Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chuyên ngành kinh tế Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho các...

Tài liệu Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho các bệnh viện tuyến tỉnh trên địa bàn tỉnh thái bình

.PDF
55
313
117

Mô tả:

Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính CHƯƠNG 1 SỰ NGHIỆP Y TẾ VÀ QUẢN LÝ CHI NSNN CHO SỰ NGHIỆP Y TẾ 1.1 Sự nghiệp y tế và vai trò của nó đối với quá trình phát triển kin tế xã hội. Bất cứ quốc gia nào, trong mọi điều kiện hoàn cảnh, nhân tố con người luôn là trung tâm của mọi chiến lược phá triển kinh tế xã hội. Ở đó con người là chủ thể thực hiện các chính sách mục tiêu chiến lược, đồng thời cũng là đối tượng chịu sự tác động của chiến lược đó cũng như thụ hưởng những thành quả mà chiến lược đó mang lại. Con người luôn là nguồn tài nguyên quý báu nhất quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khỏe là vốn quý báu nhất của con người, của toàn xã hội và cũng là niềm hạnh phúc lớn nhất của mỗi gia đình. Vì vậy đầu tư cho y tế để mọi người đều được chăm sóc cho sức khỏe chính là sự đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và còn là minh chứng cụ thể, sinh động cho sự tồn tại, phát triển của một xã hội trong hiện tại và tương lai. Đất nước ta đang trên đà phát triển đi lên XHCN, tiến lên trở thành một nước công nghiệp. Tiến trình CNH – HĐH đất nước đang thực thi, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch một cách mạnh mẽ và nhanh chóng diễn ra trên nhiều vùng miền. Để thực hiện thành công và đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Đảng ta luôn nhận định con người là nhân tố SV: Ngô Long Hải 4 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính hàng đầu, là nguồn tài nguyên quý báu nhất quyết định sự phát triển của đất nước. Trong đó sức khỏe là cái gốc để con người phát triển. Con người có khỏe mạnh thì mới lao động và học tập tốt. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân là phải phát triển sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân với mục tiêu giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ, phát triển giống nòi, tạo ra lực lượng lao động dồi dào, chất lượng cao, đủ năng lực để tiến hành công cuộc CNH – HĐH. Trong sự nghiệp chung đó của đất nước thì sự nghiệp y tế đóng vai trò hàng đầu. 1.2 Nguồn tài chính dành cho sự nghiệp y tế và sự cần thiết của chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế. 1.2.1 Nguồn tài chính dành cho sự nghiệp y tế. Sự nghiệp y tế muốn phát triển thì cần phải có sự đầu tư, mà trước hết là sự đầu tư vốn bằng tiền. Vốn đầu tư bằng tiền ( nguồn tài chính) dành cho sự nghiệp y tế bao gồm 4 nguồn chủ yếu là: NSNN; BHYT; viện phí; viện trợ và vốn vay. Mỗi nguồn kinh phí giữ một vai trò nhất định trong hoạt động của ngành, trong đó NSNN giữ vai trò chủ đạo. Sở dĩ nói như vậy là vì: • NSNN có ưu điểm là đảm bảo cho sự duy trì nhân lực của ngành y tế, dễ điều hòa (điều hòa từ vùng này sang vùng khác, điều hòa khi có việc khẩn cấp như dịch bệnh, thiên tai …). • BHYT là sự tích lũy của cả cộng đồng, bao gồm cả người khỏe mạnh lẫn người ốm đau để chi trả cho người khám chữa bệnh. Do đó, bảo hiểm y tế mang tính cộng đồng rõ rệt. Tuy vậy so với NSNN, BHYT SV: Ngô Long Hải 5 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính vẫn bị giới hạn trong phân bổ sử dụng (tức là người chưa tham gia BHYT thì không được quỹ này hỗ trợ trong chăm sóc sức khỏe). • Một phần viện phí là số tiền mà người bệnh phải bỏ ra khi ốm đau. Thời gian qua, viện phí là một biện pháp tình thế góp phần giảm bớt khó khăn do thiếu kinh phí cho công tác khám chữa bệnh. Nhưng xét về lâu dài, viện phí sẽ không được coi là một nguồn lực chủ yếu cho chi phí y tế, bởi vì chi phí đó sẽ làm cho người nghèo càng nghèo hơn. • Viện trợ và vốn vay là khoản kinh phí không ổn định vì phải phụ thuộc vào thái độ chính trị của các nhà tài trợ. Việc sử dụng nguồn lực này cho hoạt động y tế còn phụ thuộc vào ý muốn của các nhà tài trợ. Như vậy, có thể khẳng định chỉ có NSNN là nguồn kinh phí tương đối ổn định, dễ điều hòa thực hiện định hướng công bằng và hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe, phát huy bản chất ưu việt của nền y tế xã hội chủ nghĩa (lấy y tế công cộng là chủ đạo). Để đảm bảo cho mục đích công bằng được thực hiện một cách chắc chắn thì nguồn tài chính chủ yếu của y tế là nguồn NSNN cấp. Nói như thế không có nghĩa là toàn bộ chi tiêu y tế sẽ do NSNN đảm bảo, nhưng NSNN cấp phải chiếm phần chủ yếu trong tổng chi tiêu y tế. Ngoài NSNN cấp thì phải coi trọng BHYT và phát triển bảo hiểm y tế theo hướng thực hiện bắt buộ toàn dân. Còn viện trợ, viện phí cũng là một nguồn tài chính nhưng không thể lấy làm chủ yếu nếu chúng ta muốn thực hiện một nền y tế công bằng. 1.2.2 Sự cần thiết của chi NSNN cho sự nghiệp y tế Chi NSNN cho sự nghiệp y tế là một khoản chi gắn trực tiếp với chủ thể nhà nước. Vai trò của chi NSNN không chỉ là cung cấp nguồn lực tài chính để duy trì, củng cố hoạt động y tế mà còn có tác dụng định hướng SV: Ngô Long Hải 6 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính điều chỉnh các hoạt động y tế phát triển theo định hướng chủ trương của Đảng và Nhà nước. Gắn liền với chủ trương xã hội hóa y tế, Nhà nước ta đang thực hiện mở rộng, đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho y tế kể cả trong và ngoài nước nhưng nguồn vốn đầu tư từ NSNN vẫn giữ vai trò chủ đạo và vai trò của các khoản chi NSNN đó đượ thể hiện ở các khia cạnh sau: Thứ nhất, NSNN luôn là nguồn chủ yếu cung cấp nguồn tài chính duy trì sự tồn tại và phất triển của hoạt động sự nghiệp y tế. Y tế là một hoạt động rộng lớn mà Nhà nước luôn phải quan tâm và có sự đầu tư thích đáng. Trong mỗi thời kỳ khác nhau của nền kinh tế đều đòi hỏi việc đầu tư cho sự nghiệp y tế khác nhau là khác nhau và nó không ngừng tăng lên. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để huy động nguồn lực tài chính từ bên ngoài đầu tư cho sự nghiệp y tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện để mở bệnh viện hoặc phòng khám chữa bệnh nhằm giảm “gánh nặng” cho nhà nước nhưng số lượng vẫn chưa nhiều, còn rời rạc và chưa tạo thành hệ thống. Thứ hai, chi NSNN đảm bảo sự công bằng, giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng trong xã hội. Công bằng trong chăm sóc sức khỏe có những tiêu chí hoàn toàn khác với công bằng trong kinh tế, do đó không thể áp dụng một cách máy móc, không thể gắn khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản với khả năng chi trả. Nếu trong kinh tế, công bằng là “phân phối theo SV: Ngô Long Hải 7 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính mức đóng góp và nguồn lực khac”, thì công bằng trong lĩnh vự y tế hoàn toàn không như vậy, không có nghĩa là ai ốm nhiều thì trả tiền nhiều. Chi NSNN ở một khía cạnh nào đó đã giải quyết được một vấn đề đó là: những người nghèo, những gia đình chính sách, người dân các xã vùng sâu, vùng xa … có nhu cầu khám chữa bệnh mà không đủ khả năng tài chính để chi trả các dịch vụ y tế thì họ đã được hỗ trợ một phần từ NSNN. Còn đối với những người sử dụng dịch vụ theo yêu cầu cao hơn thì phải trả thêm tiền và như vậy công bằng y tế trong điều kiện hiện nay đảm bảo cho con người được tiếp cận và sử dụng những dịch vụ y tế cơ bản. Thứ ba, chi NSNN cho sự nghiệp y tế giúp duy trì định hướng phát triển của mạng lưới y tế theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định tăng trưởng kinh tế phải kèm theo sự phát triển bền vững. Chi NSNN cho sự nghiệp y tế cũng không nằm ngoài mục tiêu đó, với vai trò cụ thể hóa các chính sách của Đảng và Nhà nước. Thông qua cơ cấu chi, định mức chi NSNN cho sự nghiệp y tế có tác dụng nhằm thay đổi, điều chỉnh quy mô, mạng lưới hệ thống y tế đảm bảo sự phát triển đồng đều, đúng đắn. Thứ tư, chi NSNN có vai trò quan trọng trong việc củng cố, tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ y, bác sỹ. Hai yếu tố này lại ảnh hưởng có tính chất quyết định hoạt động y tế. Trong sự nghiệp y tế thì y đức của người bác sỹ được đặt lên hàng đầu. Vì người bệnh thì hoàn toàn phụ thuộc vào các quyết định của bác sỹ. Do vậy, Nhà nước phải có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho họ yên tâm công tác. SV: Ngô Long Hải 8 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính Ngân sách dành cho một phần rất lớn cho những chi phí liên quan đến con người trong đó chi lương và phụ cấp cho đội ngũ y, bác sỹ luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi thường xuyên cho y tế. Thu nhập của người bác sỹ là một vấn đề có ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của họ. Một chính sách lương hợp ly sẽ hạn chế các hiện tượng “thương mại” trong nghành y tế. Thứ năm, nguồn vốn NSNN đảm bảo chi phí thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về y tế: tiêm chủng mở rộng, hoạt động khống chế bệnh sốt rét, phòng chống lao, HIV … các chương trình đầu tư cho y tế vùng cao. Thứ sáu, chi NSNN có tác dụng khuyến khích và thu hút các nguồn vốn khác đầu tư vào sự nghiệp y tế. Nhà nước ta đang đẩy mạnh xã hội hóa trong y tế, điều đó có nghĩa là sẽ có nhiều thành phần khác trong nền kinh tế tham gia vào khu vực y tế - khu vực mà chủ yếu nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Để đầu tư vào khu vực này thì phải có tiềm lực tài chính khá lớn để đầu tư các trang thiết bị y tế, nghiên cứu khoa học … phục vụ cho nhu cầu khám chữa bệnh. Trong trường hợp các tổ chức cá nhân chưa có đủ tiềm lực tài chính thì sự đầu tư của vốn NSNN có vai trò là số vốn đối ứng quan trọng thu hút các nguồn lực khác đầu tư vào sự nghiệp y tế. Khi có nguồn vốn từ NSNN, các tổ chức, cá nhân sẽ an tâm hơn một phần với số vồn mà mình bỏ ra. Mặc dù trong những năm qua NSNN giành cho ngành y tế ngày càng tăng nhưng thực tế đầu tư tài chính cho sự nghiệp y tế còn đối mặt với nhiều thách thức. Đó là những thách thức chủ yếu sau: SV: Ngô Long Hải 9 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính Đầu tư cho y tế còn hạn hẹp, chỉ đáp ứng 50 đến 60% nhu cầu, trong khi dân số tăng, nhiệm vụ tăng, đòi hỏi phải đầu tư nhiều hơn cho y tế. Mức sống của người dân ngày càng được cải thiện, tuổi thọ trung bình ngày càng cao thì nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng và đa dạng, do đó cần phải huy động mọi nguồn lực trong và ngoài ngân sách để đáp ứng với nhu cầu đòi hỏi phát triển sự nghiệp này. Trình độ cán bộ chuyên môn và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành trong tình hình mới, dẫn đến hiệu quả của công tác cung cấp dịch vụ y tế chưa cao. Về mặt quản lý nhà nước không đồng bộ trong chính sách cụ thể và mất cân đối trong việc chỉ đạo đầu tư các nguồn lực giữa vùng giàu, vùng nghèo, vùng y tế chuyên sâu và y tế cơ sở, giữa y tế dự phòng và khám chữa bệnh … Chính những thách thức trên, cộng với đặc điểm chi NSNN cho sự nghiệp y tế diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và phức tạp, nhu cầu chi luôn gia tăng, trong khi khả năng huy động nguồn thu có hạn. Vì vậy, để đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả trong việc quản lý các khoản chi NSNN cho sự nghiệp y tế đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý chi NSNN cho sự nghiệp y tế. 1.3 Khái niệm, nội dung của chi NSNN cho sự nghiệp y tế 1.3.1 Khái niệm chung về chi NSNN cho sự nghiệp y tế Chi NSNN cho sự nghiệp y tế là quá trình phân phối và sử dụng một phần vốn từ quỹ NSNN để duy trì phát triển sự nghiệp y tế theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. SV: Ngô Long Hải 10 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính Chi NSNN cho sự nghiệp y tế là một khoản chi thường xuyên thuộc lĩnh vực văn xã, nhưng so với các khoản chi thường xuyên khác, chi NSNN cho sự nghiệp y tế có những nét riêng biệt: Thứ nhất, chi NSNN cho sự nghiệp y tế là khoản chi vừa có tính chất tiêu dùng, vừa mang tính chất tích lũy đặc biệt Nếu tính trong một năm ngân sách, đấy là một khoản chi mang tính chất tiêu dùng, không trực tiếp tạo ra của cải vật chất hoặc không gắn với việc tạo ra của cải vật chất trong mỗi năm đó. Nếu trong một giai đoạn lâu dài, đây là một khoản chi mang tích tích lũy đặc biệt, là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế. Khoản chi này tác động mạnh mẽ tới yếu tố con người, tác động đến sự sáng tạo của cải vật chất và văn hóa tinh thần, là nhân tố tác động đến sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế – xã hội trong tương lai. Thứ hai, chi NSNN cho sự nghiệp y tế là khoản chi chứa đựng nhiều yếu tố xã hội. Chi NSNN cho sự nghiệp y tế quyết định mức độ ưu đãi đối với các tầng lớp giai cấp trong xã hội mà đặc biệt là những người có hoàn cảnh khó khăn, những đối tượng thuộc diện ưu tiên, những gia đình chính sách, những người có công với cách mạng, vùng sâu, vùng xa, và những vùng thường xuyên xảy ra dịch bệnh, qua đó thực hiện công bằng xã hội Mặt khác, chi NSNN cho sự nghiệp y tế cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố xã hội: phong tục tập quán, mức sống …. Chính những yếu tố này sẽ quyết định tới quan điểm hoạt động của sự nghiệp y tế. 1.3.2 Nội dung của chi NSNN cho sự nghiệp y tế Chi NSNN cho sự nghiệp y tế có nhiều nội dung chi tiết khác nhau và được phân ra dưới một số tiêu thức chủ yếu sau: SV: Ngô Long Hải 11 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính ▪ Theo chức năng ngành y tế: Nội dung chi NSNN cho sự nghiệp y tế gồm: chi phòng bệnh, chi đào tạo, chi nghiên cứu khoa học y dược, chi quản lý hành chính và chi khác. ▪ Theo tính chất các khoản chi: Nội dung chi NSNN cho sự nghiệp y tế gồm: Chi đầu tư: chi mua sắm TSCĐ, chi sửa chữa TSCĐ và chi XDCB. Chi thường xuyên: Phân loại theo nội dung chi thường xuyên bao gồm các nhóm sau: • Nhóm 1: Chi cho con người Đây là nhóm chi đảm bảo bù đắp hao phí sức lao động, là điều kiện đầu tiên để duy trì sự sống của con người, từ đó mới có thể thực hiện được nhiệm vụ chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Chi cho non người là các khoản chi thường xuyên bao gồm: Chi lương, phụ cấp, tiền thưởng, phúc lợi tập thể, chi BHXH, BHYT và trợ cấp khó khăn đột xuất cho cán bộ công nhân viên chức hoạt động trong lĩnh vực y tế. Khoản chi này chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong kế hoạch chi thường xuyên của NSNN cho sự nghiệp y tế. • Nhóm 2: Chi cho nghiệp vụ chuyên môn. Bao gồm các khoản chi phí về nghiên cứu sinh học, hội thảo khoa học, chi phí thuê mướn chuyên gia nước ngoài, chi phí đào tạo trình độ bác sỹ, các chi phí nghiệp vụ chuyên môn: chi mua vật tư hàng hóa như dịch truyền, thuốc men, bông băng …, trang thiết bị chuyên dùng trong SV: Ngô Long Hải 12 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính ngành y tế, chi mua đồng phục, bảo hộ lao động, chi phí tham quan học tập các ứng dụng tiên tiến về y tế. • Nhóm 3: Chi mua sắm sửa chữa thường xuyên tài sản. Trong quá trình hoạt động, các đơn vị được NSNN cấp kinh phí để mua sắm tài sản hay sửa chữa các tài sản hiện có nhằm phục vụ kịp thời nhu cầu khám chữa bệnh và nâng cao hiệu quả của các trang thiết bị y tế, chất lượng phục vụ của tài sản không bị sút giảm. • Nhóm 4: Các khoản chi thường xuyên khác. Đây là các khoản chi nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của bộ máy quản lý ngành y tế. Bao gồm: thanh toán dịch vụ công cộng, thông tin, truyền tin, liên lạc, hội nghị, chi các khoản phí và lệ phí của các đơn vị dự toán …. Đây là các khoản chi mang tính chất ngạy cảm, do đó cần phải tăng cường công tác quản lý không làm thất thoát NSNN. Nguyên tắc quản lý chi NSNN cho sự nghiệp y tế. Khái niệm quản lý chi NSNN cho sự nghiệp y tế Theo nghĩa thông thường thuật ngữ “quản lý” được hiểu là quá trình tổ chức, điểu khiển hoạt động của một đơn vị, một lĩnh vực. Từ đó có thể hiểu quản lý chi thường xuyên của NSNN cho sự nghiệp y tế là quá trình tổ chức, điều khiển các hoạt động chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước quản lý NSNN cũng như các cơ quan trong nghành y tế. Chi NSNN cho sự nghiệp y tế phải tuân thủ các nguyên tắc: • Thứ nhất, nguyên tắc quản lý theo dự toán SV: Ngô Long Hải 13 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính Số chi thường xuyên đã được ghi trong dự toán thể hiện sự cam kết của cơ quan chức năng về quản lý tài chính nhà nước đối với các đơn vị thụ hưởng ngân sách. Nguyên tắc này xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sau: Hoạt động của NSNN, đặc biệt là cơ cấu thu chi của NSNN phụ thuộc vào quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước; đồng thời luôn phải chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quyền lực của nhà nước. Do vậy, mọi khoản chi từ NSNN chỉ có thể trở thành hiện thực khi và chỉ khi khoản chi đó nằm trong cơ cấu chi theo dự toán đã được cơ quan quyền lực nhà nước xét duyệt và thông qua. Phạm vi chi của NSNN rất đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Mức chi cho mỗi hoạt động được xác định theo đối tương riêng, định mức riêng. Có quản lý theo dự toán mới đảm bảo được yêu cầu cân đối của NSNN, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành NSNN, hạn chế được tính tùy tiện trong quản lý và sử dụng kinh phí ở các đơn vị thụ hưởng kinh phí NSNN. • Thứ hai, nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả Đây là một trong những nguyên tác quan trọng hàng đầu của quản lý kinh tế, tài chính, bởi lẽ nguồn lực thì có hạn nhưng nhu cầu thì không có mức giới hạn nào. Đối với các cơ sở y tế, để đạt được nguyên tắc này thì trong quá trình quản lý chi thường xuyên của NSNN phải làm tốt và làm đồng bộ một số nội dung sau: SV: Ngô Long Hải 14 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính Xây dựng các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp với từng đối tượng hay tính chất công việc; đồng thời lại phải có tính thực tiễn cao. Thiết lập được các hình thức cấp phát đa dạng và lựa chon hình thức cấp phát cho mỗi đơn vị. Lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các hoạt động hoặc theo các nhóm mục chi sao cho với tổng số chi có hạn nhưng khối lượng công việc vẫn hoàn thành và đạt kết quả cao. Để đạt được điều này, đòi hỏi phải có được các phương án phân phối và sử dụng khác nhau. • Thứ ba, nguyên tắc chi trực tiếp qua Kho bạc nhà nước Để tăng cường vai trò của KBNN trong kiểm soát chi thường xuyên của NSNN, hiện nay nước ta đã và đang thực hiện “chi trực tiếp qua KBNN” và coi đó như là một nguyên tắc trong quản lý khoản chi này. 1.4 Quản lý chi NSNN cho sự nghiệp y tế 1.4.1 Quản lý chi NSNN cho sự nghiệp y tế Quản lý chi NSNN cho sự nghiệp y tế là hoạt động của các cơ quan chức năng thông qua việc sử dụng có chủ định các phương pháp quản lý và các công cụ quản lý để tác động và điều khiển hoạt động chi NSNN cho sự nghiệp y tế nhằm đạ được mục tiêu đã định. Để quản lý chi NSNN cho sự nghiệp y tế hiệu quả, phù hợp với các nguyên tắc nêu trên thì cần có các biện pháp sau: Thiết lập các định mức chi. Định mức chi vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch chi, vừa là căn cứ để thực hiện việc kiểm soát các khoản chi của NSNN. Nguyên tắc chung để thiết lập các định mức chi là vừa phải phù SV: Ngô Long Hải 15 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính hợp với yêu cầu thực tiễn khách quan của các đơn vị thụ hưởng nguồn kinh phí của NSNN, vừa phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả. Xác lập thứ tự ưu tiên các khoản chi của NSNN theo mức độ cần thiết đối với từng khoản chi trong tình hình cụ thể về phát triển kinh tế, xã hội, về thực hiện các chức năng của cơ quan công quyền. Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát chi của các cơ quan có thẩm quyền. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong việc sử dụng nguồn kinh phí của Nhà nước. Đồng thời qua quá trình thực hiện thanh tra, kiểm tra và kiểm toán phát hiện những bất hợp lý trong chính sách, chế độ nhằm hoàn thiện bổ sung chính sách, chế độ. 1.4.2 Mô hình và chu trình quản lý chi NSNN cho sự nghiệp y tế. Chi NSNN cho sự nghiệp y tế được quản lý thông qua 3 khâu: lập dự toán; chấp hành dự toán và quyết toán. Mô hình quản lý chi NSNN cho sự nghiệp y tế. SV: Ngô Long Hải 16 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính Sở tài chính Sở y tế, bệnh viện tuyến tỉnh Kho bạc nhà nước tỉnh Phòng tài chính kế hoạch huyện Trung tâm y tế tuyến huyện Kho bạc nhà nước huyện Ban tài chính xã SV: Ngô Long Hải Trạm xá phường, xã 17 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính Chú giải: Xét duyệt dự toán Rút dự toán Lập dự toán • Lập dự toán Lập dự toán là khâu đầu tiên trong chu trình quản lý NSNN nói chung và ngân sách cho y tế nói riêng. Khâu này mang tính địn hướng, là cơ sở nền tảng cho các khâu tiếp theo trong quá trình quản lý vốn ngân sách. Quy trình lập dực toán chi NSNN cho sự nghiệp y tế được thực hiện như sau: Căn cứ vào chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, thông tư hướng dẫn và số kiểm tra về dự toán ngân sách của Bộ Tài Chính. Căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của địa phương, khả năng cân đối NSĐP, Sở hướng dẫn và thông báo số kiểm tra về dự toán cho các đơn vị sự nghiệp y tế và UBND cấp dưới. Trên cơ sở số kiểm tra về dự toán ngân sách và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh dựa trên Nghị quyết Đảng bộ tỉnh và Nghị SV: Ngô Long Hải 18 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính quyết của HĐND tỉnh, thực tế hoạt động của ngành y tế, các đơn vị dự toán tiến hành lập dự toán của đơn vị mình. Cụ thể, tại cấp tỉnh: Sở Y tế và các bệnh viện tuyến tỉnh lập dự toán gửi Sở Tài chính. Sở Tài chính giao số kiểm tra cho Sở Y tế trên cơ sở dự toán sơ bộ về chi ngân sách y tế kỳ kế hoạch. Sở Tài chính xác định các định mức chi tổng hợp dự kiến sẽ phân bổ cho các đơn vị dự toán cấp dưới, trên cơ sở đó hướng dẫn các đối tượng này tiến hành lập dự toán ngân sách y tế. Sở Tài chính báo cáo UBND tỉnh trình HĐND tỉnh quyết định phân bổ ngân sách cho các đơn vị dự toán thuộc tỉnh. Căn cứ vào nghị quyết của HĐND tỉnh, UBND tỉnh tiến hành giao dự toán cho từng đơn vị. • Chấp hành dự toán Đây là khâu thứ hai và cũng là khâu quan trọng nhất trong chu trình quản lý ngân sách, đó là quá trình thực hiện cấp phát NSNN cho sự nghiệp y tế. Việc cấp phát cho các đơn vị được thực hiện theo hai phương pháp chính: cấp phát theo dự toán và cấp phát theo lệnh chi tiền. Trong đó, cấp phát theo dự toán là chủ yếu. Các nguyên tắc cần quán triệt trong khâu chấp hành dự toán: Cấp phát phải đảm bảo đúng nội dung, tập trung có trọng điểm trên cơ sở được giao. Cấp phát và sử dụng kịp thời, chặt chẽ tránh mọi lãng phí, thất thoát, tham ô. Cấp phát đảm bảo cân đối giữa khả năng và nhu cầu tiết kiệm, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. SV: Ngô Long Hải 19 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính Tại cấp tỉnh, Sở Tài chính phối hợp với Sở Y tế tổ chức thực hiện chấp hành chi, cấp phát kinh phí cho các bệnh viện tuyến tỉnh. Các đơn vị thuộc ngành căn cứ vào dự toán mà các cấp có thẩm quyền phê duyệt, các chế độ, chính sách chi tiêu của nhà nước quyết định, lập nhu câu chi tiêu theo mục lục ngân sách gửi KBNN nơi giao dịch và gửi Sở Y tế. • Quyết toán chi NSNN cho sự nghiệp y tế Quyết toán ngân sách là khâu cuối cùng của chu trình quản lý ngân sách nói chung và quản lý chi ngân sách cho sự nghiệp y tế nói riêng. Đây là khâu được tiến hành trên cơ sở xem xét, phân tích những khoản chi đã được nêu trong báo cáo quyết toán của đơn vị để đánh giá kết quả chấp hành ngân sách. Từ đó rút ra ưu nhược điểm và bài học kinh nghiệm cho những năm tiếp theo. Chấp hành ngân sách tốt sẽ làm tăng kỷ cương pháp luật tài chính, ngân sách, xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm chế độ và quy định của pháp luật. Tại cấp tỉnh: Các đơn vị lập báo cáo quyết toán gửi Sở Y tế. Sở Y tế tổ chức xét duyệt quyết toán và thông báo kết quả quyết toán cho các đơn vị trực thuộc, đồng thời gửi Sở Tài chính thẩm tra, phê duyệt. Sở Tài chính tiến hành duyệt quyết toán và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán gửi cho Sở Y tế. 1.5 Những nhân tố ảnh hưởng đến chi NSNN cho sự nghiệp y tế. Chi NSNN cho sự nghiệp y tế chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, sau đây là một số nhân tố chủ yếu: ▪ Mức độ tăng trưởng của nền kinh tế và quan hệ phân phối NSNN. SV: Ngô Long Hải 20 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính Sự tăng trưởng của một quốc gia nhanh hay chậm thể hiện qua chỉ tiêu thu nhập quốc dân cao hay thấp. Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm, thu nhập quốc dân thấp thì một điều tất yếu là mức độ động viên vào NSNN sẽ thấp. Trong khi đó nhu cầu chi tiêu ngày càng gia tăng mà nguồn tài chính đảm bảo cho cho chi tiêu của NSNN bị hạn chế dẫn tới nguồn tài chính cung cấp cho sự nghiệp y tế cũng bị hạnh chế. Ngược lại, nếu nền kin tế có tốc độ tăng trưởng cao, mức động viên vào NSNN lớn và thuận lợi thì nguồn kinh phí giành cho sự nghiệp y tế sẽ cao hơn là một điều tất yếu. Khi nguồn lực tài chính được tập trung vào trong tay Nhà nước hình thành nên NSNN thì nguồn lực này sẽ phân phối cho các lĩnh vực. Tùy vào từng thời kỳ mà khoản chi nào đó có thể chiếm tỷ trọng cao hay thấp trong cơ cấu chi của NSNN. Thực tế cho thấy, với một lượng tài chính (NSNN) nhất định, nếu ta tăng chi quá cho lĩnh vực này thì tất yếu phải giảm chi của lĩnh vực khác. Như vậy, nếu tăng chi cho sự nghiệp y tế thì tất yếu phải giảm chi của lĩnh vực khác. Ngược lại, nếu tăng chi cho các lĩnh vực khác mà phần NSNN dành cho sự nghiệp y tế không đảm bảo nhu cầu tối thiểu thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp y tế và chất lượng của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân sẽ không được đảm bảo. Vì vậy, tùy theo tình hình thực tế và thực trạng của từng ngành mà Nhà nước sẽ xác định một phần NSNN hợp ly dành cho từng ngành, trong đó có ngành y tế. ▪ Tốc độ tăng dân số và tỷ lệ mắc bệnh trong nhân dân Tốc độ tăng dân số và tỷ lệ mắc bệnh trong nhân dân tăng sẽ ảnh hưởng lớn đển chi NSNN cho sự nghiệp y tế. SV: Ngô Long Hải 21 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính Nước ta hiện nay dân số tăng nhanh đã làm cho nhiều mục tiêu về đời sống vật chất, văn hóa, dân trí và sức khỏe đã đề ra mà chưa thể thực hiện được. Dân số tăng trong khi NSNN còn hạn hẹp gây sức ép lớn về mặt xã hội, nhất là về y tế. Dân số tăng nhanh cùng với điều kiện vật chất của người dân thiếu thốn, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, kèm theo đó là sự xuất hiện tăng nhanh của dịch bệnh, gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người. Để thanh toán và đẩy lùi dịch bệnh thì phải gia tăng các khoản chi NSNN cho sự nghiệp y tế. Mặt khác, tỷ lệ mắc bệnh trong nhân dân còn cao đòi hỏi các hoạt động y tế phải đổi mới và chuyển đổi để giải quyết các vấn đề bệnh tật. Điều này cũng ảnh hưởng tới nội dung và cơ cấu chi NSNN cho sự nghiệp y tế. ▪ Trang thiết bị cho hoạt động y tế Tình hình trang thiết bị của ngành y tế cũng là nhân tố ảnh hưởng lớn tới chi NSNN cho sự nghiệp y tế. Nếu như cơ sở vật chất, trang thiết bị ở các cơ sở y tế còn tốt, hiện đại, đảm bảo được nhu cầu khám chữa bệnh thì khoản chi cho mua sắm trang thiết bi y tế giảm kéo theo chi NSNN cho sự nghiệp y tế giảm và ngược lại. Hiện nay trang thiết bị y tế của nước ta con thiếu và lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển, phần lớn các bệnh viện tuyến huyện và tuyến cơ sở thiếu thốn hoặc không có trang thiết bị hiện đại, do vậy đòi hỏi NSNN phải chi nhiều hơn nữa để đầu tư máy móc, trang thiết bị chuyên dụng. Ngoài những nhân tố nêu trên, thì chi NSNN cho sự nghiệp y tế còn chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác như: mạng lưới tổ chức của ngành y tế, khả năng, trình độ của ngành y tế, sự biến động về kinh tế, chính trị và của các nhân tố khác…. SV: Ngô Long Hải 22 CQ45/01.04 Lớp: Chuyên Đề Cuối Khóa Học Viện Tài Chính Tất cả các nhân tố trên đêì tác động và gây ảnh hưởng tới chi NSNN cho sự nghiệp y tế. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố đến chi NSNN cho sự nghiệp y tế trong từng thời kỳ có sự khác nhau. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nội dung, cơ cấu chi NSNN cho sự nghiệp y tế có ý nghĩa quan trọng trong việc bố trí nội dung và cơ cấu các khoản chi của NSNN cho sự nghiệp y tế một cách khách quan, phù hợp với yêu cầu của tình hình ngành y tế và tình hình kinh tế, chính trị trong từng giai đoạn. Tóm lại: Chương một của chuyên đề này đề cập đến những lý luận chung về chi NSNN cho sự nghiệp y tế. Xuất phát từ tầm quan trọng của sự nghiệp y tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội mà cần thiết phải đầu tư cho sự nghiệp này. Vốn đầu tư cho sự nghiệp y tế được lấy từ nhiều nguồn, trong đó từ nguồn NSNN là chủ yếu, hình thành nên các khoản chi NSNN cho sự nghiệp y tế. Chi NSNN cho sự nghiệp y tế là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngành y tế. Nó là một khoản chi thuộc lĩnh vực văn xã nhưng lại có những nét riêng biệt và khác so với các khoản chi thường xuyên khác. Với nội dung chi phong phú và đa dạng, chi NSNN cho sự nghiệp y tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người. Nó là một khoản chi chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó có cả những nhân tố chủ quan và khách quan. Nghiên cứu lý luận chung về chi NSNN cho sự nghiệp y tế có ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý các khoản chi này trong thực tiễn cả ở tầm vĩ mô (trên phạm vi cả nước) và trên tầm vi mô (trong phạm vi mỗi địa phương) để sao cho việc quản lý mang lại hiệu quả cao, đảm bảo được các mục tiêu vĩ mô của Nhà nước. SV: Ngô Long Hải 23 CQ45/01.04 Lớp:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan