Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Một số vấn đề về chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm truyện kiều của nguyễn du...

Tài liệu Một số vấn đề về chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm truyện kiều của nguyễn du

.PDF
161
575
100

Mô tả:

Đại học quốc gia Hà nội Trường đại học khoa học xã hội & nhân văn khoa văn học Nguyễn Thị Hồng Thắng Một số vấn đề về chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm truyện kiều của nguyễn du Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn Hà Nội - 2005 Đại học quốc gia Hà nội Trường đại học khoa học xã hội & nhân văn Khoa văn học Nguyễn Thị Hồng Thắng Một số vấn đề về chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm truyện kiều của nguyễn du Chuyên ngành lý luận văn học Mã số: 5 04 01 Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Quang Long Hà Nội - 2005 Lời nói đầu Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một vấn đề khó và phức tạp nhưng cũng hết sức hấp dẫn, lôi cuốn nhiều nhà nghiên cứu bàn luận. Hầu hết các thế hệ, các học giả ở các cấp độ khác nhau đã "vào cuộc" với mục đích giải mã cho được những vấn đề Nguyễn Du đặt ra trong Truyện Kiều. Nhiều công trình nghiên cứu công phu, áp dụng hầu hết các phương pháp tiếp cận tác phẩm đã được công bố. Các công trình này gắn liền với các tên tuổi nổi tiếng như: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Phan Ngọc, Đặng Thanh Lê, Đỗ Đức Dục, Nguyễn Lộc, Trần Đình Hượu, Trần Đình Sử, Trần Nho Thìn...Những đóng góp của các nhà nghiên cứu là vô cùng to lớn và quý báu đối với nền khoa học xã hội và nhân văn nước nhà. Truyện Kiều sống mãi với thời gian cũng là nhờ những vấn đề Nguyễn Du đặt ra trong tác phẩm càng ngày càng có ý nghĩa đối với thời đại. Tìm hiểu vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều là một việc làm hết sức có ý nghĩa đòi hỏi phải có kiến thức sâu rộng, một niềm đam mê khoa học và một phương pháp nghiên cứu thích hợp. Tôi đã chọn đề tài Một số vấn đề về Chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, với mong muốn có được những tiếng nói đóng góp về phương pháp tiếp cận tác phẩm đúng hướng và phần nào khẳng định những thành công của Nguyễn Du về phương pháp sáng tác. Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi nhận được sự động viên và đóng góp to lớn của thầy cô giáo, gia đình, và bạn bè. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo PGS. TS. Phạm Quang Long – người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Trong quá trình làm việc cùng với thầy tôi đã rút ra được rất nhiều bài học cho bản thân. Đó là bài học về lòng nhân ái, bao dung, và một tinh thần lao động khoa học hăng say, nghiêm túc. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả các thầy cô giáo - những người đã trang bị cho tôi hành trang kiến thức để tôi có thể hoàn thành luận văn này. Nhân đây, tôi cũng xin được cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp cùng những người thân trong gia đình đã giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình học tập cũng như trong thời gian làm luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Mục lục Trang Lời nói đầu Mục lục Mở đầu…………………………………………………………………… 1 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài ………………………………………….. 1 2. Lịch sử vấn đề 2 ………………………………………………………….. 2.1. Giới thuyết về chủ nghĩa hiện thực ……………………………. 2 2.1.1. Về thời điểm ra đời của chủ nghĩa hiện thực ………….. 2 2.1.2. Về nội hàm khái niệm chủ nghĩa hiện thực …………… 8 2.2. Vấn đề CNHT trong Truyện Kiều với các lớp người qua các thời đại………………………………………………... 21 3. Nhiệm vụ của luận văn ………………………………………………... 48 4. Phương pháp nghiên cứu 49 ……………………………………………… 5. Cấu trúc luận văn ……………………………………………………... 49 Chương 1. Thời đại, cuộc đời và tư tưởng Nguyễn Du …………….. 50 1.1. Thời đại Nguyễn Du ………………………………………... 50 1.1.1. Chính trị ……………………………………………… 50 1.1.2. Kinh tế ………………………………………………... 52 1.1.3. Tư tưởng ……………………………………………… 55 1.2. Cuộc đời và tư tưởng Nguyễn Du 59 …………………………. Chương 2. Quan điểm của Nguyễn Du về cuộc đời và con người 2.1. Phát biểu của Nguyễn Du dưới dạng triết luận …………. 69 69 2.2. Hình tượng nhân vật Thuý Kiều và quan điểm của Nguyễn Du về cuộc đời ……………………………….. 85 Chương 3. Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong truyện kiều ……. 94 3.1. Vấn đề cốt truyện …………………………………………... 94 3.2. Vấn đề nhân vật ……………………………………………. 103 3.2.1. Môi trường hoạt động của nhân vật 103 …………………... 3.2.1.1. Môi trường xã hội ……………………………. 104 3.2.1.2. Khung cảnh thiên nhiên ……………………… 108 3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ……………………….. 111 3.2.2.1. Nhóm nhân vật phản diện ……………………. 112 3.2.2.2. Nhóm nhân vật chính diện …………………… 118 3.3. Vấn đề ngôn ngữ Truyện Kiều ……………………………. 131 3.3.1. Ngôn ngữ người kể chuyện …………………………... 133 3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật …………………………………… 138 Kết luận………………………………………………………………… 147 Danh mục tài liệu tham khảo………………………………….. 149 Mở Đầu 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Xã hội phong kiến giai đoạn cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỉ XIX ở vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Đây là giai đoạn quyền lợi cá nhân bị tƣớc đoạt nhiều nhất. Nhƣng, dƣờng nhƣ đã trở thành quy luật, cứ khi nào quyền lợi của dân tộc bị xâm phạm thì khi đó trong văn học nổi lên là tiếng nói yêu nƣớc thiết tha; khi nào quyền lợi của cá nhân bị xâm phạm thì trong văn học lại dành cho tiếng nói nhân đạo bênh vực quyền sống của con ngƣời bất hạnh, đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Vì thế, đây lại là thời kì văn học phát triển mãnh liệt với sự đóng góp không thể phủ nhận là nội dung nhân đạo, bênh vực những con ngƣời bất hạnh. Đây cũng là thời kì ghi nhận đóng góp tiến bộ của rất nhiều tác giả nhƣ: Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hƣơng...và nổi bật là Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều. Từ khi ra đời đến nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành một bộ phận không tách rời của đời sống văn học dân tộc. Nó là niềm tự hào của văn học dân tộc và làm giàu có thêm đời sống tâm hồn con ngƣời Việt Nam biết bao thế hệ. Song, Truyện Kiều không phải không từng trải qua những bƣớc thăng trầm. Các thế hệ độc giả nhìn nhận tác phẩm theo những quan điểm khác nhau, với những góc nhìn khác nhau. Cuối cùng, về cơ bản những đóng góp của tác phẩm về phƣơng diện nội dung và nghệ thuật đã đƣợc khẳng định, dù tác giả có vay mƣợn cốt truyện của nƣớc ngoài. Nhƣng từ những năm 60 của thế kỉ XX, Truyện Kiều lại đƣợc giới nghiên cứu quan tâm nhìn nhận ở góc độ khác – góc độ phƣơng pháp sáng tác. Nhiều tác giả đã nghiên cứu Truyện Kiều ở góc độ phƣơng pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa. Đây là vấn đề không hề đơn giản và gây nhiều tranh cãi. 1 Cho đến nay vẫn còn có ngƣời băn khoăn trƣớc câu hỏi: có hay không chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều của Nguyễn Du? Theo nhận thức của tôi, muốn đánh giá phƣơng pháp sáng tác của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, cần phải có cái nhìn tổng thể từ lịch sử xã hội đến thế giới quan và quan điểm phản ánh hiện thực của tác giả đƣợc thể hiện trong tác phẩm. Trong đó phải đặc biệt chú ý tới hệ thống nhân vật trong tác phẩm để thấy nguyên tắc xây dựng nhân vật của tác giả. Vì những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài Một số vấn đề về chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du với mong muốn góp tiếng nói của mình về vấn đề đã có không ít tranh cãi. 2. Lịch sử vấn đề 2.1.Giới thuyết về Chủ nghĩa hiện thực (CNHT) 2.1.1 Về thời điểm ra đời của Chủ nghĩa hiện thực Chủ nghĩa hiện thực có khi đƣợc dùng không phải với nghĩa một phƣơng pháp sáng tác, nhiều khi nó dùng theo nghĩa rộng để xác định quan hệ giữa tác phẩm văn học với hiện thực, bất kể tác phẩm đó của nhà văn thuộc trƣờng phái và khuynh hƣớng văn nghệ nào. Với ý nghĩa này, khái niệm “chủ nghĩa hiện thực” gần nhƣ đồng nghĩa với khái niệm “sự thật đời sống”. Nhƣng vấn đề là ở chỗ, tác phẩm văn học nào cũng phản ánh hiện thực cuộc sống bởi vì đặc tính cốt yếu của nghệ thuật nói chung, của văn học nói riêng là tƣ duy hình tƣợng - một dạng hoạt động trí tuệ quan trọng bậc nhất của con ngƣời - bao giờ cũng sử dụng trong sáng tạo nghệ thuật những biểu tƣợng do thế giới bên ngoài làm sản sinh trong ý thức con ngƣời. Vì thế, “ngay khi ngƣời nghệ sĩ bịa đặt và vẽ vời một điều gì đó mà anh ta cho là ở ngoài biên giới của thực tại thì anh ta chẳng qua cũng chỉ tái tạo những bộ phận của cái chỉnh thể đƣợc gọi là thực tế” [1, 13]. Rõ ràng tác phẩm văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung, dù thuộc bất kỳ trƣờng phái nào cũng có “giá trị hiện 2 thực”. Có lẽ đây là nguyên nhân để nhiều lúc ngƣời ta đánh đồng chủ nghĩa hiện thực với “giá trị hiện thực” và tính hiện thực của tác phẩm văn học. Ngày nay, ý nghĩa này của thuật ngữ “chủ nghĩa hiện thực” đã không đƣợc dùng nữa vì nó không mang lại hiệu quả đáng kể cho công tác nghiên cứu văn học. Thuật ngữ này đƣợc dùng phổ biến với nghĩa hẹp của nó - một phƣơng pháp sáng tác. Thật ra, khái niệm "Chủ nghĩa hiện thực" đƣợc dùng với ý nghĩa một phƣơng pháp sáng tác cũng không phải đã có sự thống nhất hoàn toàn, kể cả về thời điểm ra đời và cơ sở nảy sinh ra nó vốn là những phƣơng diện dễ đạt tới sự nhất trí hơn cả. Một số ngƣời cho rằng những nguyên tắc phản ánh hiện thực chủ nghĩa hình thành từ thời cổ đại và trải qua các giai đoạn phát triển nhƣ: Cổ đại, Phục hƣng, ánh sáng, thế kỷ XIX. Ngay cả Pêtơrôp - ngƣời đã nhận thấy chủ nghĩa hiện thực ra đời nhƣ một hồi quang trong phạm vi nghệ thuật của cuộc đảo lộn vĩ đại nhất mà loài ngƣời trải qua thời đại Phục hƣng, cũng thừa nhận: “Một trong những yếu tố của sự nảy sinh và phát triển của chủ nghĩa hiện thực thời đại Phục hƣng là sự lĩnh hội di sản nghệ thuật và văn học cổ đại”. Và “các nền văn học thời cổ - trƣớc hết là nền văn học của thế giới cổ đại đặt nền móng cho toàn bộ sự phát triển sau này của nền văn học toàn thế giới, của chủ nghĩa hiện thực nói riêng” [6, 4]. Ông cũng khẳng định: “Nền văn học thời đại Phục hƣng trƣớc hết là sáng tác của Sêcxpia và Xecvantec, khẳng định rằng nghệ thuật có quyền lƣu ý tới những hiện tƣợng bình thƣờng nhất của cuộc sống, đến tất cả những gì mà con ngƣời quan tâm. Toàn bộ những cái đó đòi hỏi sự hình thành của một thi pháp mới và dĩ nhiên phải là thi pháp của chủ nghĩa hiện thực phê phán” [6, 7]. 3 Gần gũi quan điểm này là quan niệm của Borix Xuskôv. Theo Borix Xuskôv thì: Chủ nghĩa hiện thực với tƣ cách là phƣơng pháp sáng tác, là một hiện tƣợng lịch sử phát sinh ở một giai đoạn phát triển nhất định của lý trí con ngƣời, vào thời mà trƣớc con ngƣời nảy sinh sự tất yếu không tránh khỏi phải ý thức bản chất và khuynh hƣớng vận động của xã hội, vào thời mà con ngƣời nhận ra rằng - ban đầu có tính chất tự phát sau đó thì tự giác - những hành động và tình cảm của con ngƣời không phải là hệ quả của những say mê hoặc của ý đồ thần linh mà chúng bị quyết định bởi những nguyên nhân thực tại hoặc, nói đúng hơn, những nguyên nhân vật chất [1, 30]. Trong nhiều công trình, các nhà nghiên cứu còn gặp nhau ở chỗ cùng chỉ ra bƣớc chuyển của CNHT từ thời đại Phục hƣng qua thời ánh sáng và đỉnh cao là CNHT thế kỷ XIX mà M.Goorki gọi đó là chủ nghĩa hiện thực phê phán. Một số khác lại cho rằng CNHT hình thành từ thế kỷ XVIII khi tiểu thuyết sinh hoạt gia đình và sinh hoạt xã hội ra đời. Phần đông các nhà nghiên cứu đều cho CNHT nhƣ một phƣơng pháp, một khuynh hƣớng nghệ thuật hình thành vào những năm 30 của thế kỷ XIX, khi trong văn học châu Âu nguyên tắc mô tả chân thực cuộc sống đƣợc khẳng định một cách đầy đủ nhất, trong những hình thức phân tích xã hội phát triển nhất. Dù các ý kiến về thời điểm ra đời của CNHT còn khác nhau ở nhiều mặt, song vẫn thống nhất tại hai điểm : Thứ nhất: Thừa nhận cơ sở hình thành của CNHT trƣớc hết là do yêu cầu phản ánh hiện thực của văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung, nhƣng 4 quan trọng nhất là do hoàn cảnh xã hội và sự phát triển của ý thức con ngƣời. Xã hội phải có những đổi thay đến một mức nào đó đủ để con ngƣời có sự chuyển biến trong nhận thức về thế giới, để họ không còn tin vào thế giới thần linh tồn tại vô hình bên ngoài thực tại, họ đã có nhận thức khoa học về thế giới với một vốn kinh nghiệm nhất định về xã hội, khi đó CNHT ra đời . Thứ hai: Khẳng định CNHT có số phận lịch sử của nó, phát triển qua các thời kỳ khác nhau. Mỗi thời kỳ, CNHT có những sắc thái riêng và dần tiến tới sự hoàn thiện. Theo chúng tôi, các ý kiến cho rằng CNHT ra đời từ thời Phục hƣng là có cơ sở thuyết phục hơn cả. Bởi vì “chủ nghĩa hiện thực nhƣ một phạm trù lịch sử, nó chỉ hình thành ở một giai đoạn lịch sử nào đó khi đã xuất hiện những tiền đề lịch sử nhất định” [7, 13]. Khi mà “con ngƣời đã đạt đƣợc một vốn kinh nghiệm tối thiểu, trình độ nhận thức trình độ khoa học tối thiểu” [7, 14], qua thực tiễn lao động và đấu tranh để nhận thức đƣợc về bản thân, và những mối quan hệ phức tạp giữa con ngƣời với tự nhiên và xã hội, cũng nhƣ quá trình phát triển của nó và xã hội qua thời gian. Điều này giúp ta nhận thấy rằng: Trong lịch sử văn học phƣơng Tây, mặc dầu trong các nền văn học nghệ thuật thời Cổ đại và Trung cổ, có những tác phẩm làm cho thế giới phải kinh ngạc về độ dày và độ dài, dù có những yếu tố hiện thực chủ nghĩa khá phong phú, chủ nghĩa hiện thực vẫn chƣa xuất hiện. Vì con ngƣời bấy giờ vẫn còn bị thống trị bởi “thế giới quan thần thoại” giải thích cuộc sống bằng “số mệnh”, hoặc bởi “thế giới quan tôn giáo” giải thích cuộc sống bằng “mệnh trời” của đạo Giatô. Có lẽ phải đợi đến thời kỳ Phục hƣng, có một cuộc đảo lộn vĩ đại trong tƣ tƣởng con ngƣời, trong đời sống xã hội, với sự phát triển của những mối quan hệ xã hội mới thay thế chế độ phong kiến, cùng những thành tựu của khoa học, triết học làm ý thức hệ phong kiến suy sụp về căn bản, chủ nghĩa hiện thực mới ra đời. Thời ấy, chìm đắm mãi trong “đêm trƣờng Trung 5 cổ”, con ngƣời bắt đầu chán ngấy những thuyết lý của tôn giáo và nhà thờ, họ muốn tự mình tìm hiểu khám phá thế giới. Kỳ diệu thay, họ đã phát hiện đƣợc những kiệt tác trong lịch sử văn học Hy Lạp, La Mã. Đi tìm nguyên nhân thành công của các tác phẩm thời cổ đại, họ hiểu rằng đó là vì con ngƣời đƣợc tự do, chƣa bị trói buộc bởi các luật lệ hà khắc của chế độ phong kiến, thế là một trào lƣu “nhân văn chủ nghĩa” đƣợc hình thành và lan rộng khắp châu Âu. Các nhà nhân văn chủ nghĩa thời đại Phục hƣng quan tâm sâu sắc đến vấn đề con ngƣời hoàn thiện, phát triển toàn diện, có trí tuệ và thoát ra ngoài xiềng xích thời Trung cổ. Con ngƣời với tất cả sự phức tạp trong tính cách và hành động trở thành đối tƣợng chính của nghệ thuật. Điều này làm thay đổi cách hiểu về nhiệm vụ và mục đích của nghệ thuật. Bây giờ ngƣời ta cho rằng: “Chức năng của nghệ thuật không phải là thể hiện ý tƣởng thần linh, lôi kéo con ngƣời vào thế giới bên kia mà phục vụ những lợi ích trần thế và sự hoàn thiện của bản thân con ngƣời” [6, 3]. Do đó văn học thời kỳ này đã quan tâm tới thế giới cảm xúc của con ngƣời (điều mà nghệ thuật tôn giáo thời Trung cổ xem thƣờng). Bên cạnh đó, sự đổi mới về tƣ tƣởng cùng với sự phát triển của khoa học tiên tiến mà ngƣời mở đầu là Bêcơn, cũng quyết định sự nảy sinh và sự phát triển về sau của chủ nghĩa hiện thực. Các nhà triết học và nhà báo thời Phục hƣng đến thay cho các “bậc cha đẻ của nhà thờ” đã cố tạo ra một bức tranh duy lý về thế giới, đi sâu vào tính quy luật của sự sống và không thể không gây ảnh hƣởng tốt lành lên nghệ thuật. Thời đại này, vấn đề bản chất của con ngƣời, điều gì đã điều khiển cuộc sống con ngƣời, cũng nhƣ vấn đề quan hệ giữa tƣ duy và tồn tại, vấn đề tinh thần đối với thiên nhiên, "chỉ có thể đặt ra với toàn bộ sự gay gắt của nó, chỉ có thể có đầy đủ ý nghĩa của nó, sau khi ngƣời châu Âu tỉnh dậy từ giấc ngủ mùa đông dài dằng dặc của thời Trung cổ cơ đốc giáo” [2, 350]. Dƣới dạng 6 nghệ thuật, vấn đề này đƣợc đặt ra sâu sắc hơn cả trong sáng tác của Sêxpia ngƣời cùng thời và đồng hƣơng của Bêcơn. Pêtơrôp đã nhận xét rằng “Sêxpia, ngƣời đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học thế giới", bởi đóng góp lớn nhất của Sêxpia khi miêu tả con ngƣời là "một thực thể không phụ thuộc vào các lực lƣợng thần thánh trong hoạt động của mình"[6, 9]. Khi đặt ra vấn đề cái gì quyết định một cách khách quan thế giới nội tâm, hành vi, ý chí của con ngƣời? Những vở bi kịch của Sêcxpia đã nói lên rằng: Cá nhân con ngƣời không tự do, và vấn đề tính cách trở nên phức tạp với vấn đề “hoàn cảnh sống thực". Những hoàn cảnh này đôi khi hạn chế một cách khốc liệt ý chí và khả năng tự do quyết định của con ngƣời, ngay cả khi đó là một cá nhân phi thƣờng. Nhƣ vậy, Sêcxpia lần đầu tiên đặt ra vấn đề tác động của hoàn cảnh đối với tính cách con ngƣời - vấn đề đƣợc văn học hiện thực sau này tiếp nhận. “Hoàn cảnh” mà Sêcxpia đặt nhân vật của mình trong đó đã mang cái nghĩa mà Ănghen hiểu khi dùng thuật ngữ “hoàn cảnh điển hình” vì nó mang tính chất “toàn nhân loại”. Chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX đã tiếp thu phƣơng pháp tái hiện hoàn cảnh điển hình của Sêcxpia. Ra đời từ thời Phục hƣng, chủ nghĩa hiện thực có số phận của nó, phát triển qua các thời kỳ: Phục hƣng, ánh sáng, thế kỷ XIX... Mỗi thời kỳ, chủ nghĩa hiện thực lại có màu sắc riêng. Chẳng hạn thời kỳ Phục hƣng - thời kỳ sơ khai của chủ nghĩa hiện thực, nó xuất hiện với ý nghĩa phê phán trật tự xã hội đƣơng thời, phê phán sự giải thích thế giới bằng thần linh, bằng thần thoại. Những sáng tác của Sêcxpia và Xecvantec đã miêu tả con ngƣời trong sự toàn diện của nó và mang ý nghĩa phê phán đó. Thời ánh sáng, chủ nghĩa hiện thực phát triển ở một giai đoạn mới, là cơ sở cho sự nảy mầm của chủ nghĩa hiện thực phê phán khi mà vấn đề xã hội, con ngƣời, cơ cấu xã hội đƣợc đặt ra một cách gay gắt trong những sáng 7 tác của Môlie, Gớt, Điđrô. Thời kỳ này con ngƣời không chỉ đƣợc miêu tả một cách toàn diện về thế giới nội tâm, bản chất và lý trí mà cả xã hội - môi trƣờng bao quanh con ngƣời cũng đƣợc nghiên cứu, vì đó là yếu tố ảnh hƣởng đến tính cách con ngƣời. Văn chƣơng soi sáng những mối quan hệ nhân quả, tƣơng tác lẫn nhau giữa môi trƣờng và số phận con ngƣời. Trƣớc kia, môi trƣờng cùng tồn tại với nhân vật, quan hệ với nó nhƣ một thế giới bên ngoài, nhân hậu hoặc thù địch, nay trở thành gốc rễ nuôi dƣỡng nó bằng dòng nhựa của mình. Mối quan hệ nhân quả mà Sêcxpia đã từng thấy, giờ đây đã hiện ra nhƣ một mối nhân quả có tính xã hội. Điều này về sau sẽ trở thành cơ sở của phƣơng pháp phân tích của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX: Đã đạt tới đỉnh cao nhất cho nên ngƣời ta gọi là chủ nghĩa hiện thực cổ điển. Âm hƣởng chủ đạo của nó là phê phán, nên M. Goorki đã gọi đó là “chủ nghĩa hiện thực phê phán”, ngày nay thuật ngữ này vẫn đang tồn tại. Nhƣ vậy, việc xác định mốc hình thành chủ nghĩa hiện thực ở phƣơng Tây cũng là vấn đề vô cùng phức tạp. Tuy nhiên, các ý kiến vẫn châu tuần tại một điểm là thừa nhận chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX là đỉnh cao chói lọi của chủ nghĩa hiện thực ở phƣơng Tây. Đây cũng là giai đoạn mà lý luận về chủ nghĩa hiện thực cũng dần đạt tới sự hoàn thiện. Khái niệm “chủ nghĩa hiện thực” đƣợc đề cập nhiều nhất và nội hàm của nó đã đƣợc nêu lên rõ ràng. 2.1.2 Về nội hàm khái niệm chủ nghĩa hiện thực Nhƣ trên đã nói, có lúc khái niệm chủ nghĩa hiện thực đƣợc dùng với tính chất nhƣ là sự phản ánh hiện thực đời sống. Khi đó, khái niệm này trùng với khái niệm “sự thật đời sống” hoặc “giá trị hiện thực”, “tính hiện thực” của tác phẩm văn học. Đồng thời với sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực trong văn học châu Âu, lý luận về chủ nghĩa hiện thực cũng hình thành và ngày càng hoàn thiện: 8 Đƣợc xem nhƣ sự khởi đầu trong lý thuyết về chủ nghĩa hiện thực là những lời khuyên của Hămlét đối với các diễn viên khi nói rằng: “Cần tái hiện chân lý cuộc sống bằng nghệ thuật nhƣ thế nào?” [6, 24]. Đến thế kỷ XVIII lý luận về chủ nghĩa hiện thực đƣợc hình thành trong mỹ học của Điđrô và Letxing. Quan điểm và lời khuyên của họ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thứ nghệ thuật gắn liền với thực tại. Điđrô cho rằng, “mỗi một tác phẩm điêu khắc hay hội hoạ phải thể hiện một quy tắc vĩ đại nào đó của cuộc sống, phải có ý nghĩa giáo huấn, nếu không thì nó sẽ câm lặng” [6, 25]. Theo ông, “trong việc miêu tả đối tƣợng chủ yếu của cuộc sống là con ngƣời, cần đạt đƣợc tính khách quan bằng cách điển hình hoá tính cách trong mối quan hệ phụ thuộc với môi trƣờng, xã hội và vị trí của nhân vật đó” [6, 25]. Nhƣ vậy, trong quan điểm của Điđrô thì mục đích của tác phẩm nghệ thuật là phản ánh hiện thực và chân lý cuộc sống. Nhân vật trung tâm của tác phẩm là con ngƣời chịu sự chi phối của môi trƣờng và xã hội. Đây là quan điểm khoa học mà chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX sẽ tiếp tục kế thừa. Letxing là một trong những nhà khai sáng ở Đức thế kỷ XVIII đã đấu tranh kiên quyết cho chủ nghĩa hiện thực. Ông cho rằng, nghệ thuật có chức năng tái hiện không chỉ cái đẹp mà là toàn bộ “tự nhiên nhìn thấy đƣợc”. Ông nhìn thấy quy luật chủ yếu của nghệ thuật chân thực trong “chân lý của sự biểu cảm”. Sự biểu cảm lại phụ thuộc vào “sự thật của hiện thực”, “không thể nào là vĩ đại cái gì không chân thực”. Trong khi miêu tả con ngƣời, nhà văn phải tuân theo lôgic khách quan của tính cách đó và “tiến trình sự việc”. Ông cũng đặt ra vấn đề “cái chung”- cái điển hình và “cái thông thƣờng”- cá tính trong sáng tạo nghệ thuật [6, 26]. Rõ ràng Letxing đã đặt ra yêu cầu đối với nhà văn trong việc miêu tả cuộc sống của con ngƣời: cần phải tuân theo lôgic khách quan chứ không nên 9 áp đặt ý muốn chủ quan vào tác phẩm. Hình tƣợng nhân vật trong tác phẩm phải có cuộc sống riêng, tính cách phát triển phù hợp với tiến trình sự việc chứ không phụ thuộc vào ý tác giả. Thời kỳ này, Gớt cũng quan tâm nhiều tới các vấn đề của chủ nghĩa hiện thực. Ông đƣa ra quan điểm về mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và đời sống. “Đối với ngƣời nghệ sĩ yêu cầu cơ bản nhất luôn luôn là yêu cầu đứng về phía cuộc sống, nghiên cứu nó, tái hiện và tạo dựng một cái gì giống với các hiện tƣợng của nó”[6, 26]. Dẫu vậy, lý luận về chủ nghĩa hiện thực thời kỳ này vẫn chƣa đƣa ra khái niệm về chủ nghĩa hiện thực, mà mới chỉ đƣa ra những nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực. Thế kỷ XIX - thời kỳ hoàng kim của chủ nghĩa hiện thực, là thời kỳ lý luận về chủ nghĩa hiện thực phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ này, theo ông Đỗ Đức Dục thì lần đầu tiên khái niệm chủ nghĩa hiện thực đƣợc Săngflơri đƣa ra trong cuốn Chủ nghĩa hiện thực - 1857. Ông cho rằng, chủ nghĩa hiện thực yêu cầu loại bỏ mọi yếu tố hƣ ảo, tƣởng tƣợng trong sáng tạo nghệ thuật. Ngƣời nghệ sĩ khi viết tác phẩm phải tái hiện cuộc sống nhƣ nó vốn có, ngay cả những hình tƣợng nhân vật cũng phải giữ đƣợc những nét tƣơng đồng với cuộc sống. Có lẽ vì thế mà thời ấy giới phê bình Nga đã đồng nhất chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên khi gọi nhà văn hiện thực nhƣ Gôgôn, Tuốcnhêniép, Lép Tônxtôi là các nhà văn của chủ nghĩa tự nhiên. Trong văn học phƣơng Đông đặc biệt ở Trung Quốc và Việt Nam, ngƣời ta gọi chủ nghĩa hiện thực là chủ nghĩa tả chân. Các ý kiến giai đoạn này tập trung vào vấn đề văn học lấy cuộc sống thực nhƣ những gì đang diễn ra làm đối tƣợng phản ánh. Nhƣ vậy, ít nhiều nội hàm của khái niệm chủ nghĩa hiện thực đã đƣợc định hình. Nhƣng cũng nhƣ thời Phục hƣng, thời ánh sáng, lý luận về chủ nghĩa hiện thực ở thời kỳ này vẫn chƣa trở thành một hệ thống lý luận hoàn chỉnh. 10 Các nhà lý luận của chủ nghĩa Mác vốn đƣợc trích dẫn nhiều nhất cũng không trình bày một cách hệ thống về khái niệm chủ nghĩa hiện thực. Tuy nhiên, qua các chuyên luận, các bài báo, các bức thƣ của F. Ănghen, C.Mác và V.I.Lênin, chúng ta có thể hiểu đƣợc tinh thần chung của các nhà kinh điển khi bàn về chủ nghĩa hiện thực. Tháng 4-1888, trong Thư gửi cho M. Hacơnet, Ănghen đã viết “Banzắc- ngƣời mà tôi cho là một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực lớn hơn tất cả mọi Dôla quá khứ, hiện tại và tƣơng lai - trong Tấn trò đời đã cấp cho ta cái lịch sử tuyệt diệu nhất của xã hội Pháp”. Ănghen đánh giá cao việc tái hiện “lịch sử hiện tại” của xã hội vào tác phẩm văn học và cho đó là tiêu chí quan trọng nhất của chủ nghĩa hiện thực. Cũng từ quá trình tìm hiểu, bàn định về chủ nghĩa hiện thực, Ănghen đã kết luận: “Theo tôi, ngoài chi tiết chân thực, chủ nghĩa hiện thực còn đòi hỏi một sự tái hiện chân thực những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình” [2, 374]. Nhƣ vậy, quan điểm của Ănghen là: Chủ nghĩa hiện thực yêu cầu phải tái hiện chân thực đời sống xã hội, nhƣng không phải là tái hiện theo kiểu bê nguyên xi thực tại vào tác phẩm nhƣ chủ nghĩa tự nhiên. Chủ nghĩa hiện thực chân chính phải miêu tả đƣợc hoàn cảnh điển hình với hạt nhân cơ bản là cơ sở vật chất, các mối quan hệ xã hội trong sự vận động biến đổi. Trong hoàn cảnh điển hình ấy, nhà văn phải xây dựng đƣợc những tính cách điển hình. Và chỉ trong điều kiện đặc biệt nhất định (hoàn cảnh điển hình), tính cách điển hình mới đƣợc bộc lộ một cách rõ nét và đầy đủ. Kết luận của Ănghen sau này đƣợc xem nhƣ là định nghĩa kinh điển về chủ nghĩa hiện thực. Trong các công trình của mình, V.I.Lênin thƣờng xuyên bàn về chủ nghĩa hiện thực. Đặc biệt Lênin nới rộng khái niệm chủ nghĩa hiện thực sang hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội nhƣ: Xã hội học, kinh tế, chính trị và cả triết học. Lênin đƣa khái niệm điển hình vào những lĩnh vực đó, vì thế ông 11 gọi “những tên địa chủ phản động điển hình”; “hạng ngƣời không điển hình với những năm 60”; “thứ triết lý điển hình cho bọn thực dân chủ nghĩa”…. Còn trong văn học, Lênin xem L.Tônxtôi là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực và là “chủ nghĩa hiện thực sáng suốt nhất”. Nhƣ vậy, khái niệm chủ nghĩa hiện thực đƣợc Lênin xem xét một cách linh hoạt ở mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, hạt nhân cơ bản của nó là “sự thực” hay “đời sống” vẫn đƣợc Lênin coi là quan trọng nhất. Trong lĩnh vực nghệ thuật, chủ nghĩa hiện thực là một khái niệm mỹ học. Nó đƣợc dùng để chỉ một phƣơng pháp sáng tác, một trƣờng phái, một trào lƣu, một khuynh hƣớng văn học, một kiểu sáng tác hay một hệ thống nghệ thuật. Trong phần này, chúng tôi không có tham vọng đi tìm một khái niệm chủ nghĩa hiện thực đầy đủ, chỉ cố gắng nêu lên nội hàm cũng nhƣ hạt nhân tạo nên nội hàm khái niệm, dựa vào những bài báo, các bức thƣ của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác nhƣ: Thư của C.Mác và Ănghen gửi cho Latxan (1859); Thư của Ănghen gửi cho M.Cauxki (1885), cho Haccơnet (1888); một chƣơng Phê phán tiểu thuyết "Bí mật thành Pa-ri” của Ơgien Xuy (1845) trong Gia đình thần thánh. Nội hàm khái niệm có những nét cơ bản nhƣ sau: Chủ nghĩa hiện thực đặt yêu cầu nhận thức và thể hiện đời sống một cách chính xác và khách quan lên hàng đầu “tái hiện cuộc sống nhƣ nó vốn có”. Đây là điểm khác biệt cơ bản với tính ƣớc lệ tƣợng trƣng của chủ nghĩa cổ điển, tính trữ tình thoát ly hiện thực của chủ nghĩa lãng mạn. Đối tƣợng của chủ nghĩa hiện thực phải là thực tại đời sống chứ không phải là “cái bóng” nhƣ chủ nghĩa cổ điển hay “tái tạo” thực tại nhƣ chủ nghĩa lãng mạn. Chủ nghĩa hiện thực nhận thức một cách chân thực, tái hiện đúng đắn, trung thành quan hệ giai cấp, tình hình, vị trí giai cấp của thời đại, phản ánh đúng chiều hƣớng vận động của lịch sử. Yêu cầu này đƣợc đề cập nổi bật trong Thư của C.Mác và F.Anghen gửi cho Latxan (1859), khi Latxan cho xuất bản ở 12 Đức tác phẩm bi kịch lịch sử Franx Von Xickinggen. Tác phẩm ấy lấy đề tài từ cuộc khởi nghĩa của tầng lớp hiệp sĩ chống lại vua chúa, quý tộc 1552. Ngƣời cầm đầu là Franx Von Xickinggen bị tử thƣơng và Hutten phải trốn ra nƣớc ngoài. Vấn đề đặt ra là tại sao phong trào này lại bị thất bại? Latxan cho rằng, khởi nghĩa thất bại vì những ngƣời cầm đầu thiếu nhiệt tình và mƣu trí. Mác và Ănghen chỉ ra cuộc khởi nghĩa thất bại vì lãnh tụ của phong trào này là những ngƣời đại diện cho giai cấp đã suy tàn. Thất bại của họ là thất bại tất yếu vì họ là một lực lƣợng xã hội thuộc về quá khứ. Do đó, không nên giải thích sự thất bại của phong trào xã hội bằng lý do cá nhân mà phải giải thích bằng lý do lịch sử. Phong trào khởi nghĩa của Franx Von Xickinggen không liên minh với nông dân và thành thị tức là những giai cấp mà sự phát triển của chúng có nghĩa là phủ định tầng lớp hiệp sĩ. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của Xickinggen chỉ là cuộc đấu tranh duy trì đặc quyền đặc lợi. Cho nên, dẫu có muốn thì họ cũng không thể nào liên minh đƣợc với nhân dân và thành thị. Mác và Ănghen chỉ ra: Muốn phản ánh trung thực lịch sử, phải phản ánh phong trào nhân dân đang lên lúc này. Nhƣ vậy, chủ nghĩa hiện thực không cho phép nhà văn nhận thức đời sống, lý giải lịch sử theo lôgic chủ quan mà phải lý giải theo lôgic của hiện thực khách quan. Hiện thực cuộc sống đƣợc nhà văn thể hiện qua tính cách, hình tƣợng con ngƣời. Con ngƣời đƣợc tái hiện trong mối quan hệ với hoàn cảnh xã hội, bản chất giai cấp, bản chất thời đại… và chủ nghĩa hiện thực yêu cầu nhà văn phải tôn trọng lôgic phát triển nội tại của tính cách. Mác và Ănghen đều cho rằng, nhà văn không đƣợc biến nhân vật thành con rối, không đƣợc đẽo phạt nhân vật theo ý muốn chủ quan. Yêu cầu này đƣợc thể hiện tập trung trong Gia đình thần thánh, nhất là ở chƣơng phê phán tiểu thuyết Bí mật thành Pari (ƠgienXuy). Đƣơng thời, một số nhà duy tâm, cụ thể là nhóm Hêghen trẻ rất 13 hoan nghênh cuốn tiểu thuyết này của ƠgienXuy. Mác đã phê phán Xêliga khi ông ta quá đề cao tiểu thuyết Bí mật thành Pari. Tác giả cuốn tiểu thuyết đã biến một cô gái điếm, một tên giết ngƣời thành một bà hoàng và một ngƣời từ thiện. Mác chỉ ra rằng, ở đây, tác giả đã thoát li sự thật đời sống. Vì muốn điều hoà giai cấp nên tác giả đã sáng tạo những nhân vật không có sinh khí và hết sức giả tạo. Những nhân vật trong tiểu thuyết bị biến thành những con rối, hoàn toàn chịu sự chỉ huy bởi ý đồ chủ quan của tác giả. Mác đòi hỏi phải thể hiện nhân vật nhƣ bản chất của nó, nghĩa là phải tôn trọng lôgic phát triển nội tại của tính cách. Cuối cùng, phản ánh cuộc sống một cách chính xác, khách quan còn có nghĩa là phải triệt để tôn trọng nguyên tắc để cho khuynh hƣớng toát lên từ bản thân hình tƣợng, tình thế và hành động. Yêu cầu này đƣợc thể hiện tập trung trong thƣ của Ănghen gửi cho Mina Cauxki. Vào những năm 1880, ở Đức xuất hiện loại tiểu thuyết khuynh hƣớng. Loại tiểu thuyết này chịu ảnh hƣởng của chủ nghĩa Mác, nhƣng không thoát khỏi chủ nghĩa cải lƣơng, vì thế không thể phản ánh đƣợc bản chất xã hội. Ănghen không loại trừ tiểu thuyết có tính khuynh hƣớng “tôi tuyệt đối không chống lại loại thơ mang tính khuynh hƣớng. ông tổ của bi kịch Etsinlơ và ông tổ của hài kịch là Aritxtôphan, cả hai đều là những nhà thơ rất mang tính khuynh hƣớng, Đăngtơ và Xecvantex cũng thế, và ƣu điểm của vở kịch âm mưu và tình yêu của Sile chính là ở chỗ nó là vở kịch có khuynh hƣớng chính trị đầu tiên ở Đức. Các nhà văn Nga và các nhà văn Nauy hiện đại, những ngƣời viết những quyển tiểu thuyết rất hay đều là những ngƣời mang tính khuynh hƣớng” [2, 381]. Nhƣng vấn đề là khuynh hƣớng phải thể hiện ra nhƣ thế nào? Ănghen viết tiếp: “Tôi cho rằng bản thân khuynh hƣớng phải toát ra từ tình thế và hành động, chứ không nên nhấn mạnh nó một cách đặc biệt, và nhà văn không bắt buộc phải đƣa ra trƣớc ngƣời đọc sẵn sàng đâu đấy giải pháp lịch 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan