Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân việt nam với người n...

Tài liệu Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân việt nam với người nước ngoài theo quy định của pháp luật việt nam trong xu thế hội nhập

.DOCX
16
476
91

Mô tả:

A.MỞ ĐẦU Với chính sách “hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới”, ở nước ta các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển một cách đa dạng và phức tạp. Việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân va gia đình co yếu tố nước ngoài trở thành một yêu cầu hết sức cần thiết nhằm làm ổn định và phát triển giao lưu quốc tế, đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân các nước có liên quan. Trong phạm vi đề tài này, em xin trình bày một số hiểu biết và quan điểm cá nhân về chủ đề: Kết hôn có yếu tố nước ngoài, một số vấn đề lý luận và thực tiễn. B.NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận của vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài: 1. Định nghĩa kết hôn có yếu tố nước ngoài. Trong Điều 8 (Giải thích từ ngữ) của Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2000) có định nghĩa: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn” Về việc kết hôn có yếu tố nước ngoài, Điều 103 Luật HN&GD năm 2000 quy định: “Điều 103. Kết hôn có yếu tố nước ngoài 1 1. Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn. 2. Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác.” Kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng phải đảm bảo các điều kiện và thủ tục như thông thường được pháp luật quy định. 2. Điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài. §iÒu 10. §iÒu kiÖn kÕt h«n 1. Trong viÖc kÕt h«n gi÷a c«ng d©n ViÖt Nam víi ngêi níc ngoµi, mçi bªn ph¶i tu©n theo ph¸p luËt cña níc m×nh vÒ ®iÒu kiÖn kÕt h«n; ngêi níc ngoµi cßn ph¶i tu©n theo quy ®Þnh t¹i §iÒu 9 vµ §iÒu 10 cña LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh cña ViÖt Nam vÒ ®iÒu kiÖn kÕt h«n vµ c¸c trêng hîp cÊm kÕt h«n, nÕu viÖc kÕt h«n ®îc tiÕn hµnh tríc c¬ quan nhµ níc cã thÈm quyÒn cña ViÖt Nam. 2. Trong viÖc kÕt h«n gi÷a ngêi níc ngoµi víi nhau t¹i ViÖt Nam, tríc c¬ quan nhµ níc cã thÈm quyÒn cña ViÖt Nam, mçi bªn ph¶i tu©n theo ph¸p luËt cña níc mµ hä lµ c«ng d©n hoÆc thêng tró (®èi víi ngêi kh«ng quèc tÞch) vÒ ®iÒu kiÖn kÕt h«n; ngoµi ra, cßn ph¶i tu©n theo quy ®Þnh t¹i §iÒu 9 vµ §iÒu 10 cña LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh cña ViÖt Nam vÒ ®iÒu kiÖn kÕt h«n vµ c¸c trêng hîp cÊm kÕt h«n. 3. Thủ tục đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài: 2 Thông tư số 07/2002/TT-BTP Về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài có những quy định cụ thể về việc đăng kí kết hôn có yếu tố nước ngoài như sau: 3.1 Về một số giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn. Mỗi bên phải làm Tờ khai đăng ký kết hôn có dán ảnh (theo mẫu quy định) có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền sau đây về việc hiện tại đương sự là người không có vợ hoặc không có chồng: - Đối với công dân Việt Nam thường trú ở trong nước, thì do cơ quan có thẩm quyền xác nhận theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch. - Đối với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, thì do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người đó định cư hoặc do cơ quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan lãnh sự của Việt Nam tại nước đó xác nhận. - Đối với người nước ngoài thường trú ở nước ngoài, thì do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người đó có quốc tịch và thường trú xác nhận. Nếu pháp luật nước ngoài không quy định việc xác nhận vào tờ khai dăng ký kết hôn hoặc không cấp giấy tờ xác nhận về tình trạng hôn nhân, thì thay thế bằng văn bản tuyên thệ của người đó về việc hiện tại không có vợ hoặc không có chồng; hình thức của việc tuyên thệ phải phù hợp với pháp luật của nước đó. - Đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam, thì do Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi người đó thường trú xác nhận. 3 Giấy tờ xác nhận hiện tại đương sự không mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh tâm thần nhưng chưa đến mức không có khả năng nhận thức được hành vi của mình do tổ chức y tế chuyên khoa về tâm thần của Việt Nam từ cấp tỉnh trở lên hoặc do tổ chức y tế chuyên khoa về tâm thần của nước ngoài, nơi người đó thường trú xác nhận. Trong trường hợp công dân Việt Nam đã có bản án, quyết định ly hôn (với nhau hoặc với người nước ngoài) do Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài xét xử, quyết định thì phải làm thủ tục ghi chú vào sổ tại Sở tư pháp và nộp giấy xác nhận của Sở tư pháp về việc đã ghi chú bản án, quyết định ly hôn đó (nếu ghi chú tại nơi khác); nếu ly hôn tại Toà án Việt Nam thì nộp bản sao bản án hoặc trích lục án ly hôn đã có hiệu lực pháp luật. Người nước ngoài kết hôn và ly hôn với nhau ở nước ngoài thì không cần ghi chú việc ly hôn, chỉ cần nộp bản sao bản án, quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật; nếu kết hôn với nhau tại Việt Nam hoặc kết hôn với công dân Việt Nam tại Việt Nam và ly hôn ở nước ngoài, thì phải làm thủ tục ghi chú. Thủ tục ghi chú bản án, quyết định ly hôn nói tại điểm này được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch. Trong trường hợp đương sự có vợ hoặc chồng đã chết, thì phải nộp bản sao giấy chứng tử. 3.2 Về thủ tục nộp hồ sơ kết hôn: Theo quy định tại Điều 14 của Nghị định, về nguyên tắc, khi nộp hồ sơ đăng ký kết hôn, cả hai bên nam nữ đều phải có mặt. Trong trường hợp một bên do ốm đau, bệnh tật, bận công tác hoặc có lý do chính đáng khác mà không thể có mặt để trực tiếp nộp hồ sơ, thì phải có giấy uỷ quyền cho người 4 kia nộp thay hồ sơ, trong đó nêu rõ lý do vắng mặt; giấy uỷ quyền phải được chứng thực hợp lệ. 3.3 Về trình tự giải quyết hồ sơ kết hôn: Theo quy định tại Điều 16 của Nghị định, Sở tư pháp có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc tiếp nhận, nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ, đề xuất việc đăng ký hoặc từ chối đăng ký kết hôn và chịu trách nhiệm về hồ sơ kết hôn. Về trình tự giải quyết việc đăng ký kết hôn, cần lưu ý một số vấn đề sau đây: Về thủ tục niêm yết việc kết hôn: Việc niêm yết kết hôn được tiến hành trong 07 ngày liên tục tại trụ sở của Sở tư pháp và Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú hoặc tạm trú của công dân Việt Nam hoặc nơi thường trú của người nước ngoài. Văn bản niêm yết việc kết hôn phải gồm các thông tin về hai bên nam nữ như họ và tên, giới tính, ngày tháng năm sinh, nơi trường trú, tạm trú, tình trạng hôn nhân (không có vợ/ chồng, có vợ/chồng nhưng đã ly hôn hoặc người kia đã chết), dự kiến thời gian đăng ký kết hôn (nếu không có khiếu nại, tố cáo việc kết hôn trái pháp luật). Trong trường hợp có khiếu nại, tố cáo việc kết hôn, Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm báo cáo ngay bằng văn bản cho Sở tư pháp. Nếu không có khiếu nại, tố cáo việc kết hôn, Uỷ ban nhân dân cấp xã không phải báo cáo Sở tư pháp về kết quả niêm yết. Trong quá trình thẩm tra hồ sơ đăng ký kết hôn, nếu có khiếu nại, tố cáo việc kết hôn trái pháp luật, việc kết hôn là giả tạo (kết hôn không nhằm mục đích xây dựng gia đình, chỉ kết hôn nhằm mục đích xuất cảnh ra nước ngoài), 5 Sở tư pháp tiến hành xác minh hoặc yêu cầu đương sự đến trụ sở của Sở để phỏng vấn, làm rõ. Trong trường hợp nghi ngờ hồ sơ kết hôn có giấy tờ giả mạo hoặc có vấn đề cần xác minh thuộc chức năng của cơ quan Công an, Sở tư pháp có công văn gửi cơ quan Công an cùng cấp yêu cầu xác minh, kèm theo 01 bộ hồ sơ kết hôn. Theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Nghị định, Cơ quan Công an tiến hành xác minh và trả lời cho Sở tư pháp trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được công văn yêu cầu của Sở tư pháp. Nếu hết thời hạn này mà cơ quan Công an chưa có công văn trả lời, Sở tư pháp vẫn đề xuất ý kiến trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét quyết định, trong đó nêu rõ vấn đề đã yêu cầu Cơ quan Công an xác minh. Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh từ chối đăng ký kết hôn thì Uỷ ban có văn bản thông báo cho đương sự, trong đó nêu rõ lý do từ chối. Đương sự không được hoàn trả lệ phí đăng ký kết hôn. 3.4 Về tổ chức lễ đăng ký kết hôn. Lễ đăng ký kết hôn được tiến hành theo quy định tại Điều 17 của Nghị định. Khi tổ chức lễ đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ đều phải có mặt, xuất trình chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc giấy tờ hợp lệ thay thế (như giấy thông hành hoặc giấy tờ tuỳ thân có dán ảnh) và tự thể hiện ý chí tự nguyện kết hôn, ký tên vào sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn. Trong trường hợp vì ốm đau, bệnh tật, bận công tác hoặc có lý do chính đáng khác mà không thể có mặt vào thời điểm đã định, đương sự phải có đơn đề nghị Sở tư pháp cho hoãn việc đăng ký kết hôn; đơn không cần chứng thực. Thời hạn tạm hoãn việc kết hôn không được quá 90 ngày, kể từ ngày Chủ tịch 6 Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ký Giấy chứng nhận kết hôn. Nếu quá thời hạn này mà vẫn không tổ chức đăng ký kết hôn được do vắng mặt đương sự, Sở tư pháp báo cáo bằng văn bản cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về việc này. Nếu sau đó đương sự mới yêu cầu tổ chức đăng ký kết hôn, thì phải làm lại các giấy tờ theo thủ tục đăng ký kết hôn từ đầu. 4. Trong khi giải quyết việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới, cần lưu ý một số điểm sau đây: 1- Về phạm vi, đối tượng áp dụng: Công dân Việt Nam thường trú tại các xã, phường, thị trấn ở khu vực biên giới Việt Nam với công dân của nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam (Danh sách các xã, phường, thị trấn thuộc khu vực biên giới được ban hành kèm theo Thông tư số 179/2002/TT-BQP ngày 22 tháng 1 năm 2001 của Bộ Quốc phòng) 2- Về trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn 2.1- Tờ khai đăng ký kết hôn, được áp dụng chung theo mẫu dành cho công dân Việt Nam ở trong nước theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch. 2.2- Thủ tục, nội dung niêm yết việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở trong nước theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch. 2.3- Giấy chứng nhận kết hôn được áp dụng chung theo mẫu dành cho công dân Việt Nam ở trong nước, theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch. II. Thực trạng hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam: 7 1. Xu hướng kết hôn với người nước ngoài ngày càng tăng: a. Thực trạng: Hôn nhân với người nước ngoài là một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hoá. Tuy nhiên, việc kết hôn với người nước ngoài cần được cân nhắc kĩ, đã có rất nhiểu trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài gặp rủi ro (đặc biệt là phụ nữ). Theo thống kê của Bộ Tư pháp, năm 2008 cả nước có 22.745 trường hợp, năm 2009 có 20.099 trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài. Từ tháng 1-2005 đến hết năm 2009, Hà Nội (bao gồm cả tỉnh Hà Tây trước đây) đã tiếp nhận và giải quyết 2402 trường hợp đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, riêng năm 2010 cũng có đến 448 trường hợp, hầu hết các trường hợp kết hôn này đều thông qua môi giới. Hình thức kết hôn thông qua môi giới dù đã bị cấm nhưng vẫn được lén lút hoạt động. Trong những năm qua có nhiều vụ tổ chức cho người nước ngoài “xem mặt” hàng trăm người có nhu cầu kết hôn với người nước ngoài rồi lựa chọn. Điều này không chỉ hạ thấp danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ, mà còn xâm phạm nghiêm trọng thuần phong, mỹ tục. Đã có rất nhiều điều đáng tiếc xảy đến với số phận của các cô gái lấy chồng là công dân nước ngoài. Các chú rể “ngoại” này không có cơ hội lấy vợ cùng quốc tịch do nghèo, khiếm khuyết thể chất... nên đã bỏ ra một khoản tiền lớn nhờ môi giới để tìm vợ và vì lợi nhuận, phía môi giới sẵn sàng giấu những vấn đề này. Đặc biệt đã có những trường hợp phụ nữ Việt Nam bi ngược đãi và nguy hiểm đến tính mạng: việc cô dâu Huỳnh Mai bị chồng người Hàn Quốc hành hạ cho đến chết rồi giấu xác, nỗi đau chưa nguôi thì dư luận trong 8 nước lại nhận được tin thêm một cô dâu Việt bị chết ở Hàn Quốc. Cô gái có tên là Lê Thị Kim Đồng (quê ở xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ), cô đã cố gắng thoát khỏi gia đình chồng (do bị hành hạ), nhưng sợ cầu thang máy có camera theo dõi nên đã buộc rèm cửa vào người và nhảy xuống từ ban công tầng 9, nhưng rèm cửa đứt. Cô đã bị thiệt mạng. Hai vụ án cho thấy cần nhanh chóng có biện pháp bảo vệ các cô dâu Việt ở nước ngoài, nhất là khi các cuộc hôn nhân với người nước ngoài ngày nay đều diễn ra rất nhanh chóng, dễ dàng, và nhất là mục đích không hẳn lúc nào cũng vì tình yêu... Nguy cơ gặp rủi ro khi lấy chồng ngoại được cảnh báo rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, tuy nhiên để đạt được mục đích xuất ngoại, nhiều cô gái đã không ngần ngại làm theo lời phía môi giới để “lách” luật Việt Nam, mà không biết rằng họ đã tự tước bỏ quyền được pháp luật bảo vệ. Thực tế cho thấy, pháp luật của một số nước về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài còn khá đơn giản và lỏng lẻo. Chẳng hạn, Hàn Quốc cho phép kết hôn có thể vắng mặt một bên. Kẽ hở này đã làm nảy sinh hoạt động môi giới kết hôn với nhiều hình thức trá hình, hoặc lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ qua biên giới. b. Nguyên nhân của thực trạng này: Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nước ta mở rộng giao lưu về nhiều mặt với các nước, người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống lâu dài ngày càng nhiều, bà con Việt kiều về nước thăm thân nhân họ hàng, đầu tư kinh doanh đông hơn, kéo theo số lượng kết hôn có yếu tố nước ngoài cũng ngày càng tăng. Trong khi đó, pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài còn nhiều sơ hở. Quy định về công nhận và ghi chú việc kết hôn đã tiến hành ở nước ngoài còn lỏng lẻo, chưa cụ thể, thủ tục ghi chú 9 khá đơn giản. Đương sự chỉ cần xuất trình giấy tờ hộ tịch đã đăng ký hợp lệ tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì được công nhận và ghi chú vào sổ hộ tịch (tức là công nhận giá trị pháp lý giấy tờ hộ tịch đó tại Việt Nam). Trong khi đó, pháp luật về hôn nhân gia đình của nhiều nước quy định rất “thoáng”như Hàn Quốc, Đài Loan…Ví dụ: Khi người đàn ông Hàn Quốc muốn kết hôn với phụ nữ Việt Nam, họ yêu cầu phía nữ gửi giấy xác nhận độc thân, bản sao khai sinh, chứng minh nhân dân để kê khai việc kết hôn và được nhập tên vào sổ hộ khẩu gia đình người chồng tại Hàn Quốc. Sau đó, họ tiếp tục đến lãnh sự quán Hàn Quốc tại TP. Hồ Chí Minh để được cấp giấy chứng nhận không cản trở việc kết hôn theo luật pháp Hàn Quốc và đến Sở Tư pháp làm thủ tục ghi chú. Điều đáng nói là suốt quá trình đó người phụ nữ Việt Nam vẫn chưa từng đến Hàn Quốc, mọi thủ tục tại Hàn Quốc do bên nam thực hiện. 2. Một số quy định của Pháp luật Việt Nam về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài chưa chặt chẽ: Để tránh thủ tục chặt chẽ của Việt Nam, các đối tượng này đã lập, gửi hồ sơ sang Hàn Quốc để đăng ký kết hôn ở đấy, sau đó mới về Việt Nam để ghi chú kết hôn. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/NĐCP là hai văn bản hướng dẫn giải quyết vấn đề hôn nhân có yếu tố nước ngoài song thực tiễn triển khai áp dụng lại gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ, theo đúng quy định thì Sở Tư pháp phải tiến hành phỏng vấn để làm rõ sự tự nguyện kết hôn của các bên, mà không yêu cầu làm rõ khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ chung, mức độ hiểu biết về hoàn cảnh của nhau...Trong khi đó, qua phỏng vấn, cán bộ tư pháp nhận thấy hai bên không giao tiếp được với nhau do bất đồng ngôn ngữ, không biết gì về hoàn cảnh của nhau, thậm chí mới gặp gỡ một lần... Đó là chưa kể việc bất đồng ngôn ngữ 10 giữa cán bộ phỏng vấn và người đăng ký, tất cả chỉ dựa vào lời nói của phiên dịch. Rõ ràng, thấy việc kết hôn còn gượng ép, nhưng Sở Tư pháp chỉ có thể khuyến cáo các bên nên dành thêm một khoảng thời gian cần thiết để về tìm hiểu thêm về nhau, mà chưa có căn cứ pháp lý để từ chối đăng ký kết hôn. Hay một số trường hợp tuy không vi phạm pháp luật nhưng về mặt đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam lại không phù hợp như trường hợp xin kết hôn mà người nữ hơn người nam đến 40 tuổi...Vì vậy, trong thời gian tới, việc sửa đổi các quy định của Pháp luật nhằm bảo vệ tốt hơn nữa quyền lợi của những người đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài là cần thiết. Hôn nhân có yếu tố nước ngoài có chiều hướng tăng, riêng Đài Loan có khoảng 80.000 cô dâu Việt Nam. Rồi người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng thích về nước lấy vợ. Xu hướng mới bây giờ là lấy chồng Hàn Quốc, đặc biệt là Nhật. Điều này chứng tỏ giao lưu giữa Việt Nam và nước ngoài ngày càng cởi mở. Nhưng trong lĩnh vực này đã phát sinh nhiều tiêu cực, đặc biệt nhức nhối là nhóm môi giới hôn nhân, giới thiệu cô dâu Việt Nam với người nước ngoài theo cái cách làm trái với Pháp luật và đạo đức xã hội. Đa số cô dâu lấy chồng nước ngoài là vì kinh tế, chứ không phải vì tình yêu. Không thể có chuyện vì tình yêu mà mới biết nhau vìa ngày đã dẫn đến hôn nhân. Quy định hiện hành đúng là có một số sở hở và đã bị lợi dụng. Ví dụ như quy định cho phép được ủy quyền cho người khác nộp hồ sơ ở Sở Tư pháp để xin đăng ký kết hôn đã bị một số đối tượng lợi dụng để làm môi giới. Hay như hiện nay quy định để được đăng ký kết hôn thì đôi nam nữ phải qua phỏng vấn, nhưng trên thực tế điều này chỉ làm rất hình thức. Trong nhiều trường hợp người môi giới đứng đằng sau hướng dẫn cách trả lời. Một ví dụ 11 nữa là quy định ghi chú ly hôn. Theo quy định, người nước ngoài đã ly hôn và muốn kết hôn với người Việt Nam thì phải ghi chú ly hôn để chứng minh mình độc thân. Thực tế, ở nước ngoài người ta đã ly hôn, có bản án, quyết định của tòa án thật và đã kết hôn với người khác. Nhưng đến Việt Nam họ lại mang bản án cũ ra để làm bằng chứng. III. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài: Thứ nhất, phải quy định lúc nộp hồ sơ để làm đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ phải có mặt tại Sở Tư pháp, chứ không thể ủy quyền cho người khác. Thứ hai, trong quy trình kết hôn có một thủ tục phỏng vấn đôi bên và phải có nội dụng cụ thể, bao gồm: mục đích hôn nhân có đúng không; mức độ hiểu biết nhau như thế nào, đặc biệt nhấn mạnh đôi bên phải hiểu nhau qua một ngôn ngữ chung. Quy định này nhằm tránh tình trạng hiện nay các công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài mà chẳng biết ngoại ngữ dẫn đến bất đồng về ngôn ngữ. Sau quá trình phỏng vấn người phỏng vấn phải lập biên bản, ký xác nhận vào đó, đề xuất ý kiến có nên cho kết hôn hay không và chịu trách nhiệm cá nhân về việc này. "Lỗ hổng" ghi chú ly hôn cũng phải được thay bằng quy định mới là trong hồ sơ để làm thủ tục kết hôn phải có giấy chứng nhận của cơ quan thẩm quyền nước sở tại rằng anh đang ở tình trạng độc thân (giấy có giá trị trong 6 tháng). Thêm vào đó, để chống môi giới kết hôn bất hợp pháp, dự thảo quy định nếu cán bộ làm thủ tục phát hiện việc kết hôn thông qua môi giới thì phải từ chối cho họ kết hôn. 12 Thứ ba, thành lập những trung tâm bảo trợ hỗ trợ phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Ngoài ra, chúng ta có thể mở lớp bồi dưỡng dạy văn hoá của một số nước, cách cư xử trong gia đình, giống như một số nước có lớp dạy cách làm dâu và cung cấp những thông tin cần thiết về: - Về thực trạng đời sống hôn nhân của những cô dâu Việt Nam ở nước ngoài - Về Luật pháp, phong tục, tập quán của các vùng, miền nơi mà công dân Việt Nam sẽ đến làm dâu. Vai trò của gia đình: giáo dục gia đình, nếp sống và gia phong của mỗi nhà rất quan trọng không chỉ với việc hình thành nhân cách của con cái, mà còn trang bị cho con cái sự hiểu biết, bản lĩnh sống, khả năng thích ứng trước những biến động, rủi ro của cuộc đời. Với con cái, nếu bố mẹ không quan tâm giáo dục con mình về đạo đức, lối sống mà lại chỉ mong con cái kết hôn với người nước ngoài thì nguy cơ với con cái họ thật khó mà biết trước được. C.KẾT LUẬN Qua những vấn đề lý luận và thực tiễn như đã nêu ở trên, có thể thấy Pháp luật nước ta vẫn còn những quy định chưa chặt chẽ về kết hôn có yếu 13 tố nước ngoài. Cũng cần phải nói thêm, chúng ta không có sự hỗ trợ cần thiết từ các nước để có thể bảo vệ được công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Việc kí kết các hiệp định pháp lý của nước ta với các nước thường gặp nhiều khó khăn do hệ thống Pháp luật nước ta vẫn đang có những điểm chưa thực sự hợp lý. Do vậy, trước hết chúng ta phải từng bước hoàn thiện các quy định của Pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài đông thời cũng phải có các biện pháp nhằm đảm bảo lợi ích cho công dân Việt Nam trước nhửng rủi ro trong hôn nhân với người nước ngoài. Em xin kết thúc bài luận tại đây. Do hiểu biết của em còn hạn chế nên mong thầy cô đóng góp ý kiến để em hoàn thiện bài viết này! Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 14 1. “Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2002. 2. “Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam”, Nxb Công An Nhân Dân, Hà Nội 2009. 3. “Chỉ dẫn áp dụng Luật hôn nhân và gia đình”, Nxb Tư Pháp, Hà Nội 2006. 4. “Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt nam năm 2000”, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 2004. 5. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. 6. Nghị định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. 7. Từ điển giải thích thuật ngữ luật học (chuyên ngành luật dân sự, luật tố tụng dân sự và luật HN&GĐ), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1999. 8. Thongtinphapluatdansu.com 15 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan