tả:

LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ LỜI NÓI ĐẦU Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Những năm qua hoạt động bảo hiểm xã hội đã góp phần quan trọng để ổn định cuộc sống về mặt vật chất và tinh thần cho người lao động, đồng thời đảm bảo an toàn xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình hoạt động của quỹ BHXH luôn luôn tồn tích một khối lượng tiền tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng. Số tiền tạm thời nhàn rỗi này được Nhà nước cho phép đầu tư để thực hiện các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Trên thực tế, tính đến hết năm 2003 số dư quỹ BHXH đã lên tới 33.698 tỷ đồng và dự tính đến năm 2010 số dư của quỹ sẽ lên tới trên 100.000 tỷ đồng. Với khối lượng tiền nhàn rỗi như vậy cùng với việc Nhà nước cho phép được đem ra đầu tư nhằm mục đích tăng trưởng quỹ. Tuy nhiên với những biến động phức tạp của thị trường tài chính như hiện nay thì việc đầu tư tăng trưởng quỹ quả thật không phải là đơn giản chút nào nếu hoạt động đó không tính chuyên nghiệp cao, nhưng hiện nay BHXH Việt Nam vẫn chưa có bộ phận chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ này. Vì vậy trong thời gian tới BHXH Việt Nam cần thiết phải hình thành một tổ chức độc lập chuyên trách giúp Tổng Giám đốc quản lý và thực hiện các biện pháp đầu tư tăng trưởng. Vậy tổ chức đó là gì? Ban quản lý đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH hay Công ty đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH… Chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của tổ chức đó như thế nào? Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu đề tài: “ Mô hình và cơ chế hoạt động của tổ chức đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH ở Việt Nam” là hết sức cần thiết, không chỉ giúp ta hiểu được những vấn đề đã nêu mà còn giúp cho BHXH Việt Nam nhanh chóng thành lập bộ phận đầu tư vừa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngành BHXH, vừa thực hiện được các biện pháp đầu tư đúng pháp luật và có hiệu quả. SV: Nguyễn Đức Long 1 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ Ngoài phần lời nói đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Quỹ BHXH và sự cần thiết của tổ chức đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Chương 2: Thực trạng đầu tư và kinh nghiệm của một số nước về mô hình và cơ chế hoạt động của tổ chức đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH Chương 3: Một số đề xuất về xây dựng mô hình và cơ chế hoạt động của tổ chức đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH ở Việt Nam. Do thời gian có hạn và nhận thức còn nhiều hạn chế nên trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo tận tình của các thầy giáo, cô giáo, các cô, các chú, các anh, chị trong phòng để bài viết của em hoàn thành được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2005 Sinh viên thực hiện Nguyễn Đức Long SV: Nguyễn Đức Long 2 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ CHƯƠNG 1 QUỸ BHXH VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA TỔ CHỨC ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG QUỸ BHXH 1.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của Quỹ BHXH 1.1.1. Khái niệm quỹ BHXH. Con người sinh ra, lớn lên, hình thành nhân cách và trưởng thành, có sức lao động và được tham gia lao động, tạo thu nhập, là quá trình lao động không ngừng, vừa lao động nuôi sống bản thân vừa góp phần làm giàu cho xã hội. Trong quá trình lao động sinh tồn, phát triển ấy, người lao động luôn phải gánh chịu và đương đầu với vô vàn các rủi ro. Những rủi ro đo có thể làm cho người lao động mất khả năng lao động tạm thời hay vĩnh viễn, mất nguồn sống hoặc thậm chí chết người, con cái mất nơi nương tựa, hoặc lúc về già không còn khả năng lao động để có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Do đó để có thu nhập duy trì ổn định cuộc sống của bản thân và gia đình họ khi gặp rủi ro hay lúc tuổi già tất yếu phải lập quỹ dự trữ bảo hiểm thích hợp và đủ lớn. Mặt khác do quy luật bảo toàn nòi giống, duy trì lực lượng lao động cho tương lai của xã hội, những người lao động nữ còn có nghĩa vụ làm mẹ, sinh con, chăm sóc con khi ốm đau… điều đó còn đòi hỏi phải có dữ trữ bảo hiểm. Như vậy việc tạo lập quỹ dự trữ bảo hiểm cho người lao động những lúc rủi ro, bất ngờ hay lúc tuổi già, về hưu là một tất yếu khách quan. Quỹ bảo hiểm xã hội là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia bảo hiểm xã hội hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung nhằm chi trả cho những người được bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành bởi nhiều nguồn khác nhau. Trước hết, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước. SV: Nguyễn Đức Long 3 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ Đây là nguồn lớn nhất và cơ bản nhất của quỹ bảo hiểm xã hội. Thứ hai, là phần tăng thêm do hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ mang lại. Thứ ba, là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ và BHXH và nguồn vốn khác. Quỹ BHXH chủ yếu được sử dụng để chi trả cho các mục đích sau: Trả trợ cấp cho các chế độ BHXH; chi phí cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên nghiệp; Chi phí bảo đảm các cơ sở vật chất cần thiết và chi phí quản lý khác. 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của quỹ Bảo hiểm xã hội - Mục đích của quỹ bảo hiểm xã hội là huy động sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước, tạo lập quỹ tài chính để phân phối sử dụng nó, đảm bảo bù đắp một phần cho người lao động khi có những sự cố bảo hiểm xất hiện như: ốm đau, tai nạn, hưu trí, thất nghiệp… làm giảm hoặc mất hẳn các khoản thu nhập thường xuyên từ lao động, nhằm duy trì và ổn định cuộc sống của họ. Như vậy hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội không phải vì mục đích lợi nhuận mà vì phúc lợi, quyền lợi của người lao động, của cả cộng đồng. Thông qua đó, xã hội được ổn định hơn, hạn chế được những tiêu cực và tạo điều kiện tốt hơn để xã hội phát triển. Đây chính là mục tiêu xã hội của bất kỳ một hệ thống BHXH nào. Chính mục tiêu này là điều kiện đầu tiên đảm bảo sự phát triển của quỹ bảo hiểm xã hội nói riêng và hệ thống bảo hiểm xã bội nói chung. Bởi vì, hoạt động BHXH nếu vì mục tiêu kinh tế sẽ dẫn đến tình trạng quyền lợi của người lao động người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội bị hạn chế và khi đó người lao động - đối tượng hoạt động của bảo hiểm xã hội sẽ kém tin tưởng vào bảo hiểm xã hội - tổ chức được coi là đại diện của Nhà nước. Khi BHXH không còn đối tượng hoạt động, điều dễ hiểu là hệ thống BHXH cũng không còn tồn tại và phát triển. Do đó, trong quá trình phát triển người ta luôn coi mục tiêu xã hội là kim chỉ nam cho hoạt động BHXH. Như vậy, mục tiêu hoạt động của BHXH là mục tiêu xã hội, còn phương tiện SV: Nguyễn Đức Long 4 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ hoạt động của BHXH là phương tiện kinh tế. Tôn trọng nguyên tắc này sẽ đảm bảo cho hoạt động BHXH tranh được sự xuất hiện hai thái cực hoặc là quỹ BHXH trở thành quỹ từ thiện, hoặc là sẽ trở thành phương tiện vật chất kinh doanh thuần tuý. Cả hai thái cực này đều làm cho quỹ BHXH nói riêng và hệ thống BHXH nói chung không thực hiện được chức năng xã hội của mình và có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. - Về bản chất, quỹ BHXH vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội. + Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc rủi ro xã hội. + Về mặt xã hội, do có sự “san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn để trang trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, BHXH thực hiện nguyên tắc “ lấy của số đông bù trù cho số ít” điều này thể hiện sự tương thân, tương ái lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội. - Quá trình phân phối và sử dụng được chia làm hai phần: + Phần thực hiện chế độ hưu trí mang tính chất bồi hoàn, mức độ bồi hoàn phụ thuộc vào mức đóng góp vào quỹ BHXH, Vì vậy có thể nói rằng, quỹ BHXH là một quỹ “tiết kiệm dài hạn” (bắt buộc hoặc thoả thuận) đòi hỏi người lao động phải đóng góp đều đặn liên tục mới đảm bảo nguồn chi trả. Nó chỉ khác với quỹ tiết kiệm là không được rút tiền ra trước lúc nghỉ hưu. Nhưng nó lại tạo điều kiện cho việc đầu tư dài hạn để bảo toàn và phát triển quỹ BHXH. + Phần thực hiện các chế độ còn lại vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn. Nghĩa là khi người lao động đang trong quá trình lao động không bị ốm đau, tai nạn… thì không được bồi hoàn; khi bị ốm đau tai nạn thì được bồi hoàn, mức bồi hoàn phụ thuộc vào mức độ ốm đau, tai nạn… Phần này phản ánh tính chất cộng đồng của quỹ BHXH. Vì vậy, để đảm bảo cho quá trình sản xuất phát triển bình thường và góp phần thực hiện an toàn xã hội, đòi hỏi không SV: Nguyễn Đức Long 5 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ chỉ người lao động mà còn cả người sử dụng lao động và Nhà nước có trách nhiệm đóng góp và tổ chức quản lý quỹ BHXH. - Sự tổ chức và phát triển của quỹ BHXH phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia. BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời và phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế cho rằng, sự ra đời và phát triển của BHXH nói chung và quỹ BHXH nói riêng phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh. Ngược lại kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú. Vì vậy việc vận dụng và thực hiện các chế độ BHXH do Tổ chức lao động quốc tế (ILO) khuyến nghị hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước, để vừa ổn định đời sống của người lao động, vừa ổn định phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. - Tuỳ theo mô hình quản lý BHXH của từng nước, quỹ BHXH có thể bao gồm nhiều quỹ thành phần như quỹ BHXH cho các chế độ BHXH dài hạn, quỹ BHXH cho các chế độ BHXH ngắn hạn hoặc có nước chia ra từng loại quỹ như: quỹ bảo hiểm hưu trí, quỹ bảo hiểm thất nghiệp, quỹ bảo hiểm ốm đau… Tuy nhiên dù được tổ chức như thế nào thì quỹ BHXH cũng nhằm mục đích chủ yếu là chi trả trợ cấp các chế độ BHXH cho những trường hợp được bảo hiểm. Ngoài ra quỹ BHXH còn phải trang trải cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên nghiệp và các chi phí quản lý khác. 1.1.3. Vai trò của quỹ Bảo hiểm xã hội Trong nền kinh tế thị trường việc tạo lập quỹ BHXH có vai trò rất to lớn và thể hiện trên các mặt sau đây: - Về chính trị xã hội, việc hình thành quỹ BHXH tạo ra hệ thống an toàn xã hội. Bởi vì, khi người lao động mất việc làm, hoặc không còn khả năng lao động SV: Nguyễn Đức Long 6 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ phải nghỉ việc, nếu không còn nguồn tài chính đảm bảo cho họ khi mất thu nhập thì có thể đưa họ tới con đường tệ nạn xã hội… Tệ nạn xã đó là nguyên nhân làm cho xã hội đó mất ổn định về kinh tế, rối ren về mặt chính trị và làm suy yếu đất nước. Nhưng nếu có BHXH chi trả cho họ khi gặp rủi ro để duy trì cuộc, thì những hiện tượng tiêu cực xã hội sẽ được hạn chế. Trên giác độ đó có thể nói rằng thông qua việc tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ BHXH góp phần tạo lập hệ thống an toàn chính trị - xã hội, giữ vững trật tự an ninh xã hội. - Về kinh tế, quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập ngoài ngân sách nhà nước do các bên tham gia bảo hiểm đóng góp nhằm phân phối lại theo luật định cho mọi thành viên khi bị ngừng hay giảm thu nhập gây ra bởi tạm thời hay vĩnh viễn mất khả năng lao động… Thông qua quá trình phân phối lại quỹ BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn xã hội về kinh tế cho người được bảo hiểm trong xã hội trước những trắc trở rủi ro. Mặt khác với chức năng phân phối lại theo nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”, BHXH góp phần ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển, khuyến khích động viên người lao động an tâm sản xuất. - Về thị trường tài chính, những khoản đóng góp của các chủ thể tham gia quỹ phần lớn được tích tụ, mà không phải ngay lập tức chi trả trợ cấp do tính chất đặc thù của rủi ro mà người lao động gặp phải là “sự xuất hiện của rủi ro là trong tương lai”. Cùng với nguyên tắc “có rủi ro mới chi trả”, đặc thù này đã làm cho các khoản đóng góp BHXH trở nên nhàn rỗi. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn tài chính nhàn rỗi đó của BHXH sẽ được chuyển vào thị trường tài chính như một sự vận động tất yếu. Sự vận động của quỹ BHXH vào thị trường tài chính có thể được mô tả qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1.1: Sự vận động của quỹ BHXH vào thị trường tài chính: -Cá nhân -Người SDLĐ -Đối tượng khác SV: Nguyễn Đức Long Đóng góp Quỹ BHXH VỐN Thị trường tàichính Lớp : K39 – 01.01 7 VỐN VỐN LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ Trên thị trường tài chính, quỹ BHXH thực hiện mua bán các công cụ tài chính như các loại trái phiếu, cổ phiếu, chứng khoán tiền tệ… Như vậy, thông qua hoạt động đầu tư tài chính của quỹ, các khoản đóng góp BHXH đã được chuyển hoá thành vốn cung cấp cho người thiếu vốn trên thị trường. Với vai trò này, quỹ BHXH được xếp vào các tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng. Chu trình tài chính của quỹ BHXH là chu trình tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính. Quá trình tham gia của quỹ BHXH vào thị trường tài chính được thực hiện trên hai thị trường: Sơ cấp và thứ cấp. Trên thị trường tài chính sơ cấp, việc mua bán chứng khoán phát hành lần đầu của quỹ BHXH sẽ làm tăng quy mô vốn đầu tư cho thị trường. Còn trên thị trường thứ cấp, hoạt động mua bán các công cụ tài chính nhằm tìm kiếm lợi ích của quỹ sẽ góp phần tăng tính thanh khoản cho thị trường. Hoạt động tích cực của quỹ BHXH sẽ không chỉ có tác dụng tài trợ vốn cho nền kinh tế, mà còn làm giảm rủi ro thanh khoản và chuyển hóa tốt hơn thời hạn của công cụ tài chính. Như vậy BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng không thể thiếu của mỗi quốc gia nhằm góp phần làm vững chắc thể chế chính trị, ổn định đời sống kinh tế - xã hội và làm lành mạnh hoá thị trường tài chính. 1.2. Đầu tư tăng trưởng quỹ: tính tất yếu trong hoạt động của quỹ BHXH 1.2.1.Khái niệm của đầu tư Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước hoạt động đầu tư có SV: Nguyễn Đức Long 8 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ một vị trí vô cùng quan trọng. Hoạt động đầu tư có đặc điểm là thường sử dụng một khối lượng lớn các nguồn lực và kết quả của nó thường phát huy tác dụng lâu dài, có ảnh hưởng rất đa dạng đối với nền kinh tế. Những sai lầm trong quyết định đầu tư có thể gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho từng doanh nghiệp cũng như cho toàn xã hội. Vì vậy trước khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một hoạt động nào đó chủ đầu tư phải tiến hành công việc chuẩn bị đầu tư bao gồm tính toán cân nhắc tất cả các khía cạnh tài chính, kinh tế, xã hội, pháp lý nhằm làm cho hoạt động đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất. Đây là một công việc khó khăn và phức tạp vì vậy cần được thực hiện theo một phương pháp luận khoa học và bài bản. Vì: Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực nhằm mục tiêu tài chính và lợi ích kinh tế xã hội. 1.2.2. Đầu tư tăng trưởng: Yêu cầu khách quan để bảo toàn quỹ BHXH. Xuất phát từ nhiều lý do khách nhau, đòi hỏi quỹ BHXH phải được đem ra đầu tư nhằm mục đích tăng trưởng quỹ. Đầu tư tăng trưởng là việc dùng nguồn ngân quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi để đầu tư nhằm mang lại lợi nhuận và làm tăng quy mô của quỹ. Tăng trưởng ở đây không được hiểu là việc tăng có tính cơ học mức thu của người lao động và người sử dụng lao động, mà nó phải được đặt trong mối quan hệ với lạm phát và kết quả của việc đầu tư vốn nhàn rỗi từ quỹ BHXH. Những lý do sau đây cho thấy sự cần thiết phải đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Thứ nhất: Bên cạnh những nội dung chi cho các chế độ BHXH ngắn hạn (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động…), quỹ BHXH phần lớn chi cho các chế độ BHXH dài hạn. Nhìn theo khía cạnh cơ học có thể thấy việc thu quỹ BHXH từ các khoản đóng góp vào quỹ là khó có thể đáp ứng được các nhu cầu chi trả cho các chế độ BHXH. Nếu quỹ BHXH không được đưa ra đầu tư thì theo thời gian nó sẽ bị mất đi phần lớn giá trị do lạm phát. Để quỹ BHXH có đủ khả năng chi trả thường xuyên, ngoài các nguồn đóng góp, cần thiết phải có các khoản thu nhập từ bản thân SV: Nguyễn Đức Long 9 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ hoạt động đầu tư quỹ. Thứ hai: Trong nền kinh tế thị trường, mọi nguồn lực đều phải không ngừng vận động. Thông thường nguồn đóng góp quỹ của các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội sẽ được tập trung vào quỹ BHXH, sau khi nhập quỹ phần lớn sẽ không được mang ra sử dụng ngay vì kỳ thanh toán cho các chế độ hưu trí, mất sức lao động, tử tuất thường kéo dài. Đây là nguồn vốn nhàn rỗi to lớn mà BHXH cần phải cung cấp để tài trợ cho nền kinh tế. Thứ ba: Thực tế cho thấy đến cuối năm 2003 quỹ BHXH đã có số dư lên tới 33.698 tỷ đồng, dự kiến đến năm 2010 số dư quỹ BHXH sẽ lên tới trên 100.000 tỷ. Tuy nắm giữ trong tay một khoản tiền khổng lồ nhưng quỹ BHXH đang gặp một số khó khăn có thể ảnh hưởng đến khả năng an toàn của quỹ. Trong tương lai quỹ BHXH càng phải chi nhiều hơn do số người hưởng chế độ ngày càng nhiều. Không những thế các chính sách từ thời điểm ra đời cho tới thời điểm thực thi cũng đã có sự thay đổi bất lợi cho việc chi trả BHXH. Ví dụ, như sự biến đổi theo chiều hướng tăng lên của tiền lương đã gây khó khăn cho quỹ BHXH khi phải chi trả cho đối tượng hưởng theo mức lương hiện tại lúc họ nghỉ hưu… Với những lý do và thực tế nêu trên , có thể khẳng định rằng nếu không có các biện pháp đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH để tiến tới tự cân đối thu chi quỹ BHXH thì tới một lúc nào đó, số chi quỹ BHXH sẽ vượt quá số thu và quỹ BHXH sẽ rơi vào tình trạng mất cân đối. Vì vậy việc tìm ra các giải pháp đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH là hết sức cần thiết trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam. Hiện nay, ở Việt Nam hoạt động đầu tư vẫn do Ban kế hoạch thuộc BHXH đảm nhiệm. Việc kiêm nghiệm nhiều vai trò như vậy làm cho hiệu quả của công tác đầu tư ở mức độ không cao, điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi trả trong tương lai. Do vậy đòi hỏi phải có một tổ chức chuyên nghiệp thực hiện công tác này với mục đích không những bảo toàn mà còn có khả năng phát triển được đồng vốn bỏ ra. SV: Nguyễn Đức Long 10 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ 1.3. Sự cần thiết của tổ chức đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. 1.3.1. Xét về lý luận Quy luật cung cầu về vốn trên thị trường. Cũng như các loại hàng hoá thông thường khác, vốn đầu tư cũng vận động theo quy luật cung cầu về vốn. Đó là quy luật vận động từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn và từ sự chênh lệch lãi suất trên thị trường để đảm bảo yêu cầu của quy luật cung cầu là cân đối vốn. Song sự vận động của vốn trên thị trường cũng có những đặc điểm riêng biệt. + Sự vận động của vốn trên thị trường được thực hiện dưới hình thức mua bán vốn (các chứng chỉ có giá), hoặc dưới hình thức vay và cho vay (tiền tệ), các hình thức vận động này tuy khác nhau nhưng cùng bản chất và chuyển quyền sử dụng vốn, còn quyền sở hữu vốn không thay đổi. Người đầu tư thực hiện việc cho vay vốn hoặc đầu tư vào thị trường chứng khoán mua các cổ phiếu, trái phiếu và thực hiện việc chuyển quyền sử dụng vốn của mình trong một khoảng thời gian nhất định để được một khoản lãi. Hết thời hạn quy định, kết thúc quá trình mua bán vốn, vốn đó lại trở về người đầu tư đúng bằng số lượng vốn ban đầu và thêm phần lãi. Lãi suất đầu tư trên thị trường vốn thường được gọi là giá vốn. Đó là người đi vay vốn phải trả cho người đầu tư trong thời gian mượn quyền sử dụng vốn. Tuy nhiên cũng có trường hợp người đầu tư bị lỗ vốn. + Yêu cầu của quy luật cung cầu về vốn là phải bảo đảm cung phải phù hợp với cầu. Từ yêu cầu đó vốn trên thị trường luôn vận động từ nơi thừa đến nơi thiếu để tạo nên sự cân đối cung cầu. Quá trình vận động đó là khách quan, song cung phù hợp với cầu chỉ là tạm thời, ngẫu nhiên, còn cung không phù hợp với cầu, cung cầu mất cân đối mới là những biểu hiện thường xuyên của quy luật cung cầu. Sự mất cân đối giữa cung và cầu về vốn ở các không gian và thời gian khác nhau là nguyên nhân làm cho cung cầu về vốn luôn vận động. Và đó cũng là nguyên nhân, là cơ sở cho thị trường vốn ra đời và tồn tại. SV: Nguyễn Đức Long 11 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ - Quy luật hình thành và vận động của lãi suất trên thị trường Giá vốn hay lãi suất trên thị trường cũng được hình thành theo yêu cầu của quy luật giá trị. Đó là giá cả (giá vốn) phải phù hợp với giá trị trên thị trường. Nhưng giá vốn - lãi suất thị trường lại được hình thành trên cơ sở khách quan của quy luật cung cầu vốn. Vốn cung ứng trên thị trường nhiều hơn cầu thì lãi suất giảm, ngược lại vốn cung ứng trên thị trường ít hơn cầu thì lãi suất tăng. Nghĩa là lãi suất hình thành theo thị trường và phản ánh đúng giá trị của vốn ở mọi không gian và thời gian. Quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh trên thị trường vốn tác động khách quan đến quá trình hình thành và vận động của lãi suất trên thị trường làm cho giá vốn - lãi suất tăng lên hay giảm đi phù hợp với giá trị của vốn. Đương nhiên sự hình thành và vận động của lãi suất trên thị trường cũng mang tính không gian và thời gian rõ nét như giá cả các loại hàng hoá thông thường. Vì vậy vận dụng quy luật lãi suất trên thị trường là phải quy định và điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với từng không gian và thời gian. Không thể áp đặt một lãi suất cứng nhắc trên thị trường toàn quốc hoặc ổn định lãi suất trong một thời gian dài không tính đến sự vận động của cung, cầu về vốn giữa các vùng và giữa các thời gian khác nhau. - Nguyên tắc hình thành và vận động của lãi suất đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Do yêu cầu của hoạt động đầu tư trên thị trường là phải bảo toàn được vốn. Hơn thế nữa hoạt động đầu tư quỹ BHXH còn phải được tăng trưởng. Phần vốn tạm thời nhàn rỗi phải được phát triển ngày càng lớn để đáp ứng nhu cầu chi trả dài hạn. Từ mục đích đó đòi hỏi hoạt động đầu tư quỹ BHXH phải có lãi, lãi suất đầu tư phải lớn hơn tỷ lệ trượt giá trên thị trường, nghĩa là phải có lãi suất thực dương. Nếu gọi P là hiệu suất đầu tư quỹ BHXH; G là tỷ lệ trượt giá trên thị trường thì nguyên tắc lãi suất trong đầu tư quỹ BHXH là: P  G. Cơ chế hình thành lãi suất dương của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ SV: Nguyễn Đức Long 12 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ BHXH cũng phù hợp với cơ chế hình thành lãi suất đầu tư nói chung trên thị trường vốn. Lãi suất dương là đảm bảo lợi ích kinh tế của đầu tư quỹ BHXH, đồng thời cũng là biện pháp duy nhất bảo tồn và phát triển quỹ. Đương nhiên lãi suất đầu tư quỹ BHXH cũng phải đảm bảo lợi ích của người sử dụng vốn. Người sử dụng vốn phải có hiệu quả, hiệu quả đó đảm bảo lợi ích cho cả hai bên đó là trả được nợ vay, lãi vay và còn mang lại lợi nhuận cho người sử dụng vốn. Vì vậy lãi suất cho vay đảm bảo G  P  Q (Q là phần lãi suất của người sử dụng vốn). Sự hình thành lãi suất cho vay tù quỹ BHXH phải tuân theo quy luật khách quan đó. Tất cả các dự án đầu tư của quỹ BHXH dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào cũng phải đảm bảo lợi ích kinh tế của quỹ, nghĩa là đầu tư phải có lãi, đồng thời cũng phải tính đến lợi ích kinh tế của người sử dụng vốn. Do tính chất đặc thù của quỹ BHXH là quỹ thuộc sở hữu của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, quỹ của xã hội, quỹ được hình thành để chi trả cho những người được bảo hiểm. Vì vậy yêu cầu của công tác đầu tư tăng trưởng quỹ là phải an toàn, phải có lợi nhuận và có tính lỏng cao. Từ yêu cầu này đòi hỏi việc đầu tư quỹ phải cân nhắc lựa chọn các đối tượng đầu tư, nói chung, các đối tượng đầu tư quỹ BHXH phải là các đơn vị làm ăn có lãi, trừ các trường hợp có sự chỉ định của chính phủ thì do chính phủ bảo lãnh. Như vậy, khi quỹ BHXH tham gia vào thị trường vốn, lãi suất phải tuân thủ quy luật trên thị trường, không thể áp đặt theo ý muốn chủ quan. Đây là nguyên tắc cơ bản để hình thành lãi suất cho vay của quỹ. Việc chính phủ hoặc các cấp được uỷ quyền quy định lãi suất cho vay từ quỹ BHXH phải tuân theo quy luật lãi suất thị trường. Nhà nước không nên chỉ định mức lãi suất ưu đãi, kể cả lãi suất cho ngân sách nhà nước vay trong trường hợp NSNN bội chi và quỹ BHXH hoạt động độc lập với NSNN. Mặt khác lãi suất trên thị trường vốn cũng thường xuyên biến động theo SV: Nguyễn Đức Long 13 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ quan hệ cung cầu về vốn. Mức lãi suất thị trường thường được các ngân hàng kinh doanh tiền tệ áp dụng, điều chỉnh kịp thời. Vì vậy lãi suất cho vay của quỹ BHXH cũng phải được điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp với lãi suất thị trường. Từ những vấn đề trên đây đòi hỏi khi xây dựng mô hình và cơ chế hoạt động của tổ chức đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH phải tuân theo những quy luật của thị trường đó là quy luật cung cầu về vốn và quy luật vận động của lãi suất trên thị trường. 1.3.2. Xét về thực tiễn * Thực trạng về mô hình tổ chức Theo quyết định 606/TTg ngày 26/09/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam thì cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam bao gồm 8 ban và văn phòng và trung tâm, quyết định này chỉ rõ, khi thực hiện phương án bảo toàn và phát triển quỹ sẽ thành lập tổ chức riêng do Thủ tướng Chính phủ quy định. Theo Nghị định số 100/2002/NĐ - CP của Chính phủ ban hành ngày 06 tháng 12 năm 2002 quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam, thì BHXH Việt Nam bao gồm các ban, văn phòng và trung tâm như sau: 1. Ban Chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; 2. Ban Kế hoạch - tài chính; 3. Ban Thu BHXH; 4. Ban Chi BHXH; 5. Ban BHXH tự nguyện; 6. Ban giám định y tế; 7. Ban tuyên truyền BHXH; 8. Ban hợp tác quốc tế; 9. Ban tổ chức cán bộ; 10. Ban kiểm tra; SV: Nguyễn Đức Long 14 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ 11. Văn phòng; 12. Trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH; 13. Trung tâm Công nghệ thông tin; 14. Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH; 15. Trung tâm lưu trữ; 16. Báo Bảo hiểm xã hội; 17. Tạp chí Bạo hiểm xã hội; Trong điều 2 của Nghị định này có chỉ rõ BHXH Việt Nam xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH. Như vậy theo quyết định 606/TTg và Nghị định 100/2002/NĐ-CP thì BHXH Việt Nam vẫn chưa có tổ chức chuyên trách giúp tổng giám đốc về công tác đầu tư tăng trưởng quỹ. Hiện nay toàn bộ các hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH đều do Ban kế hoạch tài chính đảm nhiệm. Trong Ban kế hoạch tài chính cũng chưa có phòng chuyên trách về công tác đầu tư, các nghiệp vụ phát sinh về đầu tư thường được Ban kế hoạch tài chính giao cho 2 phòng quản lý, đó là phòng kế toán và phòng kế hoạch tổng hợp. Phòng kế toán chịu trách nhiệm theo dõi kết quả các hoạt động đầu tư, bao gồm: vốn đầu tư ban đầu, thời hạn thu hồi vốn, hiệu quả đầu tư vốn…Còn phòng kế hoạch tổng hợp chịu trách nhiệm các công việc trước hoạt động đầu tư được tiến hành như: thẩm định dự án, xác định tính pháp lý, soạn thảo các văn bản và làm thủ tục cho vay. Như vậy, nhiệm vụ của Ban Kế hoạch tài chính về công tác đầu tư tăng trưởng quỹ mới chỉ dừng lại ở các công việc hành chính, thực hiện các công việc mang tính chất pháp lý cho các hoạt động đầu tư, chưa thực hiện công tác chuyên môn nghiệp vụ đầu tư. Do chưa có bộ phận chuyên trách giúp Tổng giám đốc điều hành công tác đầu tư tăng trưởng, nên trong thời gian qua, công tác đầu tư tăng trưởng có nhiều hạn chế. SV: Nguyễn Đức Long 15 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ * Những hạn chế của công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam Thứ nhất: Về công tác tổ chức bộ máy. Do chưa có đơn vị chuyên trách về công tác đầu tư tăng trưởng nên chưa tham mưu cho Tổng Giám đốc lựa chọn được các dự án đầu tư có hiệu quả nhất, từ đó chủ động đề xuất Chính phủ cho phép quỹ được đầu tư. Điều 21 của quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam ban hành kèm theo quyết định 02/2003/QĐ-TTg ngày 02/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ có quy định rõ: “BHXH Việt Nam có trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo toàn giá trị và tăng trưởng các quỹ Bảo hiểm. Việc dùng tiền nhàn rỗi của các quỹ Bảo hiểm để đầu tư phải đảm bảo an toàn, bảo toàn được giá trị và có hiệu quả về kinh tế - xã hội”. Các hình thức đầu tư như: mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái KBNN và của các ngân hàng thương mại; cho NSNN, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, Ngân hàng chính sách vay…; đầu tư vốn vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Đương nhiên để Chính phủ có quyết định đúng đắn trong việc đầu tư vốn và có hiệu quả nhất, thì BHXH Việt Nam phải chủ động nghiên cứu thị trường, phát hiện những nơi cần vốn, trên cơ sở đó đề xuất với Chính phủ phương án đầu tư thích hợp. Thực tế trong những năm qua do BHXH chưa có tổ chức chuyên trách làm công tác đầu tư tăng trưởng nên nghiệp vụ tìm đối tác đầu tư hầu như không thực hiện được. Hầu hết các dự án là do Chính phủ chỉ định, BHXH Việt Nam chỉ là cơ quan thừa hành lệnh của Chính phủ. Đây là mặt hạn chế trong công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH ở nước ta, hạn chế đó đã biến BHXH từ chủ động tìm đối tác thành bị động. Kinh nghiệm ở các nước, hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH nói chung cũng do Chính phủ điều hành, nhưng Chính phủ chỉ ra quyết định khi có đề xuất của BHXH. Ví dụ Malaysia, tất cả các dự án được Chính phủ phê chuẩn đầu tư từ quỹ BHXH đều do cơ quan an sinh xã hội Malaysia đề xuất. Ngoài các danh SV: Nguyễn Đức Long 16 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ mục đầu tư do Chính phủ quy định, cơ quan an sinh xã hội Malaysia còn được phân cấp tự quyết định đầu tư vào một số dự án chưa đủ tầm chiến lược quốc gia, các dự án cho doanh nghiệp vay với khối lượng tiền không lớn… để khuyến khích người lao động và chủ sử dụng lao động tích cực tham gia BHXH. Đương nhiên để làm được việc đó, cơ quan an sinh xã hội Malaysia có một tổ chức chuyên làm công tác đầu tư tăng trưởng. Ví dụ Quỹ dự phòng EFP Malaysia có một ban gồm 7 thành viên chuyên trách làm công tác đầu tư tăng trưởng do Phó Tổng Giám đốc trực tiếp làm trưởng ban, cơ quan an sinh xã hội (SOCSO) cũng có một bộ phận chuyên trách làm công tác đầu tư. Từ yêu cầu thực tế nước ta và kinh nghiệm của các nước, BHXH Việt Nam cần sớm thành lập bộ phận chuyên trách làm công tác đàu tư tăng trưởng quỹ. Thứ hai: Về lãi suất cho vay. Hạn chế được biểu hiện rõ nét nhất là chưa tập trung nghiên cứu mức lãi suất cho vay hợp lý từ quỹ BHXH, nên chưa thuyết phục được các ngành, các cấp có liên quan. Đây là một hạn chế lớn đối với công tác đầu tư quỹ. Có những dự án lãi suất cho vay còn thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Ví dụ hầu hết các dự án cho vay trong năm 1998 lãi suất đều thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Năm 1998, tỷ lệ lạm phát là 9,2%, nhưng mức lãi suất cho Ngân hàng đầu tư phát triển vay là 7% năm, cho Bộ tài chính vay lãi suất 7% năm, thời hạn 5 năm. Điều đáng chú ý là do chưa tổ chức chuyên trách làm công tác đầu tư quỹ nên chưa tham mưu giúp chính phủ chỉ định đúng đối tác đầu tư, quy định đối tác cho vay. Nhiều đối tượng đang cần vốn đầu tư như các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh lại không được vay. Ở các nước người ta coi đây là biện pháp nuôi nguồn thu. Thứ ba: Về thời hạn cho vay. Do đặc thù của quỹ BHXH nên việc đầu tư quỹ phải đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên. Mặt khác, do quỹ BHXH mới tách ra khỏi ngân sách Nhà nước SV: Nguyễn Đức Long 17 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ hoạt động độc lập nên chưa có kinh nghiệm và phương pháp dự báo khoa học trong dài hạn. Vì vậy trong năm qua BHXH chủ yếu là cho vay ngắn hạn, còn cho vay dài hạn hầu như chưa được triển khai. Để cho vay dài hạn đòi hỏi phải làm tốt công tác dự báo, ví dụ thời gian nhàn rỗi của nguồn vốn, thời hạn cho vay, thời hạn thu nợ vay, phải phù hợp với các nhu cầu chi trả BHXH trong tương lai. Vì vậy trong điều kiện hiện nay khi BHXH Việt Nam chưa có khả năng dự báo cân đối quỹ dài hạn chính xác thì chỉ nên cho vay ngắn hạn để đảm bảo sự an toàn của quỹ. Thứ tư: Về công tác thu nợ. Trong cơ chế thị trường, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau là điều rất có thể xảy ra. Đặc biệt đối với BHXH Việt Nam do chưa có tổ chức chuyên trách đầu tư tăng trưởng, khối lượng tiền cho vay lại lớn thì việc thu nợ vay đối với các dự án đã hết hạn sẽ gặp nhiều khó khăn, điều này gây ảnh hưởng đến độ an toàn của quỹ và việc chi trả các chế độ BHXH. Từ những nội dung tồn tại trong công tác đầu tư tăng trưởng như trên, luận văn cho rằng cấp thiết phải thành lập bộ phận chuyên trách làm công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ MÔ HÌNH VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG QUỸ BHXH 2.1. Thực trạng đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH ở Việt Nam 2.1.1. Các quy định pháp lý về đầu tư từ quỹ BHXH. Quyết định về đầu tư quỹ BHXH luôn chịu sự chi phối của các quy định pháp lý về xác định nguồn vốn, nguyên tắc và tỷ lệ phân bổ vốn đầu tư. Để đi đến đánh giá cụ thể tình hình phân bổ vốn đầu tư và hiệu quả đầu tư quỹ BHXH, chúng SV: Nguyễn Đức Long 18 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ ta sẽ kiểm tra một cách cụ thể hơn về các quy định pháp lý theo trình tự thời gian. 2.1.1.1. Các quy định trước năm 2003 * Nội dung của quy định Nội dung chủ yếu của các quy định liên quan đến đầu tư quỹ BHXH trước năm 2003 theo quyết định số 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/01/1998 của thủ tướng Chính phủ là: Thứ nhất: BHXH Việt Nam được sử dụng tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ BHXh để thực hiện các biện pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng. Thứ hai: Về nguyên tắc, việc dùng quỹ BHXH để đầu tư phải đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất, bảo toàn được giá trị và có hiệu quả kinh tế – xã hội. Thứ ba: Các hình thức đầu tư bao gồm: - Mua trái phiếu, tín phiếu của kho bạc nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước. - Cho vay đối với NSNN, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước. - Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ. * Những đánh giá về các quy định trước năm 2003 - Ưu điểm: + Sự ra đời của các quy định trên đã bước đầu tạo ra khung pháp lý cơ bản cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho người được bảo hiểm. + Danh mục đầu tư theo quy định chủ yếu là các tài sản tài chính phù hợp với đặc điểm vận động của các quỹ BHXH trong nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. + Giới hạn lãnh thổ đối với các đầu tư tại Việt Nam là hoàn toàn hợp lý để SV: Nguyễn Đức Long 19 Lớp : K39 – 01.01 LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ nâng cao vai trò tài trợ vốn của các trung gian tài chính cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn mà nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế - xã hội đã trở thành bức xúc. + Việc thể chế hoá các nguyên tắc đầu tư: an toàn, hạn chế rủi ro và có hiệu quả kinh tế - xã hội là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn. Nguyên tắc này bắt buộc BHXH Việt Nam phải thực hiện đầu tư vốn với mức độ an toàn cao nhất đảm bảo lợi ích cho người được bảo hiểm. - Hạn chế: Những hạn chế cơ bản của các quy định trong chế độ ngày 26/01/1998 có thể được chỉ ra một số điểm sau đây: + Các quy định về tổng thể là quá đơn giản, chưa có những quy định chi tiết cho việc đầu tư vốn với từng loại nguồn vốn từ quỹ BHXH. Bởi vì bản chất của nguồn vốn đầu tư ngắn hạn khác hẳn so với nguồn vốn đầu tư dài hạn về các quy định lượng và thời hạn. +Việc không quy định tỷ lệ đâu tư quỹ BHXH vào mỗi danh mục đầu tư đã gây khó khăn và tạo ra thế bị động cho ngành BHXH Việt Nam. Thời gian qua việc đầu tư quỹ BHXH chủ yếu theo sự chỉ định của Thủ tướng Chính phủ. + Các quy định pháp lý chưa thể hiện được rõ nguyên tắc đa dạng hoá trong lĩnh vực đầu tư nhằm hạn chế và phân tán rủi ro. Một điều rất nguy hiểm nếu BHXH đầu tư toàn bộ tiền tạm thời nhàn rỗi vào một danh mục đầu tư. + Điều 17 trong QĐ 20/1998/QĐ-TTg ngày 26/01/1998 chưa đề cập tới nguyên tắc “khả năng thanh toán thường xuyên”. Bởi vì, việc đầu tư quỹ BHXH dưới hình thức nào, vào lĩnh vực nào cũng phải đảm bảo khả năng chuyển đổi các tài sản đầu tư thành tiền để quỹ thực hiện nghĩa vụ chi trả cho người được bảo hiểm. Như vậy, quỹ BHXH chỉ có thể đầu tư vào các tài sản mang tính lỏng và vào các tài sản có thu nhập thường xuyên ổn định. Kể từ năm 1995 khi BHXH ra đời cho đến trước năm 2003 số dư quỹ là một SV: Nguyễn Đức Long 20 Lớp : K39 – 01.01
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan