I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy và học là yêu cầu cấp thiết để đạt mục tiêu giáo dục đề
ra. Mục tiêu chung của môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông hiện nay là bồi dưỡng
và nâng cao thêm một bước năng lực văn học cho học sinh, trong đó có năng lực đọc hiểu văn bản. Chính vì thế chương trình được xây dựng theo hai trục tích hợp: đọc văn và
làm văn. Với nguyên tắc tích hợp, chương trình hiện nay vẫn dựa vào tiến trình lịch sử văn
học dân tộc nhưng mỗi giai đoạn sẽ lựa chọn ra những thể loại tác phẩm văn học tiêu biểu
để làm văn bản mẫu cho việc dạy học đọc - hiểu. Theo tinh thần này dạy học văn có
nhiệm vụ kép: thông qua dạy kiến thức mà trang bị và rèn luyện cho học sinh cách đọc,
phương pháp đọc để các em có thể tự mình đọc và hiểu những văn bản khác.
Trong nhà trường, đọc hiểu là một cách thức quan trọng để phát huy tính tích cực
chủ động của học sinh, biến việc dạy của một người thành việc đọc của nhiều người, thay
thế phương pháp dạy truyền thống thầy giảng trò ghi.
Xác định rõ vai trò của đọc hiểu như vậy nhưng trong nhà trường phổ thông Việt
Nam hiện nay có một thực tế là không phải giáo viên nào cũng hiểu rõ bản chất của đọc
hiểu và có những biện pháp đọc hiểu phù hợp.
Hơn thế nữa văn học trung đại Việt Nam là thời kì văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
thứ XIX là thời kì văn học quá xa đối với học sinh hiện nay cho nên việc tiếp cận văn bản
của các em gặp nhiều khó khăn. Tài liệu nghiên cứu còn hạn chế, do đó GV trường tôi gặp
nhiều khó khăn trong hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản thơ Trung đại.
Từ những lí do trên, tôi thấy rằng việc tìm hiểu phương pháp dạy đọc hiểu thơ
trung đại Việt Nam cho học sinh lớp 10 là việc làm cần thiết, có ý nghĩa góp thêm tiếng nói
về một trong những vấn đề có tính thời sự hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu các tài liệu liên quan đến vấn đề đọc - hiểu, vấn đề dạy
học thơ trung đại, nhằm đề xuất cách thức, biện pháp góp phần nâng cao kỹ năng đọc hiểu thơ trữ tình trung đại Việt Nam lớp 10. Cụ thể là hướngdẫn đọc hiểu đoạn trích Thề
nguyền trong chương trình lớp Ngữ văn lớp 10 THPT.
- Thiết kế giáo án thể nghiệm, tiến hành dạy thể nghiệm và đánh giá kết quả thể nghiệm.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Lý thuyết đọc - hiểu, thi pháp thơ trữ tình trung đại, các phương pháp dạy học thơ trung
đại.
- Hoạt động dạy và học của giáo viên, học sinh lớp 10 trường THPT Đinh Chương Dương.
- Các văn bản thơ trung đại Việt Nam lớp 10 THPT - cụ thể là đoạn trích Thề nguyền
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các mô hình đọc - hiểu để tìm ra những cách thức, biện
pháp phù hợp trong dạy học thơ trữ tình trung đại lớp 10 nhằm nâng cao kỹ năng đọc hiểu cho học sinh THPT.
4. Phương pháp nghiên cứu
0 Phương pháp tổng hợp, phân tích lí luận và thực tiễn.
- Phương pháp khảo sát thực tế.
- Phương pháp thể nghiệm.
- Phương pháp so sánh đối chiếu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận
Đọc văn là hoạt động diễn ra trong quá trình tiếp nhận văn chương. Đọc không phải
chỉ là hành động nhận thức nội dung ý tưởng từ văn bản mà còn là hoạt động trực quan
sinh động giàu cảm xúc, được khái quát bằng kinh nghiệm sống của mỗi người. Để biểu
đạt được được mục đích trên chúng ta cần hiểu rõ khái niệm đọc - hiểu văn bản.
Trong bài viết “Đọc - hiểu văn bản - một khâu đột phá trong nội dung và phương
pháp dạy học hiện nay” in trên tạp chí văn nghệ GS. Trần Đình Sử có nói “Dạy văn là dạy
cho học sinh năng lực đọc, kỹ năng đọc để học sinh có thể đọc hiểu bất cứ văn bản nào
cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các
tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng
có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho học sinh năng lực của chủ thể tiếp
nhận thẩm mỹ. Do đó hiểu bản chất môn văn là môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu
thực sự bản chất của văn học, vừa hiểu đúng thực chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát
triển năng lực là chủ thể của học sinh”
Dạy đọc - hiểu là vừa dạy cách thức tiếp xúc với văn bản, thông hiểu nghĩa đen,
nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trò tác dụng của các hình thức, biện
pháp nghệ thuật ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm của người viết, các giá trị tự
thân của hình tượng nghệ thuật và cả ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong ngữ
cảnh của nó, vừa tập trung hình thành cách đọc văn, phương pháp đọc hiểu theo thể loại,
để dần dần các em có thể tự đọc được văn, hiểu tác phẩm văn học một cách khoa học,
đúng đắn.
Tuy nhiên mỗi thể loại văn học có phương pháp đọc hiểu riêng, đọc hiểu thơ trung
đại khác thơ hiện đại. Đối với văn học trung đại Việt Nam (VH từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
XIX) tồn tại hai bộ phạn văn học đó là bộ phận văn học chữ Hán và bộ phân văn học chữ
Nôm. Là bộ phận văn học xuất hiện khá xa so với học sinh hiện nay do đó dạy đọc hiểu
văn bản thơ đã khó đọc hiểu thơ trung đại là vấn đề nan giải hiện nay đối với cả giáo viên
và học sinh. Việc hình thành cho học sinh phương pháp đọc hiểu thơ trung đại là hết sức
cần thiết để đáp ứng yêu cầu dạy văn và học văn hiện nay trong nhà trường THPT.
2. Thực trạng vấn đề .
2.1.Các thể loại thơ trữ tình trung đại
Các văn bản thơ Trung đại Việt Nam trong chương trình ngữ văn lớp 10 khá phong phú đa
dạng về thể loại bao gồm :
- Thể thơ Đường luật ; Là thể thơ có nguồn gốc từ trung Quốc có hai loại đó là thơ ngũ
ngôn và thơ thất ngôn gồm các bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, Cảnh ngày hè của Nguyễn
Trãi, Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Độc tiểu Thanh kí của Nguyễn Du, Vận nước của Đỗ
pháp Thuận
- Thể lục bát: Là các đoạn trích trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du như : Trao
duyên, Nỗi thương mình, Chí khí anh hùng, Thề nguyền
- Thể song thất lục bát: Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ của Đặng Trần Côn bản dịch
của Đoàn Thị Điểm.
Mỗi thể loại có đặc điểm riêng về cấu tạo, trong từng văn bản lại có những sáng tạo
của các tác giả .Để khám phá hết giá trị của văn bản cần nắm rõ đặc trưng từng thể loại
và những sáng tạo của của tác giả đây là yêu cầu đối với cả giáo viên và học sinh.
2.2.Đối với giáo viên dạy môn ngữ văn. Văn bản thơ trung đại – những văn bản thơ có tính
qui phạm chặt chẽ là những tác phẩm được tạo nên trên quan điểm “ Quí hồ tinh bất quí
hồ đa” Nên việc tổ chức dẫn dắt cho học sinh tự chiếm lĩnh được tiếng nói tư tưởng, tình
cảm của nhà thơ đã gửi gắm trong các bài thơ là việc làm không mấy dễ dàng. Đây là khó
khăn mà hầu hết giáo viên nói chung và giáo viên trường THPT Đinh Chương Dương đang
trăn trở .
Nếu việc cảm thụ, phát hiện cho hết cái hay cái đẹp của bài thơ nói chung đã là khó
thì đọc hiểu thơ trung đại lại càng khó hơn. Có khi chỉ một từ, một hình ảnh, một câu thơ
nhưng cũng gây những trở ngại trong việc khai thác giá trị văn bản .
Thói quen dạy của một số giáo viên và thói quen học của một số học sinh theo
phương pháp cũ: giáo viên thuyết giảng học sinh ghi chép cũng là một trở ngại không nhỏ
đối với việc đổi mới theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
2.3. Tình hình học của học sinh
Hiện nay trong các nhà trường phổ thông thái độ đối với môn Ngữ văn của học sinh
có sự phân lập rất rõ. Bởi thế kỉ XXI hội nhập toàn cầu, đời sống kinh tế xã hội phát triển,
những môn học thời thượng (Toán, Lý, Hoá, Tin học, Ngoại ngữ.) quan trọng hơn bao giờ
hết thì văn chương không có tính năng ứng dụng, học xong để có cơ hội việc làm là khó
cho nên số đông học sinh hiện nay có thiên hướng thi vào các khối tự nhiên ,số còn lại rất
ít dự thi vào hai khối C, D thì học văn với một động cơ rất thực dụng: Để thi đại học, cao
đẳng.
Với phần văn học trung đại nói chung và thơ trữ tình trung đại Việt Nam lớp 10 nói
riêng nhiều học sinh tỏ ra ngại học, không hứng thú... Nhiều học sinh chưa có thói quen
chủ động tìm hiểu khám phá bài học, còn thờ ơ với tác phẩm văn chương, nhất là thơ,
thường ít hiểu, ít yêu thơ. Cá biệt không phải không có em “sợ” thơ, bởi vì có những bài
thơ có phiên âm chữ Hán, từ ngữ khó hiểu, điển cố nặng nề gây cho các em nhiều trở ngại
, mà cách giảng của người thầy nhiều lúc cũng chưa làm cho các em hiểu rõ và thấy hay
thêm được chút nào. Từ đó học sinh mất hứng thú khi học văn và kéo theo chất lượng học
văn ngày càng sa sút.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát việc dạy và học thơ trữ tình trung đại Việt Nam lớp
10 của giáo viên và học sinh ban cơ bản. Quá trình và kết quả khảo sát như sau.
- Đối tượng khảo sát : Giáo viên, học sinh lớp 10 Trường THPT Đinh Chương Dương.
- Hình thức khảo sát: Dự giờ đối với giáo viên, kiểm tra vở soạn bài ,ghi bài kết quả chất
lượng sau giờ học của học sinh.
Kết quả khảo sát cho thấy về phía giáo viên chuẩn bị giáo án chu đáo cẩn thận và
truyền đạt đến học sinh những nội dung cơ bản của bài học. Học sinh tiếp thu một cách
thụ động và ghi chép vào vở nhưng thực chất các em không nắm được cụ thể chi tiết giá
trị của từng hình ảnh, biện pháp tu từ.
Thực tế cho thấy cách dạy học phổ biến hiện nay trong các trường THPT đối với thơ
trữ tình trung đại là áp dụng kiểu dạy học nêu vấn đề, phối hợp giữa các phương pháp dạy
học như thuyết trình, nêu câu hỏi phát vấn học sinh ……việc phát huy tính tích cực của học
sinh đã được giáo viên quan tâm và thực hiện khá tốt, khá nghiêm túc. Và mỗi giáo viên
đều tìm cho mình một cách thức riêng để truyền tải kiến thức đến học sinh.
Tuy nhiên qua kết quả khảo sát đối với giáo viên và học sinh thì cách dạy học đọc
hiểu thơ trữ tình trung đại Việt Nam ở lớp 10 chưa thật có sự khác biệt về cách thức
hướng dẫn của giáo viên và tiếp nhận của học sinh. Chính điều này phần nào khiến cho
văn học trung đại Việt Nam nói chung và văn học trung đại lớp 10 nói riêng chưa thật sự
tìm được chỗ đứng trong lòng học sinh.
3. Các giải pháp đã sử dụng để hướng dẫn HS đọc - hiểu thơ Trung đại Việt Nam
trong chương trình ngữ văn lớp 10
3.1.Bám sát đặc trưng thi pháp thể loại thơ trữ tình trung đại.
Thi pháp có hai cách hiểu. Thứ nhất, đó là các nguyên tắc, biện pháp chung để làm
cho một văn bản trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Thứ hai, thi pháp là các nguyên tắc,
biện pháp nghệ thuật cụ thể để tạo nên giá trị đặc sắc của một tác phẩm, tác giả. .Do vậy
khi đọc hiểu thơ trữ tình trung đại nói chung và thơ trữ tình trung đại lớp 10 nói riêng
không thể không bám sát vào đặc trưng thi pháp của văn học trung đại.
Ba đặc điểm nổi bật của thi pháp thơ trung đại là :
- Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ:
+ Không phải ngẫu nhiên văn học chính thống thời phong kiến được mênh danh là văn
chương bác học (Văn học dân gian gọi là văn học bình dân). Gọi như thế, văn chương
mang trong mình nó tính bác học. Người sáng tác phải bác học và người tiếp nhận cũng
rất bác học. Trường hợp Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là một ví dụ tiêu biểu. Khi Dương
Khuê mất Nguyễn Khuyến không muốn uống rượu không làm thơ vì không còn bạn tri âm
tri kỉ nữa.
+Sáng tác trong môi trường ấy, tất nhiên uyên bác có ý nghĩa thẩm mỹ. Người sáng tác
cũng như người tiếp nhận đều phải thông thuộc kính sử, điển cố, điển tích; phải có vốn thi
liệu, văn liệu phong phú học tập được từ những áng văn bất hủ của người xưa. Văn
chương càng uyên bác càng có sức hấp dẫn lớn, có tính nghệ thuật cao.
- Tính sùng cổ:
+ Do quan niệm thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương cổ của dân tộc ta, các nhà
văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá khứ làm chuẩn mực cho cái đẹp, lẽ phải,
đạo đức. Chính vì vậy, các nhà văn đời sau thường “tập cổ” vay mượn văn liệu, thi tứ, hình
ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn đời trước mà không bị đanh giá là “Đạo văn”.
Ngược lại, họ được đánh giá là một cây bút đạo đức, sang trọng; tác phẩm của họ rất giàu
gía trị.
- Tính phi ngã:
+ Thời phong kiến, ý thức cá nhân chưa có điều kiện phát triển. Con người chưa bao giờ
“sống là mình. Con người được nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở của tầng lớp, giai cấp, dòng
tộc, địa vị xã hội.
+ Tuy nhiên, nói văn học trung đại có tính phi ngã không có nghĩa trong tác phẩm văn
chương không có dấu ấn bản ngã của người nghệ sĩ. Bởi lao động nghệ thuật là một họat
động sáng tạo “ Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu biết tìm tòi khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có ” ( Nam Cao).Văn học chân chính
không chấp nhận công thức, phi ngã. Trong văn học thời trung đại của dân tộc ta, các cây
bút lớn đều khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của họ. Tiến trình văn học
đã khẳng định điều đó. Chúng ta không thể phủ nhận cá tính sáng tạo của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế
Xương, Tản Đà,…
Ba đặc tính này trong thi pháp văn học Trung đại được hình thành từ bối cảnh lịch
sử xã hội phong kiến và cảm quan thẩm mỹ của tầng lớp nghệ sĩ Hán học và chi phối đến
các đặc điểm khác .
Về thể loại: Trong “Thi pháp văn học trung đại Việt Nam ” Giáo sư Trần Đình Sử sau
khi thống kê các thể loại của văn học trung đại Việt Nam, tác giả chia thành ba loại cơ
bản: Thơ, văn, truyện. Loại thơ ngoài hình thức thơ thì lấy nội dung trữ tình làm chính.
Về kết cấu của một bài thơ trữ tình Hán - Nôm thường có tuân theo kết cấu rất chặt
chẽ, một bài đường luật có tám câu, hay bốn câu, thất ngôn hay ngũ ngôn đều là một
chỉnh thể có cấu trúc riêng, kết cấu theo hai chiều ngang, dọc liên kết với nhau thành một
chỉnh thể hài hoà cân đối. Kết cấu theo chiều dọc bằng bố cục, niêm, đối, vần; kết cấu
theo chiều ngang bằng thanh luật bằng trắc.
- Ví dụ: Số câu chữ: mỗi bài 8 câu, hoặc bốn câu
- Về gieo vần: cả bài chỉ có một vần
- Về đối ngẫu: thực hiện ở 4 câu giữa, gồm đối ý, đối thanh và đối từ loại.
- Về luật bằng trắc: “ nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”
- Về niêm: “Niêm” có nghĩa là kết dính với nhau. Nếu luật là quy định bằng trắc theo chiều
ngang, thì niêm là quy định bằng trắc theo chiều dọc để gắn liền các cặp câu lại và tránh
đơn điệu. Do có luật “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh” nên người ta chỉ quy
định tiếng thứ hai ở câu 1 phải cùng thanh với tiếng thứ hai ở câu 8, tiếng thứ hai ở câu 2
phải cùng thanh với tiếng thứ hai ở câu 3, tiếng thứ hai ở câu 4 phải cùng thanh với tiếng
thứ hai ở câu 5, tiếng thứ hai ở câu 6 phải cùng thanh với tiếng thứ hai ở câu 7.
- Về bố cục: Ở thơ thất ngôn có kết cấu 4 phần : Đề, thực, luận, kết. Ở thơ tuyệt cú: gồm
4 phần: khai, thừa, chuyển, hợp. Khi đọc hiểu giáo viên và học sinh nên chú ý đặc điểm
này.Nếu bài thơ không tuân theo qui định trên gọi là thất luật là có dụng ý nghệ thuật của
nhà thơ như bài cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
- Về tư duy nghệ thuật : Tư duy theo kiểu mẫu nghệ thuật đã có sẵn đã thành công thức.
Chẳng hạn nói đến vẻ đẹp của người phụ nữ thì phải đẹp nghiêng nước nghiêng thành, vẻ
đẹp chim sa cá lặn. nói đến tài phải cầm, kì, thi, họa . Nói đến mùa xuân phải có hoa mai,
hoa đào đi liền với cỏ non, chim én; mùa hè phải đi liền với hoa lựu, hoa sen, tiếng chim
quyên kêu khắc khoải.. Mùa thu phải có hoa cúc, lá ngô đồng rụng; mùa đông phải có cây
tùng, chim hạc. Trong sáng tác của các nhà thơ trung đại hình như không thể vắng bóng
thiên nhiên. Thiên nhiên làm nên diện mạo, linh hồn của tác phẩm. Thiên nhiên vừa là vẻ
đẹp của thiên nhiên vừa là đối tượng để nhà thơ gửi gắm cảm xúc tâm trạng. đặc biệt
thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người đây là điểm khác
biệt với thơ hiện đại.
3.2. Chú giải, cắt nghĩa, phân tích, bình giá thơ trữ tình trung đại Việt Namlớp
10
3.2.1.Chú giải thơ trữ tình trung đại
Để hiểu đúng văn bản thơ Trung Đại trước hết giáo viên cần giúp học sinh hiểu
được môi trường văn hóa xã hội đương thời, hiên tượng văn sử triết bất phân của từng tác
phẩm cụ thể. Người dạy văn không nắm được lịch sử thì bài dạy hời hợt nông cạn, Nếu chỉ
chú ý vào nghệ thuật văn chương thì nội dung sẽ không thể nào sâu sắc được , do đó cần
tạo được mối liên hệ giữa lịch sử và nghệ thuật thì giờ đọc văn mới thành công.
Mặt khác thơ trữ tình trung đại thuộc loại hình song ngữ, trong quá trình sáng tác
các tác giả sử dụng chữ Hán, chữ Nôm, các từ Việt cổ mà ngày nay ít còn sử dụng. Do
ngôn ngữ thơ cổ là ngôn ngữ rất uyên bác, hàm súc. Vì vậy, một biện pháp hữu hiệu để
giải mã văn bản đó là chú giải. Những chú giải này có khi trong SGK có khi giáo viên phải
tra từ điển thì mới hiểu đúng ý nghĩa của những từ ngữ đó để vận dụng vào bài giảng.
Ví dụ trong bài Cảnh ngày hè của nguyễn Trãi có 8 câu thì có 8 chú giải , hoặc dạy
các đoạn trích Truyện Kiều ngoài các chú giải trong SGK cần tham khảo cuốn Từ điển
Truyện Kiều của Đào Duy Anh.
Khai thác các điển tích điển cố là biện pháp quan trọng dùng trong đọc hiểu thơ trữ
tình trung đại nói chung và thơ trữ tình trung đại Việt Nam lớp 10 nói riêng.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hương thì chú giải “chính là biện pháp rút gần
khoảng cách thẩm mỹ giữa học sinh với thơ văn cổ để tiếp nhận văn bản có hiệu quả”
Trong chú giải, thì việc làm đầu tiên là chú giải từ. Bởi ngôn ngữ người xưa chủ yếu
là chữ Hán, chữ Nôm với những từ ngữ cổ, thuật ngữ cổ rất xa lạ với con người hiện đại
ngày nay.
Chú giải từ ngữ là làm cho từ ngữ đó được hiểu một cách rõ ràng, nói cách khác là
làm cho học sinh hiểu từ và thông nghĩa, hiểu câu thơ trước rồi sau đó mới có cơ sở để
cảm thụ văn chương. Chưa làm cho học sinh vỡ nghĩa những từ ngữ ấy thì các em sẽ
không thể nào hiểu câu văn chứ chưa nói đến việc cảm thụ văn chương.
Công việc thứ hai phải làm khi chú giải là chú giải điển cố, điến tích. Điển cố là lấy
xưa để nói nay, nhắc lại việc xưa bằng một vài chữ mà gợi lên sâu sắc các tầng ý nghĩa,
khiến lời văn thêm sinh động. Với học sinh các điển cố trong văn học khiến các em khó
hiểu hoặc không hiểu hết dụng ý nghệ thuật của
tác giả hoặc phần lớn các em chỉ hiểu hời hợt bên ngoài mà không thấy được cái
hay, chất văn chương, “ý tại ngôn ngoại, “cái gợi” mà điển cố đưa lại. Chú giải
điển cố là giúp học sinh tái hiện nội dung văn bản, ý nghĩa của nó đối với người
xưa, từ đó giúp các em tự vận động để hiểu thơ trữ tình trung đại.
Khi chú giải điển cố bước đầu tiên là chú giải nghĩa đen của điển cố nghĩa
là làm cho học sinh hiểu biết rõ nguồn gốc của điển cố. Sau khi chú giải nghĩa
đen giáo viên cần phân tích giá trị thẩm mỹ của điển cố bằng việc đặt vào trong
câu thơ, trong văn bản để cắt nghĩa ý của câu thơ từ đó tìm ra ẩn ý mà nhà thơ
gửi gắm. Ví dụ khi dạy bài thơ Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão cần giúp học sinh
làm rõ điển cố trong câu “ Luống thẹn tai nghe chuyên Vũ Hầu ”(Vũ hầu tức
Gia Cát Lượng người thời Tam Quốc có nhiều công lao giúp Lưu Bị khôi phục
nhà Hán - Chú giải SGK ngữ văn 10 trang 115 ). Mượn điển cố để bộc lộ vẻ
đẹp nhân cách của Phạm Ngũ Lão. Đó là cách nói khiêm nhường bộc lộ khát
vọng hoài bão mãnh liệt của Phạm Ngũ Lão, thể hiện trách nhiệm với đất nước
với nhân dân.
Như vậy chú giải là biện pháp quan trọng trong quá trình dạy văn học
trung đại nói chung và thơ trữ tình trung đại lớp 10 nói riêng. Biện pháp này
bước đầu giúp học sinh khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn chương,
góp phần kích thích sự hứng thú và khả năng chủ động, tích cực suy nghĩ, tìm
hiểu bài thơ. Chú giải góp phần làm cho hàm ý nghệ thuật trở nên dễ hiểu, cụ
thể hơn.
3.2.2.Cắt nghĩa
Thơ trữ tình trung đại là loại hình văn học có khoảng cách lớn với học
sinh về cả không gian và thời gian, tư duy nghệ thuật, quan điểm thẩm mỹ. Do
vậy bên cạnh việc chú giải từ ngữ, điển cố thì công việc tiếp theo để giải mã văn
bản đó là cắt nghĩa. Nếu đọc văn mà không hiểu nghĩa của từ, ngữ, câu và mối
quan hệ của chúng trong văn bản thì các em không thể nào tiếp nhận được ý đồ
nghệ thuật của tác giả. Quá trình cắt nghĩa là làm cho ý nghĩa của từ, ngữ, câu, ý
nghĩa của hình ảnh nổi bật trong văn bản, làm sáng tỏ hình tượng
Ví dụ: Trong bài Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi có dùng một số từ cổ . Nếu
giáo viên không cắt nghĩa thì học sinh sẽ khó có thể hiểu đúng ý nghĩa, cái hay
cái đẹp của từ ngữ. Từ rồi trong câu thơ mở đầu có nghĩa là nhàn rỗi nhưng là
sự nhàn rỗi bất đắc dĩ khi Nguyễn Trãi phải về nghỉ ở Côn Sơn vì thế câu thơ có
cái mỉm cười tự trào. Hoặc câu thơ Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ / Hồng
liên trì đã tiễn mùi hương. Phun thức đỏ , tiễn mùi hươnglà những từ cổ là biểu
hiện sức sống của thiên nhiên đang ở độ căng đầy viên mãn chất chứa từ bên
trong và trong trạng thái sẵn sàng phun ra, trào ra.
Cắt nghĩa hình ảnh trong thơ trữ tình trung đại. Hình ảnh trong thơ trữ tình
trung đại thường cô đọng, súc tích, gợi nhiều liên tưởng ở người đọc. Thêm vào
đó các nhà thơ thường sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật tu từ, nhiều hình ảnh
ước lệ, tượng trưng mang tính công thức. Đây là điều gây trở ngại cho việc tiếp
nhận văn bản cho học sinh ngày nay. Vì vậy mục đích cắt nghĩa hình ảnh là làm
bật sáng hình ảnh, làm rõ dụng ý nghệ thuật của tác giả bài thơ. Mỗi hình ảnh
được sử dụng là sự sáng tạo của người nghệ sĩ thông qua đó họ gửi gắm một
thông điệp nhất định. Nếu không cắt nghĩa hình ảnh thì khó có thể hiểu thông
được dụng ý nghệ thuật đó, hoặc nếu có hiểu thì cũng rất hời hợt.
Cắt nghĩa câu trong thơ trữ tình trung đại. Lời thơ trong thơ trữ tình trung
đại phải đẹp đẽ, trau chuốt, giàu hình ảnh, lời thơ phải đa nghĩa có như vậy mới
hấp dẫn. Do vậy người làm thơ chịu sự quy định chặt chẽ về niêm luật (số tiếng,
số câu, nhịp điệu, hài thanh). Thơ trữ tình trung đại lớp 10 chủ yếu là thể tài tự
tình, do vậy không được phép dài dòng, kể lể, miêu tả quá cụ thể, chi tiết. Việc
cắt nghĩa câu là để học sinh hiểu ý cơ bản của câu thơ, điều mà nhà thơ định nói.
3.2.3. Phân tích văn bản
“Phân tích là hoạt động chia nhỏ đối tượng để có cái nhìn cụ thể về những
yếu tố làm nên chỉnh thể sâu hơn. Đó là sự mổ xẻ chỉnh thể tác phẩm, tháo gỡ
tất cả những tương quan vốn không tách rời nhau trong chỉnh thể nghệ thuật, để
khi ghép hợp lại những yếu tố đã phân tích theo cách hoàn toàn khác thường sẽ
phát hiện ra những khía cạnh hoàn toàn bất ngờ của chỉnh thể tác phẩm” Đối
với môn ngữ văn, thì phân tích chính là cách để giáo viên và học sinh tiêp cận
văn bản ở góc độ sâu nhất. Tuy nhiên với thơ trữ tình trung đại lớp 10 thì đây
được coi là con đường chính để chiếm lĩnh tác phẩm. Phân tích thơ trữ tình
trung đại Việt Nam lớp 10 cần tập trung vào các thao tác sau:
Phân tích từ ngữ. Khi phân tích từ ngữ trong thơ trữ tình trung đại cũng cần
chú ý tới sự sáng tạo trong việc lựa chọn từ ngữ của các tác giả.
Phân tích các lớp nghĩa trong văn bản trữ tình trung đại Từ hiện thực
khách quan nhà văn bằng nhận thức chủ quan và tư duy nghệ thuật của mình
sáng tạo nên hình tượng văn học. Khi tiếp nhận tác phẩm văn chương, người
đọc lại đi theo hành trình ngược lại, nghĩa là thông qua hình tượng nghệ thuật để
khám phá hiện thực khách quan.
3.2.4.Bình giá thơ trữ tình trung đại
Theo GS.TS Nguyễn Thanh Hùng “Hoạt động bình giá tác phẩm văn
chương là vấn đề cái đẹp được nhận thức và đánh giá như thế nào”. Nội dung
bình giá cần tập trung vào một số vấn đề sau:
- Thứ nhất là cần bình giá cái đẹp trong ngôn từ và trong tư duy nghệ
thuật của thơ trữ tình trung đại.
Cái hay, cái đẹp của văn chương cần bình là ở “cái bề sâu, cái bề sau, cái
bề xa” (Chế Lan Viên) của ngôn từ, của tất cả các yếu tố, bộ phận làm nên một
tác phẩm văn chương. Ngôn từ trong tác phẩm văn chương không phải là ngôn
từ trong lời nói tự nhiên, ngôn từ trong thơ trữ tình trung đại, thơ Hán-Nôm lại
càng không phải lời nói thông thường hàng ngày, nó gần với những mỹ từ và
nặng tính chất sách vở hơn. Bình cái đẹp trong ngôn từ của thơ Hán - Nôm phụ
thuộc vào từng bài, từng từ, chữ cụ thể. Nhưng nhìn chung phải bám sát vào
những đặc trưng thi pháp về ngôn từ của văn học trung đại nói chung, thơ trữ
tình trung đại nói riêng.
Về ngôn từ, người đọc có trình độ mới hiểu được ngôn ngữ nghệ thuật
như một kiểu lời nói xa xôi, ý vị, mới mẻ để điều cần nói tự bật và sáng long
lanh hơn. Ví dụ: Khi bình về từ phun trong “Cảnh ngày hè ” của Nguyễn Trãi
PGS. TS Lã Nhâm Thìn đã viết: “Cùng viết về cảnh mùa hè, cùng với sự giao
cảm mạnh mẽ bộc trực, các tác giả thời Hồng Đức đem đến cho người đọc một
bức tranh với vẻ đẹp mộc mạc và có phần thô tháp” Ông biết hoà màu sắc, âm
thanh, đường nét theo quy luật của cái đẹp trong hội hoạ, âm nhạc làm cho bức
tranh thiên nhiên vừa có hồn, vừa gợi tả, vừa sâu lắng. Khi nhà thơ viết: Thạch
lựu hiên/còn phun thức đỏ, thì sự kết hợp giữa động từ mạnh phun với từ thức
(dáng vẻ, màu vẻ chứ không phải chỉ là màu sắc đơn thuần), thì câu thơ lại
nghiêng về diễn tả trạng thái tinh thần của cảnh vật. Nguyễn Trãi giao cảm với
thiên nhiên mạnh mẽ, nhưng tinh tế và sâu sắc là thế”
- Thứ hai là tập trung bình giá cái mới, cái độc đáo, cái riêng của mỗi tác
phẩm và mỗi tác giả. Trọng tâm của hoạt động bình giá là phải tìm cho ra cái
mới trong nội dung tư tưởng và những tri thức nghệ thuật có khả năng thức tỉnh
cái đẹp, cái cao thượng của con người.
- Thứ ba là bình giá về những cách tân nghệ thuật là những đóng góp vào
nền văn học dân tộc của mỗi tác giả qua từng tác phẩm.
Thơ trữ tình trung đại Việt Nam, có những ảnh hưởng sâu sắc bởi văn học
và văn hoá Trung Hoa. Song do ý thức dân tộc và do cá tính sáng tạo của mỗi
bản thân người nghệ sĩ nên trong mỗi bước đường hình thành và phát triển thơ
trữ tình trung đại Việt Nam, đều có những cách tân nghệ thuật đáng kể. Những
cách tân ấy góp phần khẳng định tên tuổi và vị trí của mỗi nhà thơ nhà văn vào nền văn
học dân tộc. Khi bình giá về tác phẩm không thể không nhắc đến và
đưa ra những lời thẩm bình xác đáng về những cách tân và sự đóng góp này.
Tóm lại bình giá văn học là hoạt động đầy trách nhiệm với văn học và có bản
lĩnh nghệ thuật của người tiếp nhận. Bình giá văn học đòi hỏi phải có tri thức
sâu sắc, có hiểu biết phong phú về văn hóa nghệ thuật và phải có tấm lòng chính
trực. Cần tránh sự bình giá phiến diện chủ quan, chỉ lấy sự hiểu biết rất có giới
hạn của mình làm thước đo duy nhất. Bình giá tác phẩm văn chương phải coi
trọng tư tưởng những cái hay của bình giá không phải chỉ thấy tư tưởng trần trụi
mà còn thấy sự phản ánh sinh động tư tưởng ấy theo đặc trưng nghệ thuật.
3.3.Xây dựng hệ thống câu hỏi sáng tạo
Để phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ đọc văn thì thì
cần xây dựng hệ thống câu hỏi thích hợp phù hợp với trình độ HS. Khi hướng
dẫn học sinh đọc hiểu thơ trữ tình trung đại lớp 10 chúng tôi tập trung vào xây
dựng các dạng câu hỏi theo các mức độ khác nhau : Câu hỏi nhân biết; câu hỏi
vận dụng thấp, vận dụng cao. Và tập trung chủ yếu vào một số dạng :
- Câu hỏi nêu vấn đề
- Câu hỏi bình luận
- Câu hỏi khái quát
- Câu hỏi so sánh liên hệ : Ví dụ khi phân tích cảnh Thúy Kiều và Kim trọng thề
nguyền dưới ánh trăng có thể nêu câu hỏi : Trăng - người bạn muôn đời thủy
chung của thơ ca, nghệ thuật, người bạn tri kỷ của nhà . Em hãy tìm những câu
thơ mà em biết có mối tương đồng với cảnh ngộ của nhân vật trữ tình ?
Trăng tròn xưa nay tượng trưng cho đoàn viên, trọn vẹn trong tình yêu
«vầng trăng vằng vặc giữa trời - đinh ninh 2 mặt một lời song song», «vầng
trăng ai xẻ làm đôi - nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường» (Nguyễn Du). Còn
với HXH, trăng không đem lại niềm vui cũng không đưa đến sự cảm nhận về
hạnh phúc tròn đầy mà trăng có sự tương đồng về thân phận - vầng trăng xế
bóng đã sắp tàn cũng giống như nữ sĩ tuổi xuân đã qua mà hạnh phúc còn dang
dở.
Hoặc hình ảnh ánh trăng ở đoạn 1 “ Nhặt thưa trăng giọi đầu cành ” với hình
ảnh ánh trăng ở đoạn 2 “ Vừng trăng vằng vặc giữa trời ” Có dụng ý nghệ thuật
khác nhau như thế nào ?
Văn học trung đại nói chung và thơ trữ tình trung đại lớp 10 nói riêng
là một giai đoạn văn học quan trọng trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc. các
tác phẩm được tuyển chọn trong chương trình Ngữ văn 10 là những tác giả, tác
phẩm tiêu biểu cho cả một thời kì văn học. Vấn đề đặt ra là dạy học như thế nào
để người học phát huy được tính chủ động, sáng tạo. Đặc biệt là để học sinh
không quay lưng lại với văn học nói chung và văn học trung đại nói riêng là một
bài toán khá nan giải của những giáo viên trực tiêp giảng dạy.
Do vậy để có thể tiếp nhận chính xác nội dung, tư tưởng của tác phẩm
thì nhất thiết phải có những biện pháp dạy học phù hợp. Việc đưa ra những biện
pháp hướng dẫn đọc hiểu thơ trữ tình trung đại lớp 10 cũng là một cách chúng
tôi góp thêm một tiếng nói của người trực tiếp tham gia giảng dạy vào công việc chung
của những người giảng dạy môn Ngữ văn ở nhà trường THPT. Với mục
đích nâng cao chất lượng dạy học, kích thích hứng thú, khả năng độc lập tự chủ
và lòng ham học của học sinh trong quá trình học tập. Trong quá trình giảng dạy
người giáo viên cần lựa chọn, kết hợp hài hòa các biện pháp trên để đạt hiệu quả
cao nhất.
GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM
Vận dụng các phương pháp đọc hiểu thơ trữ tình trung đại đã đề xuất ở mục
2 vào thực tế thiết kế bài học và thực tế dạy học văn bản ( Thề nguyền )
Tiết 87 . Đọc Văn
(Trích Truyện Kiều)
THỀ NGUYỀN
- Nguyễn Du I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1.Kiến thức . Giúp HS
- Hiểu được bài ca tình yêu đầy lãng mạn , ước mơ táo bạo của Nguyễn Du
qua đêm thề nguyền thơ mộng và thiêng liêng của Thuý Kiều và Kim Trọng.
- Thấy được nghệ thuật kể tả kết hợp ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật,
không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật mang những đặc tính riêng.
- Liên hệ để hiểu đoạn trích Trao duyên đã học.
2. Kỹ năng .
Biết cách đọc hiểu văn bản thơ trung đại theo đặc trưng thể loại. Phân tích
tâm trạng nhân vật trữ tình.
3. Thái độ
Trân trọng mối tình đẹp giữa Thúy Kiều với Kim trọng và khát vọng hạnh
phúc lứa đôi của con người
II.CHUẨN BỊ CỦA GV VÀ HS
1. Chuẩn bị của GV:
- Phương tiện SGK, SGV, thiết kế bài học, một số lời bình, nhận xét về
đoạn trích thề nguyền
- Phương pháp : dạy học theo cách kết hợp các phương pháp: đọc sáng
tạo, gợi tìm, tái hiện, thuyết trình, kết hợp với các hình thức trao đổi thảo luận,
trả lời các câu hỏi.
2. Chuẩn bị của HS. Soạn bài theo hệ thống câu hỏi trong SGK. Tìm thêm
nhưng tài liệu liên quan đến bài thơ.
III. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1.Ổn định tổ chức
Ngày dạy
Lớp dạy 10A3
Sĩ số 43
Vắng
Ghi chú 10A2
42
2.Kiểm tra bài cũ : Nêu đặc sắc nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Chí khí
anh hùng trích Truyện Kiều của nguyễn Du
3. Giới thiệu bài mới
Trong tác phẩm truyện Kiều của ND mỗi nhân vật xuất hiện đều thể
hiện một quan điểm tư tưởng của nhà văn. Nếu như Từ Hải xuất hiện thể hiện
khát vọng về người anh hùng lý tưởng, về ước mơ công lý. Thì Kim Trọng xuất
hiện cùng với Kiều để thể hiện một tình yêu sâu sắc mãnh liệt, đỉnh cao của mối
tình say đắm ấy là đêm thề nguyền. Bài học hôm nay cô sẽ cùng các em tìm hiểu
nội dung này qua đoạn trích Thề nguyên
Hoạt động của GV & HS
YÊU CẦU cần đạt
Hoạt động 1
I. Tìm hiểu chung
- GV hướng dẫn HS làm việc với SGK
1. Vị trí
CH. Bằng việc hiểu biết về tác phẩm truyện - Đoạn trích Thuộc phần 1 của tác
Kiều cùng với phần giới thiệu trong SGK em phẩm: Gặp gỡ và đính ước. Gồm 22
hãy Nêu vị trí đoạn trích? Kể vắn tắt các sự câu lục bát (từ câu 431 đến 452)
kiện trước nó? Nêu nội dung của đoạn trích ?
- Đoạn trích diễn tả đúng tâm trạng
Hs phát biểu.
hồi hộp háo hức của Thúy Kiều khi
Gv nhận xét, bổ sung. Và giới thiệu tính văn sang nhà Kim Trọng làm lễ thề
hóa của lễ thề nguyền trong xã hội cũ.
nguyền.
- Sau buổi du xuân (Thuý Kiều và Kim Trọng ( Trong xã hội phong kiến, thề
gặp nhau), Cuộc gặp gỡ của 2 con người Tình nguyền rất quan trọng về mặt đạo đức
trong như đã mặt ngoài còn e. Sau đó chàng xã hội và tâm linh. Thể hiện mối tình
Kim đã thuê nhà trọ học ở gần nhà Kiều, sâu nặng giữa hai người . Trong xã
Nhân Kiều bỏ quên chiếc thoa, Kim Trọng đã hội hiện đại, mối quan hệ giữa người
nhặt được và trao trả hai người đã hẹn ước và người được điều chỉnh bằng luật
chuyện trăm năm . Một hôm nhân cả nhà pháp (các bản cam kết, đăng kí kết
sang chơi bên ngoại , Thuý Kiều chủ động hôn )
sang nhà Kim Trọng, hai người tình tự đến xế
chiều mới chia tay. Khi trở về nhà được tin cha 2.Bố cục
mẹ và 2 em chưa về, Kiều lại buông rèm sang 2 phần : - 14 câu đầu
nhà Kim Trọng lần thứ hai, cùng nhau thề
- 8 câu cuối
nguyền, chung thuỷ suốt đời.
CH. Dựa vào diễn biến của sự việc em hãy xác 3. Đọc – hiểu chú giải
định bố cục của đoạn trích( Đoạn trích gồm 15 chú giải trong SGK (Có 5 điển tích
mấy phần – Nội dung mỗi phần như thế nào ?) điển cố 10 từ Hán Việt, từ cổ )
Gv hướng dẫn HS tìm hiểu các chú giải trong
SGK.
Hoạt động 2. GV hướng dẫn HS đọc hiểu
văn bản
Sau một ngày tự tình bên nhau, say đắm: Kiều
đã đề thơ vào bức tranh Tùng của Kim Trọng,
nàng đã đánh đàn cho chàng nghe.Xế chiều
nàng ra về khi thấy cha mẹ và các em chưa về
Kiều quyết định sang nhà KT lần thứ 2.
CH. Nêu nhận xét về hàm nghĩa của các từ:
II. Đọc - hiểu chi tiết
1.Tình yêu táo bạo và cuộc gặp gỡ
nên thơ.
* Kiều đến nhà kimTrọng lần thứ 2
- Hành động : Táo bạo : Vội, xăm
xăm, băng
vội, xăm xăm, băng? Tại sao Thúy Kiều lại có
hành động như vậy?
Hs thảo luận, phát biểu.
Gv nhận xét, bổ sung:
- Vì sao kiều lại có suy nghĩ, hành động táo
bạo như vậy? Có phải vì muốn có thêm thời
gian bên nhau, hay vì có cơ hội , hay vì lo sợ
điều gì đó?
Hành động này có nguyên nhân khách quan
và chủ quan. Khách quan thì đã rõ :Cha mẹ đi
vắng hơn nữa Kiều nhận thấy thời gian ở bên
nhau thật quý giá thật có ý nghĩa, Về chủ quan
K cảm thấy lo sợ , luôn cảm thấy ám ảnh bởi
định mệnh đối với người con gái tài sắc.Sau
buổi du xuân thì Kiều được Đạm Tiên báo
mộng là Kiều có tên trong sổ đoạn ngfsoong
Tiền Đường là nẫm mồ của nàng và Kiều luôn
ám ảnh lo sợ . K đã từng lo lắng
Hồng nhan tự thưở ngày xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
Nỗi niềm nghĩ đến mà đau
Thấy người nằm đó biết sau thế nào
Bởi vậy nàng quyết định sang nhà KT lần thứ
2. Đây là nét mới trong quan niệm về tình yêu
của ND . Kiều đã vượt qua những định kiến
khắt khe của XHPK chủ động tìm đến tình yêu
để được giải bày tâm sự để được sống trong
TY.
GV Trong văn học dân gian ( trong ca dao)
người con trai luôn chủ động trong tình yêu
điều này được thể hiện qua những lời tỏ tình
của chàng trai với cô gái có khi mộc mạc chân
thật có khi rất tế nhị kín đáo. Em hãy tìm
những câu ca dao có nội dung trên ?
- Thời gian : Khẩn trương gấp gáp
- Thái độ :Tình yêu mãnh liệt . Quyết
tâm cao
+ Quyết tâm cao độ , tình yêu mãnh
liệt.
+ Nguyên nhân :
- Sợ cha mẹ trách mắng
- Lo sợ cho định mệnh của người con
gái tài sắc
=> Quan niệm mới mẻ tích cực trong
tình yêu .
* Hành động của Kiều biểu thị rõ rệt
về khát vọng một tình yêu tự do chính
đáng của thanh niên trong xã hội cũ.
Đây cũng là nét mới trong cách nhìn
tình yêu của Nguyễn Du. Thông
thường quan niệm Nho giáo cho rằng
trong quan hệ nam nữ, bao giờ người
con trai cũng phải đóng vai trò chủ
động. Nhưng ở đây, Nguyễn Du đã
nhấn mạnh sự chủ động của Kiều, của
người con gái. Nguyễn Du có cái
nhìn vượt trước thời đại.
* Trong văn học dân gian ( trong ca
dao) người con trai luôn chủ động
trong tình yêu điều này được thể hiện
qua những lời tỏ tình của chàng trai
với cô gái có khi mộc mạc chân thật
có khi rất tế nhị kín đáo.
Ví dụ :
Đến đây anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng hay chưa.
Hoặc
Gặp đây anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không
Tư tưởng tiến bộ của nguyễn Du là đã
xóa bỏ thành kiến nặng nề trong xã
hội cũ và Nguyễn Du trở thành người
khai sơn phá thạch cho quan niệm
mới mẻ trong tình yêu . Sau này
trong bài thơ Sóng nữ sĩ xuân Quỳnh
cũng đã trực tiếp bộc lộ tình yêu của
mình:
Sông không hiểu nỗi mình
Sóng tìm ra tận bể
Hoặc
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
* Tâm trạng của Kim Trọng :
- Ngoại cảnh tĩnh lặng và ảo hư.
CH. Không gian thơ mộng của cuộc gặp gỡ - Tâm cảnh bâng khuâng ngỡ ngàng,
được Nguyễn Du miêu tả ntn?
nửa tỉnh, nửa mơ
H/S thảo luận, trả lời
không khí thơ mộng, huyền hoặc
G/V nhận xét, bổ sung
như trong cõi mộng.
CH. Khi Kiều xuất hiện thái độ tâm trạng của
Kim Trọng như thế nào ?
Đang trong trạng thái Dở chiều như tỉnh, dở
chiều như mê – Đó là trạng thái của con người
đang đắm say trong tình yêu đang ngập chìm
trong giấc mộng tình yêu Kiều đột nhiên xuất
hiện giữa khung cảnh nhặt thưa trăng dọi đầu
cành ( Ánh trăng dìu dịu xuyên qua ngọn cây
chiếu xuống mặt đất chỗ nhặt chỗ thưa – Rất
thơ mộng ). Cảnh vật thiên nhiên không chỉ
thi vị hóa tình yêu giữa Kim Trọng với Thúy
Kiều mà càng nhấn mạnh niềm vui sướng
ngất ngây của Kim trọng khi Kiều xuất hiện.
CH. Kiều đã giải bày như thế nào trước sự * Lời giải bày của Kiều
xuất hiện bất ngờ của mình ?
+ Khoảng vắng đêm trường: Cảm
giác về thời gian không gian tâm lý.
Chỉ cách nhau một bức tường thế mà
nàng phải xé rào vượt tường để đến
CH. Em có nhận xét gì về đặc sắc nghệ thuật với chàng Kim
của đoạn thơ, và hãy chỉ ra giá trị tác dụng của + Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa”
đặc sắc nghệ thuật đó?
câu này đếu được thốt lên từ KT thì
không có gì đáng nói. Nhưng Nó lại
là câu nói của Kiều “Vì hoa” vì tình
yêu, tình yêu đẹp như hoa, nồng nàn
tỏa hương khoe sắc. Vì tình yêu, vì
khát vọng của tình yêu tự do. Do đó
Kiều đã bất chấp sự hà khắc của lễ
+ Trong đoạn trích tác giả đã sử dụng Hình giáo PK, vượt qua rào cản ấy để đến
ảnh ước lệ, hoa mĩ, lối nói ẩn dụ, điển tích điển với tình yêu, Đến đây ta hiểu rõ hơn
cố tạo nên cảnh đẹp, người đẹp, tình thiết tha. thái độ vội vã, xăm xăm băng băng
Đó là một không gian rất thần tiên rất thiêng của Kiều để đến nhà KT .Khát vọng
liêng, nó không chỉ thể hiện sự táo bạo mạnh tình yêu hạnh phúc thật mãnh liệt.
mẽ, lòng can đảm của Kiều để hướng tới một + Lo âu sợ hãi về tương lai : Sự xa
tình yêu tự do. Làm cho Không khí buổi thề cách tan vỡ
nguyền thêm trang trọng .
- NT. Hình ảnh ước lệ, hoa mĩ, lối nói
ẩn dụ, nghệ thuật tả cảnh tả tình , điển
tích điển cố tạo nên cảnh đẹp, người
đẹp tình thiết tha
Sự nhạy cảm , hành động táo bạo
mạnh mẽ, lòng can đảm, dũng cảm
của Kiều để hướng tới một tình yêu tự
do
2. Cảnh thề nguyền
2. Cảnh thề nguyền thiêng liêng
Khi nghe Kiều nói nhưng lời yêu thương đó thì trang trọng.
KT được lời như cới tấm lòng liền vui mừng - Cảnh thề nguyền
làm lễ rước vào. Và thi lễ cũng đã diễn ra
+ Đài sen nối sáp
CH. Cảnh thề nguyền diễn ra trong thời gian + Lò đào thêm hương
không gian như thế nào ? Em có nhận xét như + Trăng sáng
thế nào về không gian này ?
Lễ thề nguyền được diễn ra trong
ánh sáng lung linh của ngọn nến,
trong không gian ngào ngạt của
hương thơm, dưới vầng trăng vằng
Trang trọng và huyền ảo,nên thơ
Nhưng đây là một thi lễ phá cách bởi
trong XHPK nghi lễ thề nguyền
thường diễn ra có sự chứng giám của
anh linh tổ tiên, cha mẹ . Nhưng cảnh
thề nguyền của KT- TK chưa được
cha mẹ cho phép, lễ giáo PK không
thừa nhận đành xin trời đất chứng
dám cho cuộc tình của đôi trẻ
CH.Cảnh thề nguyền được Nguyễn Du miêu tả + Thi lễ
như thế nào ? Đó là những thi lễ nào ?
- Viết lời ước nguyện :Cùng thảo một
chương..
- Trao kỉ vật : Cắt tóc ăn thề Tóc mây
một món dao vàng chia đôi . Đó là
minh chứng của một mối tình sắc son
- Cùng đọc lời thề: Cả hai cùng quỳ
xuống hướng mặt lên bầu trời đọc lời
CH. Qua cách miêu tả này em hiểu gì về thái thề trước sự chứng dám của vầng
độ của tác giả
trăng vằng vặc
- Họ ghi lòng tạc dạ suốt đời :Trăm
năm tạc một chữ đồng đến xương
Lễ thề nguyền diễn ra chóng vánh
nhưng vô cùng thiêng liêng và trang
CH. Sau khi học xong đoạn trích em hãy khái
quát lại những đặc sắc về ND và NT của đoạn
trích này ?
CH. Từ nội dung đoạn trích em có thể rút ra
bài học gì về nét đẹp văn hóa trong tình yêu
của thanh niên hiện nay?
. Đoạn trích đề cập đến một vẻ đẹp văn hóa
trong tình yêu. Khi thực sự yêu nhau, con
người có thể vượt qua những vật cản để đến
với tình yêu. Tình yêu đẹp phải là một tình yêu
có văn hóa. Những người yêu nhau không chỉ
đến với nhau bằng trái tim, họ phải có trách
nhiệm với nhau, ý thức về trách nhiệm đó
trước hết thể hiện ở sự tôn trọng nhau mà lời
thề nguyền là một bằng chứng. Văn hóa lối
sống của thời phong kiến khác với ngày nay,
nhưng trách nhiệm với tình yêu thì muôn đời
vẫn thế. Đó mới là bằng chứng của một tình
yêu đẹp.
CH. Từ việc đọc hiểu về đoạn trích này em
hãy liên hệ với đoạn trích trao duyên để chỉ ra
sự nhất quán lô gíc trong TY của Kiều
+ Đêm thề nguyền : thần tiên và thiêng liêng,
Kiều khắc ghi suốt đời nên khi phải phụ bạc ,
phải lìa xa mối tình này dù bất cứ lí do nào
Kiều đều cảm thấy đau khổ day dứt . Với Kiều
TY là thủy chung son sắc mãnh liệt và duy
nhất .Bởi đây là mối tình mà Kiều tự nguyện
gắn bó và đắm say hơn thế nữa lời thề KimKiều có sự chứng dám của đất trời của vầng
trăng vặc nên không thể nào thay đổi được
trọng. được thể hiện qua thái độ nâng
niu trân trọng của tác giả .
3. Tổng kết
* Nội dung:
- Ca ngợi tình yêu đắm say, mãnh liệt.
- Thể hiện thái độ đồng cảm trân
trọng của ND với khát khát vọng về
tình yêu tự do, hạnh phúc của con
người .
- Tiếng nói vượt thời đại của Nguyễn
Du trong tình yêu .
* Nghệ thuật :
- Thể thơ : Lục bát
- Sử dụng điển tích điển cố
- NT kể chuyện, miêu tả, cách sử
dụng ngôn ngữ hình ảnh các biện
pháp tu từ để tạo nên ấn tượng sâu
sắc trong mối tình Kim - Kiều.
III. Luyện tập
* Liên hệ đoạn trích Trao duyên .
- Sự nhất quán trong quan niệm về
tình yêu của Thúy Kiều: tình yêu- tình
cảm thủy chung và thiêng liêng.
+ Thủy chung: trước sau như một...
+ Thiêng liêng: tình yêu gắn liền chữ
“tình” và “nghĩa”, là lời nguyện thề
trước trời đất.
Nàng đau xót tột cùng khi phải trao
duyên.
Trao duyên là việc làm trả nghĩa với
Kim Trọng, dịu di phần nào nỗi đau,
mất mát không gì bù đắp nổi của
nàng.
4. Củng cố, dặn dò
- Hs đọc ghi nhớ sgk
- GV yêu cầu HS khái quát lại kiến thức
=> Đó là tâm trạng Kiều -Kim, nghệ thuật tả cảnh tả tình- kể chuyện và quan
niệm tiến bộ mới mẻ, táo bạo về tình yêu của Nguyễn Du.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với bản
thân đồng nghiệp và nhà trường .
Sau khi vận dụng các phương pháp nêu trên vào việc dạy học bài Thề nguyền
trong chương trình ngữ văn lớp 10 tập II chúng tôi thu được kết quả sau :
4.1. Kết quả từ quan sát thực tế
- Quan sát việc tổ chức dạy và học trên lớp chúng tôi nhận thấy :
Với lớp 10A2 : Dạy học theo phương pháp truyền thống thì không khí lớp
học trầm, học sinh khó khăn trong việc phát hiện vấn đề. Chủ yếu ghi chép một
cách thụ động Giáo viên không thực hiện hết nội dung bài dạy đã chuẩn bị
Với lớp 10 A3. Dạy học theo phương pháp đã đề xuất : Học sinh , tích cực
phát biểu xây dựng bài, trao đổi thảo luận sôi nổi , phát hiện vấn đề nhanh và có
những phát hiện mới mẻ thẳng thắn bộc lộ quan điểm cá nhân, trao đổi những
cảm nhận phát hiện của mình về cái hay cái đẹp của văn chương. mối quan hệ
giữa GV và HS thân thiện cởi mở hơn. Về kết quả tiếp thu bài học đa số HS nắm
được nội dung bài học qua những câu hỏi dẫn dắt gợi mở của GV.
4.2. Kết quả qua kiểm tra đánh giá
Câu hỏi kiểm tra ( trong tiết kiểm tra 15 phút )
Đọc văn bản thề nguyền và trả lời các câu hỏi sau
Câu 1. Nêu hoàn cảnh xuất xứ của đoạn trích ?
Câu 2. Chỉ ra tính hàm nghĩa của các từ Vội, xăm xăm, băng, tác dụng trong
việc bộ lộ thái độ tâm trạng của Kiều ?
Câu 3. Không gian của buổi thề nguyền được diễn tả qua nhưng từ ngữ hình ảnh
nào ?
Câu 4. Tìm những từ Hán – Việt và những điển cố được sử dụng trong đoạn
trích ?
Câu 5. Hoặc hình ảnh ánh trăng ở đoạn 1 “ Nhặt thưa trăng giọi đầu cành ” với
hình ảnh ánh trăng ở đoạn 2 “ Vầng trăng vằng vặc giữa trời ” Có dụng ý nghệ
thuật khác nhau như thế nào ?
Câu 6. Anh/ chị hãy viết đoạn văn khoảng 5 đến 7 dòng nói về nét văn hóa
trong tình yêu.
* Kết quả kiểm tra đánh giá từ bài viết của học sinh như sau :
So sánh đối chiếu giữa hai lớp 10A2 ( dạy theo phương pháp truyền thống) ;
Lớp 10A3 ( Dạy học theo những phương pháp đã đề xuất ở trên ) kết quả như
sau :
Lớp SS
Giỏi
Khá
Trung bình Yếu
Kém
S.L % S.L %
S.L %
S.L %
S.L
10A2 41
1
7
28
5
10A3 43
5
13
23
2
Nhìn vào kết quả thể nghiệm tôi nhận thấy giờ dạy thể nghiệm - dạy theo
phương pháp đã đề xuất trong phần hai của sáng kiến kinh nghiệm điểm khá
giỏi cao hơn, điểm trung bình và yếu giảm hơn. Điều đó cũng là một tín hiệu
đáng mừng bởi đã phần nào giảm tình trạng học sinh quay lưng với môn văn
- Xem thêm -