Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn nguyễn quang sáng...

Tài liệu Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn nguyễn quang sáng

.DOC
89
499
68

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: 1.1. Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Ở đó, tài năng, cảm xúc của người nghệ sĩ được thăng hoa. Tác phẩm của họ là kết quả của cả một quá trình “lao tâm khổ tứ”, là đứa con tinh thần mà nhà văn đã “thai nghén” . Điều đặc biệt và thú vị là cùng phản ánh cuộc sống nhưng tác phẩm văn học lại có muôn màu muôn vẻ, với những phương thức phản ánh khác nhau. Và tự sự là một trong những phương thức biểu đạt thông dụng mà văn học chọn dùng để phản ánh cuộc sống, nó là “ phương thức chủ yếu để con người hiểu biết sự vật” (Jonathan Culler). Trong tự sự, vai trò của người trần thuật rất quan trọng vì “ kỹ thuật” trần thuật là một trong những yếu tố hình thức lôi cuốn độc giả. Do vậy, gần đây hiện tượng gây sự chú ý thu hút của các nhà văn cũng như các nhà nghiên cứu phê bình là ở vấn đề cách kể như thế nào hơn là kể cái gì. Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nguyễn Quang Sáng có những đóng góp đáng kể. Những tác phẩm truyện ngắn của ông gây được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, làm phong phú thêm bức tranh truyện ngắn Nam Bộ nói riêng, truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói chung. Tìm hiểu truyện ngắn của ông, ta có thể hiểu thêm về cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, hiểu thêm về bản sắc con người Nam Bộ và con người Việt Nam. Vì thế, nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng nói chung, nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng nói riêng sẽ giúp chúng ta hiểu hơn bức tranh truyện ngắn Nam Bộ và truyện ngắn Việt Nam cả trước và sau 1975. 1.2. Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn có cá tính sáng tạo độc đáo. Trong dàn đồng ca của văn xuôi sử thi thời kỳ chống Mỹ, Nguyễn Quang Sáng vẫn có cách viết riêng của mình. Sau 1975, ông vẫn tiếp tục sáng tác và có những tác phẩm thành công. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của nhà văn, chúng ta sẽ hiểu hơn cá tính sáng tạo, tài năng, phong cách của một cây bút văn xuôi khá nổi tiếng trên văn đàn. Tài năng nhà văn, như chúng ta biết, không chỉ thể hiện ở việc anh ta kể cái gì mà quan trọng hơn là kể như thế nào. Hướng nghiên cứu về trần thuật sẽ là cơ hội để người viết tiến hành tìm hiểu các yếu tố nghệ thuật làm nên tài năng sáng tạo của Nguyễn Quang Sáng trên tinh thần khoa học. 1 1.3. Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông với tác phẩm Chiếc lược ngà,Quán rượu người câm. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của nhà văn sẽ góp phần giảng dạy tốt hơn thể loại truyện ngắn nói chung, truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng nói riêng. Từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng” làm đề tài nghiên cứu luận văn. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu: Nguyễn Quang Sáng là tác giả của khá nhiều tác phẩm được bạn đọc yêu thích. Vì thế, văn nghiệp của ông thu hút sự quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu của đông đảo bạn đọc. Đã có nhiều nhà văn, nhà phê bình quan tâm đến tác phẩm của ông như: Trần Hữu Tá, Nguyễn Lộc, Hoàng Trung Thông, Tô Hoài, Nguyễn Nghiệp, Vân Thanh, Bùi Việt Thắng, Trần Đăng Khoa, Ngô Quốc Trung, Vũ Tú Nam, Phan Hoàng, . . . thể hiện qua các bài phê bình, lời giới thiệu, một số cuộc phỏng vấn...được đăng trên các tạp chí, tập san, các tuyển tập, các trang web uy tín. Trong khuôn khổ đề tài , chúng tôi chỉ xin đề cập đến những ý kiến có liên quan đến nghệ thuật trần thuật của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Nghệ thuật trần thuật là nghệ thuật kể, là cách trình bày các sự kiện, tình tiết, biến cố . . ., là thủ thuật phối xen kể - tả của nhà văn. Để trần thuật đạt hiệu quả nghệ thuật cao, nhà văn phải chọn điểm nhìn để kể, chọn nhịp điệu kể, giọng điệu kể, ngôn ngữ kể sao cho hấp dẫn thu hút độc giả. Vì vậy tìm hiểu nghệ thuật trần thuật là tìm hiểu cách nhà văn tổ chức điểm nhìn nào để kể, cách chọn tốc độ nhịp điệu trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ để trần thuật như thế nào. Sau đây là một số ý kiến nhận xét có liên quan đến các phương diện trên. 2.1. Một số ý kiến về cách tổ chức điểm nhìn trần thuật của Nguyễn Quang Sáng Tuy chưa gọi là đúng khái niệm điểm nhìn trần thuật nhưng một số ý kiến cũng đã đề cập đến phương diện này, dù ở những mức độ khác nhau. Phạm Văn Sỹ trong cuốn Văn học giải phóng miền Nam (1979) khẳng định: “Nguyễn Quang Sáng được chú ý hơn hết với những truyện ngắn viết về cuộc sống của người dân Nam Bộ trong chiến tranh. Đó là những bức tranh khác nhau thể hiện những vẻ đẹp khác nhau của dân thường, người cán bộ cơ sở, người chiến sĩ giải phóng. Tác giả tỏ ra nhạy cảm trong việc 2 nắm bắt những sự kiện tiêu biểu, tinh tế trong việc khai thác tính cách của con người Nam Bộ”[57,32]. Vân Thanh trong bài Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng cho rằng: Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng tuy đậm tính kịch nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình. Truyện ngắn của anh đi vào từng mảng nhỏ của đời sống, làm cho ta thấy sự kết hợp giữa chất anh hùng cao cả và chất thơ trong trẻo, đơn giản ( ... ) Nguyễn Sáng không có tham gia bình phẩm nhưng xúc động của người viết thường vẫn không giấu được ...”[60,81]. Trong Chân dung và đối thoại, Trần Đăng khoa đã phác hoạ “chân dung” Nguyễn Quang Sáng: “ ...Đọc Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao tôi cứ hình dung nhà văn có nét gì đó na ná giống anh Bảy Ngàn ( ... ). Con người ấy hình như vừa đơn giản, sơ lược, lại vừa phức tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của quê hương Nam Bộ, do thiên nhiên chắt ra, bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ưa ngạnh như vách đá ( ... ). Văn Nguyễn Quang Sáng nó tự nhiên, phóng túng, ngang tàng, pha một chút vui vui, tếu tếu, là cái hóm, cái duyên riêng của người Nam Bộ, cũng là nét đặc sắc Nguyễn Quang Sáng, là đóng góp riêng của ông vào nền văn học. Nếu nói mỗi nhà văn phải trả cho được “món nợ đời” thì Nguyễn Quang Sáng xem như không còn “mắc nợ” nữa. “Nguyễn Quang Sáng ( ... ) là một cây bút truyện ngắn lão luyện. Cái tài của Nguyễn Quang Sáng là ở khả năng dựng truyện, ở kết cấu độc đáo, ở lối kể hấp dẫn, Nguyễn Quang Sáng là cây bút truyện ngắn có ma lực, gây được ấn tượng”[19,287]. Nhà thơ Hoàng Trung Thông ở bài Chờ đợi những mùa gió chướng (2002) có nhận xét: “ Những nhân vật trong truyện ngắn của anh không còn những dáng dấp cũ nhưng qua khuôn mặt của họ ta vẫn nhận ra như chính anh đã nhận ra”[71]. 2.2. Một số ý kiến nhận xét về giọng điệu trần thuật của Nguyễn Quang Sáng Trong lời tựa 25 truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng (1989), Trịnh Công Sơn viết: “ Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một thực tế có thể chạm đến được và từ đó có quyền yêu thích hoặc không. Tôi quen anh từ sau ngày đất nước thống nhất, người ta có thể yêu văn phong người này và khước từ một lối hành văn khác. Tôi là kẻ yêu loại văn chương tráng lệ. Ở Nguyễn Quang Sáng khó tìm ra cái thủ pháp đầy quyến rũ của chữ nghĩa. Người ta đã nói và nhắc lại nhiều lần trên sách báo: Văn là người. Trường hợp này rơi xuống đúng đời văn – đời người của Nguyễn Quang Sáng. Nói như thế nào, nghĩ như thế nào và sồng như thế nào thì 3 viết như thế ấy. Mặc dù, phải xa đến mấy mươi năm dòng sông Cửu Long mạnh khỏe, đỏ rực phù sa, nhưng trong văn chương của anh vẫn là văn chương của kẻ tha thẩn trên những dòng sông Nam Bộ . Nếu tôi không nhầm lẫn quá thì hình như địa lí của mỗi miền thường ảnh hưởng, thậm chí quy định độ bền, chiều sâu, độ dài của tác phẩm mỗi người làm văn học. Miền Nam theo tôi, ít người viết truyện ngắn. Chín con rồng đầy đủ phù sa như thế làm sao mà thu gọn súc tích trong vài trang viết cho được. Nguyễn Quang Sáng là kẻ muốn đánh lạc mình ra ngoài địa lí và ở ngoài không gian qui định để làm người kể chuyện mộc mạc mà tinh tế những chuyện mình và chuyện đời như một quà tặng gọn ghẽ chuyển đến cho mọi người một cách thầm lặng”. Tác giả Bùi Việt Thắng trong bài viết Còn lại tình yêu (2000) nhận định về truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng : “ Cái chất Nam Bộ thể hiện rõ trong văn của ông, nó được thể hiện bằng một lối viết phóng khoáng thể hiện qua từng lời nói nhân vật, chất Nam Bộ trong Nguyễn Quang Sáng còn là cái tình của nhà văn đối với quê hương”. Với bài viết Vài phút với Nguyễn Quang Sáng (2000), nhà văn Trần Đăng Khoa cho rằng: “ Trong hơi văn của Nguyễn Quang Sáng nó sục lên mùi vị của sông nước Tháp Mười , cả cái chất đậm đặc không thể trộn lẫn”. Như vậy, về phương diện nội dung, ý nghĩa xã hội của truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, hầu như các ý kiến đều khẳng định đóng góp của Nguyễn Quang Sáng “cách kể chuyện” trong tác phẩm. “Cách kể chuyện” được thể hiện ở trang viết về tính cách và tâm hồn con người miền Nam trong chiến tranh cùng dấu ấn văn hóa đặc sắc của vùng Nam Bộ . 2.3 Một số ý kiến về ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng Trần Hữu Tá sau khi đọc truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng đã nhận xét: “Nguyễn Quang Sáng có một phong cách viết truyện ngắn độc đáo. Truyện thường lắm tình huống bất ngờ, ngẫu nhiên nhưng tự nhiên, giàu chi tiết sống động và kỳ diệu nhưng hợp lý, tính kịch rất nỗi nhưng cũng đậm đà chất trữ tình”. Vân Thanh trong bài Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng cho rằng: “Nguyễn Quang Sáng vốn là cây bút khéo sử dụng các yếu tố ngẫu nhiên, nhưng đó là cái ngẫu nhiên tự nhiên, có thể xảy ra, đóng vai trò là chất xúc tác thật sự đẩy các tình huống phát triển ( ... ). Truyện 4 ngắn Nguyễn Quang sáng tuy đậm tính kịch nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình. Truyện ngắn của anh đi vào từng mảng nhỏ của đời sống, làm cho ta thấy sự kết hợp giữa chất anh hùng cao cả và chất thơ trong trẻo, đơn giản. Trong Chân dung và đối thoại, Trần Đăng khoa đã phác hoạ “chân dung” Nguyễn Quang Sáng: “ ...Đọc Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao tôi cứ hình dung nhà văn có nét gì đó na ná giống anh Bảy Ngàn ( ... ). Con người ấy hình như vừa đơn giản, sơ lược, lại vừa phức tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của quê hương Nam Bộ, do thiên nhiên chắt ra, bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ưa ngạnh như vách đá ( ... ). Văn Nguyễn Quang Sáng nó tự nhiên, phóng túng, ngang tàng, pha một chút vui vui, tếu tếu, là cái hóm, cái duyên riêng của người Nam Bộ, cũng là nét đặc sắc Nguyễn Quang Sáng, là đóng góp riêng của ông vào nền văn học. Nếu nói mỗi nhà văn phải trả cho được “món nợ đời” thì Nguyễn Quang Sáng xem như không còn “mắc nợ” nữa. “Nguyễn Quang Sáng ( ... ) là một cây bút truyện ngắn lão luyện. Cái tài của Nguyễn Quang Sáng là ở khả năng dựng truyện, ở kết cấu độc đáo, ở lối kể hấp dẫn, Nguyễn Quang Sáng là cây bút truyện ngắn có ma lực, gây được ấn tượng”. Cũng trong Chân dung và đối thoại, Trần Đăng Khoa giới thiệu lời nhận xét của nhà văn Vũ Tú Nam sau khi trao giải thưởng văn học năm 1993 cho nhà văn Nguyễn Quang Sáng như sau: “Anh ấy (Nguyễn Quang Sáng) có lối viết tự nhiên, viết như nói. Không phải dễ viết được như thế. Hơn nữa, Nguyễn Quang Sáng có giọng Nam Bộ khá nhuần nhụy. Anh rất am hiểu đời sống, viết lại điềm tĩnh, không nóng đầu. Trong thời điểm hiện nay việc trao giải thưởng cho anh Sáng cũng là khuyến khích cách viết điềm tĩnh, không quá khích, không đẩy tới, cường điệu thành nặng nề, u tối”. Tô Hoài sau khi đọc truyện ngắn Vểnh râu của Nguyễn Quang Sáng đã nhận xét: “lần này đọc của Sáng tôi thấy đã nhuần lắm cái cốt cách văn phong một trung tâm – miền Nam là trung tâm, mà trong văn không có cái nhàn nhạt chữ nghĩa dùng cho miền nào cũng được”. Tác giả Phạm Văn Sỹ trong bài viết Truyện ngắn miền Nam (1979) nhận xét: “ Truyện ngắn của anh có nhiều nhân tố tích cực đáng chú ý. Anh vận dụng rất khéo léo những xung đột mang tính thẫm mỹ. Những xung đột đó làm tăng không ít sự hấp dẫn của truyện ngắn ”. 5 Phan Hoàng trong bài Những dấu ấn trên bước đường văn học đã viết: “Nguyễn Quang Sáng là người kể chuyện bẩm sinh. Giọng kể hồn hậu, mộc mạc, tự nhiên, lôi cuốn như mảnh đất Nam Bộ quê hương ròng ròng sự kiện, chất chứa nhiều bí ẩn”. Trong một cuộc phỏng vấn Nguyễn Quang Sáng (3/10/1997) do Phan Hoàng thực hiện: “...Phan Hoàng: Trở về với cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, nó có một số phận ra sao? Nguyễn Quang Sáng: Năm 1954, tập kết ra Bắc, tôi mang theo. Đơn vị tôi đóng ở Thanh Hóa. Đây là thời điểm tôi thực sự bắt đầu tiếp xúc với văn học. Tôi đọc như người bị đói sách. Tôi được đọc qua các tác phẩm Người mẹ của Gorki, Thép đã tôi thế đấy của Ôxtrôpki cùng truyện của Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Tô Hoài ... đọc của các bậc đàn anh, tôi thấy tiểu thuyết của mình quá dỡ, chưa thể trở thành một tác phẩm văn học. Nhìn lại 300 trang viết tay chỉ mới là tư liệu, chưa phải là văn. Phan Hoàng: Chính vì vậy, anh chuyển sang “thử mình” bằng thể loại truyện ngắn! Nguyễn Quang Sáng: Đúng vậy! Tôi quyết định viết truyện ngắn để luyện tay nghề, sau đó sẽ sửa chữa lại cuốn tiểu thuyết. Lúc đó, tôi đang là vô địch bóng bàn của sư đoàn, được cấp trên gợi ý đưa ra Hà Nội đào tạo vận động viên, do Tổng cục Thể dục thể thao tuyển chọn. Mới ra miền Bắc, nằm ở một làng quê Thanh Hóa, người nào mà không muốn ra Hà Nội. Nhưng tôi không đi, quyết ở lại để viết văn. Đến năm 1955, tôi chuyển ngành với cấp bậc chuẩn úy về làm biên tập văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam. Ra Hà Nội, tôi nghĩ muốn sửa cuốn tiểu thuyết đòi hỏi phải có thời gian tập trung và cần có sự ủng hộ của Hội nhà văn, mới viết được. Hội viên nhà văn bây giờ, mỗi năm được nghỉ ba tháng để đi viết. Tôi bắt tay viết truyện ngắn đầu tiên Con chim vàng để “trình làng” với làng văn Hà Nội. Phan Hoàng: Nghĩa là tác phẩm đầu tiên của anh là một tiểu thuyết, còn tác phẩm ra mắt đầu tiên là truyện ngắn. Vâng, có thể nói Con chim vàng là một trong những truyện ngắn hay nhất của anh. Nó hấp dẫn bạn đọc không chỉ ở bố cục, mà còn bằng hình ảnh buồn và gợi cảm xuyên suốt như một tứ thơ. Nguyễn Quang Sáng: Tôi nhớ khi Con chim vàng vừa xuất hiện trên báo Văn nghệ, nhiều người nói rằng đây là cây bút viết được truyện ngắn. Nó được dịch ra ngay bản tiếng Pháp. Bấy giờ, đang thời kỳ cải cách ruộng đất, đề tài văn học chủ yếu là người nông dân; và 6 tôi hướng đề tài ấy về đề tài thiếu nhi. Hưng phấn, tôi tiếp đà “ quất” luôn một loạt truyện ngắn, mà năm 1958 được gom lại in thành tập Người quê hương”. Tác giả Bùi Việt Thắng với bài viết Còn lại tình yêu (2000) đã nói về cốt truyện: “ Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng viết trước năm 1975 trong đó cốt truyện tiêu biểu, hấp dẫn, chi tiết chọn lọc, tình huống đặc sắc và kịch tính cao. Trong những truyện ngắn như thế làm gia tăng yếu tố bất ngờ của tác phẩm ”. Phan Đắc Lập qua lời giới thiệu Nguyễn Quang Sáng tuyển tập (2001) nhận xét về truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng: “ Dù viết về đề tài chiến tranh hay chuyện đời thường, phần lớn các tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng đều hấp dẫn. Sự hấp dẫn do nhiều yếu tố: chủ đề, bố cục, chi tiết, . . . nhưng trước hết tác phẩm của anh là giàu kịch tính”[20]. Như vậy, bài viết của nhiều tác giả đã đánh giá về truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng ở mặt nội dung phản ánh và hình thức biểu hiện, tuy khai thác ở nhiều phương diện khác nhau nhưng đều có tiếng nói chung khi khẳng định nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng là nghệ thuật tạo tình huống, chi tiết đặc sắc và cốt truyện hấp dẫn đầy yếu tố bất ngờ . . . Chính vì điều đó, một số tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng rất thành công khi chuyển sang kịch bản điện ảnh, và dĩ nhiên Nguyễn Quang Sáng trở thành một cây bút viết kịch bản phim có tài. 2.4. Dựa vào những công trình nghiên cứu trên, có thể nhận thấy: giới phê bình, người nghiên cứu tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng chủ yếu đi sâu vào xung đột nghệ thuật, thế giới nhân vật, đặc điểm thi pháp… Riêng nghệ thuật trần thuật cũng đươc chú ý đến nhưng chỉ dừng lại ở việc nêu ý kiến, đánh giá mà chưa nghiên cứu một cách hệ thống. Chưa có một công trình chuyên biệt nào đi sâu, tập trung nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Trên cơ sở kế thừa các công trình của những người đi trước, Luận văn đặt vấn đề nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng với cái nhìn khách quan, khoa học, hệ thống, đầy đủ hơn, nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm những giá trị, những đóng góp riêng của nhà văn đậm chất Nam Bộ này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu 7 Luận văn chọn nghệ thuật trần thuật trong các tác phẩm truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng làm đối tượng nghiên cứu. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Nguyễn Quang Sáng đã xuất bản rất nhiều tập tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, bút ký, kịch bản phim. Gần đây nhất Nguyễn Quang Sáng đã cho in bút ký Nhà văn về làng do Nxb Văn nghệ ấn hành. Do tính chất và yêu cầu của vấn đề nghiên cứu chúng tôi chủ yếu tập trung khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng , những thể loại khác sẽ tham khảo khi cần thiết. Văn bản khảo sát là : Nguyễn Quang Sáng tuyển tập (Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh - 2001) 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn khảo sát nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng để khẳng định một cá tính, một tài năng văn chương mang đậm dấu ấn Nam Bộ. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.2.1. Khảo sát về sự nghiệp sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng, chúng tôi muốn có một cái nhìn bao quát về sáng tác Nguyễn Quang Sáng để có cơ sở khẳng định đúng vai trò, vị trí nhà văn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. 4.2.2. Phát hiện ra các phương thức trần thuật cơ bản của nhà văn ở các phương diện: cách chọn góc nhìn với điểm nhìn trần thuật, các nhịp điệu trần thuật để thấy được mô hình trần thuật tiêu biểu của Nguyễn Quang Sáng. 4.2.3. Tìm hiểu giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật để tìm ra các yếu tố cơ bản làm nên nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp 8 Nghệ thuật trần thuật là hình thức nghệ thuật, nó bao gồm nhiều vấn đề. Vì vậy chúng tôi tiến hành phân tích từng phương diện của trần thuật qua những tác phẩm cụ thể nhằm làm sáng tỏ vấn đề. 5.2. Phương pháp phân loại - thống kê Chúng tôi tiến hành khảo sát tất cả các sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng trước và sau năm 1975, tìm hiểu, phân loại và thống kê các phương thức trần thuật, các nhịp điệu, các giọng điệu cơ bản, các kiểu câu, các từ loại thường dùng của nhà văn . . . để có cơ sở đánh giá nghệ thuật trần thuật của nhà văn. 5.3. Phương pháp cấu trúc – hệ thống Do nghệ thuật trần thuật cũng là yếu tố phụ thuộc về cấu trúc của văn bản tự sự, nên chúng tôi khảo sát các dạng thức trần thuật của một số tác phẩm tiêu biểu để có cái nhìn bao quát và hệ thống được cấu trúc cơ bản góp phần làm nên “ kĩ thuật ” trần thuật của nhà văn. 5.4. Phương pháp so sánh – đối chiếu Phương pháp này đặt truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trong hệ thống sáng tác chung của nhà văn. Đồng thời đặt nó bên cạnh truyện ngắn của một số tác giả khác cùng thời để khẳng định nét độc đáo trong cách trần thuật Nguyễn Quang Sáng. 6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn 6.1. Đóng góp của luận văn Lần đầu tiên, nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng được khảo sát, tìm hiểu một cách tương đối có hệ thống. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho việc dạy - học tác giả Nguyễn Quang Sáng trong nhà trường. 6.2. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Khái quát sự nghiệp sáng tác và vị trí truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trong bức tranh truyện ngắn Việt Nam hiện đại Chương 2. Điểm nhìn và nhịp điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng 9 Chương 3. Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng Chương 1 KHÁI QUÁT SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ VỊ TRÍ CỦA TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG SÁNG TRONG BỨC TRANH TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Quang Sáng 1.1.1. Vài nét về cuộc đời Nguyễn Quang Sáng Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng, sinh ngày 13.01.1932. Quê ở làng Mỹ Luông, Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang). Ông sinh trong một gia đình thợ thủ công, cha làm nghề thợ bạc. Là người con của An Giang - mảnh đất sinh ra nhiều tài năng như: Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, nhà cách mạng Ung Văn Khiêm, cố Bộ trưởng bộ Y tế Nguyễn Văn Hưởng và nhiều tài năng văn nghệ như Anh Đức, Hoàng Hiệp, Nguyễn Đăng Bạch, . . . Nguyễn Quang Sáng đã được thừa hưởng nhiều nguồn văn hóa dân gian Việt - Hoa - Khmer - Chăm, thừa hưởng cả một kho tàng văn học, văn nghệ dân gian phong phú, đó là các truyện dân gian phản ánh quá trình khai phá đất đai, gắn liền với những danh thắng, di tích và nhân vật lịch sử; đó là kho tàng ca dao và dân ca với các điệu hò, điệu lý v.v . . . Đặc biệt, hát vọng cổ và đờn ca tài tử được người Nam Bộ rất ưa thích. Đờn ca tài tử phát sinh từ Gia Định rồi lan đến các tỉnh miền Tây, là một trong những cội nguồn của nghệ thuật cải lương – loại hình sân khấu mới ra đời ở Nam Bộ vào đầu thế kỷ XX. Người Khmer Nam Bộ cũng có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú bao gồm nhiều thể loại như truyện cổ tích (rương prêng), thần thoại (rương boran), tục ngữ (sopheaset) . . .Bên cạnh đó, là người con Nam Bộ, nhà văn Nguyễn Quang 10 Sáng rất đỗi quen thuộc với văn hóa ẩm thực của từng tộc người (cơm – canh – rau, mắm cá lóc, mắm cá sặc, mắm cá linh, mắm còng, mắm ruốc, mắm nêm . . .), trang phục (trang phục thường ngày của người Nam Bộ đặc biệt là người An Giang là lãnh Mỹ A của Tân Châu, là áo bà ba, quấn khăn rằn), các phương tiện đi lại (xe bò, xe ngựa, xe lôi đạp, xuồng ba lá, ghe tam bản, ghe đục, ghe lường, tàu, bè ), nhà ở (nhà đất cất dọc theo ven lộ, nhà sàn cất dọc theo kinh rạch, và nhà nổi trên sông nước... ) mang đậm sắc thái văn hóa Nam Bộ, từ đó ông thể hiện vào tác phẩm của mình. Từ tháng 4.1946, vùng đất Nam Bộ đang trong cuộc chiến ác liệt chống thực dân Pháp, Nguyễn Quang Sáng xung phong vào bộ đội (14 tuổi), làm liên lạc viên cho đơn vị Liên chi 2. Đến năn 1948 được bộ đội cho đi học thêm văn hóa – trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Năm 1950, về công tác tại phòng chính trị Bộ tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ, làm cán bộ nghiên cứu tôn giáo (chủ yếu là Phật giáo Hòa Hảo). Năm 1955, theo đơn vị tập kết ra Bắc, chuyển ngành với cấp bậc chuẩn úy, về làm cán bộ phòng văn nghệ Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Từ năm 1958, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, làm biên tập viên Tuần báo Văn nghệ biên tập nhà xuất bản, cán bộ sáng tác. Năm 1966 vào chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm 1972 trở ra Hà Nội, tiếp tục làm việc ở Hội Nhà văn. Sau ngày giải phóng (4.1975) trở lại Thành phố Hồ Chí Minh giữ chức Tổng thư kí Hội Nhà văn thành phố khóa 1, khóa 2 và khóa 3, Phó Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV. Hiện nay, sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. 1.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Quang Sáng Nguyễn Quang Sáng có một sự nghiệp văn học đáng tự hào. Ông viết nhiều thể loại khác nhau. Về văn xuôi: Con chim vàng (truyện ngắn, 1957); Người quê hương (truyện ngắn, 1958); Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1962); Đất lửa (tiểu thuyết, 1962); Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966); Chiếc lược ngà (truyện ngắn, 1968); Bông cẩm thạch (truyện ngắn, 1969); Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975); Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975); Người con đi xa (truyện ngắn, 1977); Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985); Bàn thờ tổ của một cô đào (truyện ngắn, 1985); Tôi thích làm vua (truyện ngắn, 1988); 25 truyện ngắn (1990); Paris- tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990); Con mèo Foujita (truyện ngắn, 1991). 11 Về kịch bản phim: Mùa gió chướng (1977); Cánh đồng hoang (1978); Pho tượng (1981); Cho đến bao giờ (1982); Mùa nước nổi (1986); Dòng sông hát (1988); Câu nói dối đầu tiên (1988); Thời thơ ấu (1995); Gữa dòng (1995); Như một huyền thoại (1995). Nguyễn Quang Sáng vinh dự nhận được nhiều giải thưởng văn học: Ông Năm Hạng – truyện ngắn, giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Thống Nhất (1959); Tư Quắn – truyện ngắn, giải thưởng cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ Quân Đội (1959); Dòng sông thơ ấu – tiểu thuyết, giải thưởng Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn (1985); Con mèo Foujita – tập truyện ngắn, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1993); Cánh đồng hoang (kịch bản phim) bộ phim được tặng Huy chương vàng tại Liên hoan phim Matxcơva (1981); Mùa gió chướng (kịch bản phim), huy chương bạc Liên hoan phim toàn quốc (Hà Nội, 1980). Nhìn chung, sự nghiệp sáng tác văn học của Nguyễn Quang Sáng đạt nhiều thành tựu phong phú. Có thể thấy lý tưởng và nội dung yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội là đặc điểm nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Sáng tác của Nguyễn Quang Sáng dù ở thể loại nào cũng mang tính nhân dân sâu sắc, mang đậm hơi thở của cuộc chiến đấu chống Mỹ, thể hiện rõ lòng cảm thương và tôn trọng nhân dân. Ông xứng đáng là nhà văn lớn, có đóng góp xuất sắc cho nền văn học Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX. 1.2 . Vị trí truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trong bức tranh truyện ngắn Việt Nam hiện đại So với mảng truyện viết về kháng chiến chống Pháp, mảng truyện viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc (1955-1975) đã nhiều lên về số lượng. Truyện ngắn viết về đời sống chiến đấu những năm chống Mỹ hẳn nói lên một bước thay đổi của thể loại trên một đề tài rộng lớn và có ý nghĩa. Ít nhất có thể nói đến một nửa số truyện này thuộc loại hay. Cuộc chiến đấu chống Mỹ ác liệt, gian khổ và anh hùng ở hai miền đất nước những năm ấy được thể hiện có nghệ thuật trong một loạt truyện ngắn của Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Chí Trung, Triệu Bôn, Đỗ Chu, Dương Thị Xuân Quý, Phan Tứ. . . Hình thức của truyện ngắn hiện đại càng ngày càng trở nên phong phú, đa dạng hơn. Trong khi vẫn giữ được truyền thống truyện ngắn có cốt truyện, hiện nay truyện ngắn mở ra nhiều hướng phát triển mới để tiếp cận đời sống. Có một kiểu truyện ngắn – luận đề phù hợp với một thời kỳ lịch sử nhiều biến động và xã hội phát triển ngày càng phong phú, phức tạp. (Tính chất luận đề của kiểu truyện này nổi lên như nét chủ đạo trong các truyện ngắn của Trần 12 Đăng, Nam Cao, Nguyễn Khải, Phan Tứ); lại có kiểu truyện ngắn – trữ tình mà nền tảng của nó chính là chất thơ của đời sống, chất thơ của tình người. Nhiều nhà văn trẻ đã vận dụng thành công kiểu truyện này (các truyện ngắn của Đỗ Chu, Lý Biên Cương, Nhật Tuấn).Nhưng trội lên vẫn là những nhà văn thiên về kiểu truyện ngắn có cốt truyện hoàn chỉnh, xoáy sâu vào tâm lý nhân vật và tạo tính kịch cho tác phẩm (các truyện ngắn của Anh Đức, Nguyễn Sáng, Nguyễn Minh Châu, Triệu Bôn. . .). Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1955-1975) nhân dân cả nước cùng thực hiện hai nhiệm vụ: chiến đấu và xây dựng. Sự đa dạng ấy không cho phép truyện ngắn tự gò vào một khuôn khổ nào. Chính vì vậy, Nguyễn Quang Sáng không tự gò mình vào một khuôn khổ nào, ông luôn luôn tìm tòi và đổi mới. Trong lúc đang chờ đợi Nguyễn Quang Sáng toàn tập, hiện nay chúng ta mới chỉ có Tuyển tập Nguyễn Quang Sáng hơn 900 trang in với 27 truyện ngắn chọn lọc và toàn văn hai tiểu thuyết: Đất lửa (1963), Dòng sông thơ ấu (1985). Với hơn 50 năm cầm bút, chừng ấy cũng đủ làm vinh dự cho một nhà văn. Truyện ngắn là cái “tạng”, là sở trường của nhà văn này. Có lẽ, phải là người lịch lãm, từng trải và dễ xúc động mới thích đọc Nguyễn Quang Sáng. Dường như ông tựa hẳn vào tình cảm để viết. Vì thế mà ông đắm đuối với câu chuyện, với nhân vật, nhập thân vào đó – cái nét này người đọc dễ nhận ra trong Ông Năm Hạng, Chiếc lược ngà, Chị xã đội trưởng, Bông cẩm thạch, Người dì tên Đợi, Tím bằng lăng . . . Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng viết trước 1975, cốt truyện thường hấp dẫn, chi tiết chọn lọc, tình huống đặc sắc và kịch tính cao. Trong những truyện ngắn như thế, tác giả đã biết dồn nén tình thế làm gia tăng yếu tố bất ngờ hấp dẫn của tác phẩm. Chị xã đội trưởng là một trường hợp tiêu biểu của lối viết này. Nhân vật chính là Dung – nữ xã đội trưởng dũng cảm và xinh đẹp đã bày đặt ra chuyện rắc rối để thử thách người yêu của mình. ‘Sống trong cuộc sống chiến đấu đầy bom đạn, chẳng biết lúc nào mình bị hy sinh, bị tàn tật, nhưng điều đó không ám ảnh chị. Chị vẫn sống một cách bình thường, vẫn yêu, yêu một cách rắc rối và hồn nhiên như vậy đó – và đó là sức mạnh của chị”. Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng trước 1975, như người ta nói “ròng ròng sự sống”, một sự sống đa dạng lắm sắc màu, có tiếng khóc và tiếng cười, có khổ đau và hy vọng. Một cuộc sống biến ảo đầy bất ngờ thú vị. Dường như cái chất sống này tự nhiên như khí trời. Triết lý của nhà văn cũng từ đó mà tự nhiên, nhuần 13 nhị. Khi nghiên cứu bước đường sáng tác của một nhà văn ta thường thấy có hiện tượng: ở một thời điểm nào đó, với những ảnh hưởng và biến đổi nào đó, nhà văn viết khác trước và cái sự khác này tạo ra một bước ngoặt. Nhưng có nhà văn, dù có cố tình “rẽ ngoặt” thì vẫn không được, anh ta phải trở lại chính mình mới được công nhận. Nguyễn Quang Sáng ở vào trường hợp thứ hai. Những truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng viết sau 1975 được chọn vào tuyển tập cho thấy rõ nhận xét trên. Khi ông cố đổi giọng cho có vẻ hợp thời thì người đọc thấy nhàn nhạt – đó là khi đọc những Tôi thích làm vua, Thế võ, Nhân vật ấy không được chết, Cây gậy ba số, Con chim quên tiếng hót... Lối viết như thế phảng phất giọng văn Phạm Duy Tốn và Nguyễn Bá Học hồi đầu thế kỷ - nghĩa là truyện luận đề, có khi chỉ cần đọc nhan đề người ta đã đoán ra toàn bộ câu chuyện. Phải chăng nhận ra thực trạng đó, Nguyễn Quang Sáng đã tìm cách sửa chữa, viết nhiều truyện kiểu như Con mèo của Foujita, Người đàn bà đức hạnh, Tím bằng lăng, Người dì tên Đợi (in trên báo Văn nghệ tháng 6 năm 1996). Ở loạt truyện này, Nguyễn Quang Sáng lại như “phát sóng” trở lại, nghĩa là tung phá hơn nhưng rất linh hoạt, vừa giàu sức sống vừa thấm sâu triết luận, vừa cụ thể sinh động vừa rất gợi mở liên tưởng, thu hút người đọc. 1.3. Vai trò của trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng 1.3.1. Giới thuyết về trần thuật Theo Từ điển thuật ngữ Văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán – Nguyễn Khắc Phi – Trần Đình Sử chủ biên, trần thuật được hiểu “là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả, đối với nhân vật và sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định, vai trò của trần thuật là rất lớn”. Macxim Gorki từng vạch rõ tiểu thuyết hay tự truyện, những con người được tác giả thể hiện hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở bên cạnh họ mách cho người đọc biết rõ phải hiểu họ như thế nào, giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn đằng sau hành động của các nhân vật được miêu tả. Tô đậm thêm cho tâm trạng của họ bằng những đoạn miêu tả thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh và nói chung là luôn giật dây cho họ được thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều khi rất khéo léo mặc dù người đọc không nhận thấy những hành động, những lời lẽ, những việc làm những mối tương quan của họ ” [13,247]. Như vậy có thể thấy thành phần trần thuật trước hết đó là 14 lời thuật, chức năng của nó là kể việc. Tuy nhiên trần thuật còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hòan cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả . . . Về hình thức trần thuật chủ yếu là đối thoại, độc thoại của chủ thể trần thuật với độc giả. Trong tác phẩm tự sự, trần thuật gắn toàn bộ công việc bố cục, kết cấu tác phẩm, trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động, lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để người đọc có thể bình luận theo ý định tác giả. Khi nói đến trần thuật người ta thường hay nói đến cái nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, nhịp điệu trần thuật, bố cục trần thuật, khoảng cách góc độ của người kể đối với cốt truyện tạo thành... Giọng điệu trần thuật chỉ mối quan hệ thái độ của người kể đối với các sự kiện được kể. Bố cục trần thuật hình thành dưới sự triển khai, đan cài, phối hợp, luân phiên các điểm nhìn, có điểm nhìn gần gũi với sự việc, có điểm nhìn cách xa trong không gian và thời gian, có điểm nhìn ngoài, hoặc nhìn xuyên qua nội tâm nhân vật, có cái nhìn nhân vật, sự kiện từ một nền văn hóa khác. Về các kiểu trần thuật, từ thế kỷ XIX trở về trước thịnh hành kiểu trần thuật khách quan do một người trần thuật biết hết sự việc tiến hành kể theo ngôi thứ ba. Sang thế kỷ XX, ngoài lối kể chuyện truyền thống ấy còn thêm kiểu trần thuật ngôi thứ nhất do một nhân vật trong truyện đảm nhiệm. Sự trần thuật có khi biến thành “dòng ý thức’ lời độc thoại nội tâm. “ Trần thuật là phương diện cấu trúc của các tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ chủ thể với khách thể trong loại hình nghệ thuật”[13,248] . Vì vậy khi tìm hiểu tác phẩm tự sự người ta thương chú ý đến trần thuật và cùng miêu tả, trần thuật đóng vai trò không nhỏ trong sự tái hiện thế giới vào tác phẩm văn học. Còn trong Từ điển thuật ngữ văn học bộ mới, các tác giả viết: ” Trần thuật là khái niệm chỉ một bộ phận ngôn bản quan trọng trong tác phẩm văn học tự sự, là thành phần lời của tác giả, của người trần thuật (được đưa vào tác phẩm ít nhiều như một nhân vật) hoặc của một người kể chuyện; tức là toàn bộ văn bản tác phẩm tự sự, ngoại trừ các lời nói trực tiếp của nhân vật (...) Trần thuật bao gồm việc kể và miêu tả các hành động vá các biến cố trong thời gian; mô tả chân dung, hoàn cảnh hành động, tả ngoại cảnh, tả nội thất,...; bàn luận; lời nói bán trực tiếp của các nhân vật. Do vậy trần thuật là phương thức chủ yếu để cấu tạo tác phẩm tự sự” [13, 346]. Từ định nghĩa trên, có thể hiểu thành phần trần thuật trước hết đó là lời thuật với chức năng là kể việc. Ngoài ra, trần thuật còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả ...Còn về 15 hình thức, trần thuật chủ yếu là đối thoại, độc thoại của chủ thể trần thuật với độc giả. Trong tác phẩm tự sự, trần thuật tổ chức, sắp xếp toàn bộ bố cục, kết cấu tác phẩm sao cho hợp lý. Như vậy, trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động, lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để độc giả có thể bình luận theo ý định của tác giả. Theo Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học , trần thuật được hiểu là: “thành phần lời của tác giả - của người trần thuật hoặc của một người kể chuyện . . . Trần thuật bao gồm việc kể và miêu tả các hành động và các biến cố trong thời gian; mô tả chân dung, hoàn cảnh hành động, tả ngoại cảnh, tả nội thất . . .; bàn luận; lời nói bán trực tiếp của các nhân vật. Do vậy trần thuật là phương thức chủ yếu để cấu tạo tác phẩm tự sự. Tính chất của trần thuật có thể tùy thuộc vào điểm nhìn . . . Điểm nhìn có thể phân thành các kiểu sau: 1) – Xét ở bình diện đánh giá, tác giả, là người kể, nhân vật có thể cùng lập trường tư tưởng . . . 2) – Xét về bình diện định tính không gian – thời gian cái được miêu tả liên quan đến tác giả hoặc nhân vật bình giá ở phương diện thời gian và không gian nào . . . 3) – Xét về bình diện cảm nhận của biến cố, sự cảm nhận có thể được xem như chủ quan, nghĩa là tạo dựng một sự cảm nhận của ai đó” [2,324]. Còn tác giả G.N.Pospelov trong Dẫn luận nghiên cứu văn học cho rằng “trần thuật tự sự bao giờ cũng được tiến hành từ phía người nào đó . . . một loại người môi giới giữa các hiện tượng được xảy ra . . . linh hồn của sự trần thuật thường là “vô trọng lượng và vô hình” nhưng đồng thời lời nói của người trần thuật thì không chỉ có tính tạo hình mà còn có ý nghĩa biểu hiện. Lời ấy không chỉ có thấy đặc điểm của khách thể trần thuật mà còn cho thấy cả bản thân người nói” [12,287]. Từ những năm 2000 trở lại đây, trần thuật – một trong những phương diện của tự sự học được các nhà nghiên cứu chú ý nhiều hơn. Trong sách Lý luận văn học tập 2 (2008), Trần Đình Sử đã nói rõ: “Trần thuật là sự tự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định. Trần thuật là sự thể hiện của hình tượng văn học, truyền đạt nó tới người thưởng thức ” [54, 100].Trần thuật là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhất để tạo thành văn bản văn học. “ Về bản chất, trần thuật là hành vi ngôn ngữ nhằm kể, thuật, miêu tả, cung cấp thông tin về sự kiện, nhân vật, theo một thứ tự nhất định trong không gian, thời gian và về ý nghĩa, 16 trần thuật có nhiệm vụ cho người đọc biết ai xuất hiện ở đâu, khi nào, làm gì, trong tình huống nào . . .” [54,100]. Lại Nguyên Ân trong bài viết “Về việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn học Việt Nam” in trong Tự sự học thì xác định: “ Trần thuật trỏ phương thức nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm thuộc loại văn học tự sự ” , “ thực chất của hoạt động trần thuật là kể , là thuật; cái được thuật, được kể trong tác phẩm văn học tự sự là chuyện” [51,147]. Như vậy, trần thuật đòi hỏi phải có người kể, người thổ lộ. Trần thuật phải xử lí mối quan hệ giữa chuỗi lời kể với chuỗi sự kiện và nhân vật. Vì thế, theo Trần Đình Sử, “ có hai yếu tố quyết định trần thuật là người kể và chuỗi ngôn từ. Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật, lời trần thuật, điểm nhìn trần thuật. Từ chuỗi ngôn từ, ta có thể kể đến các yếu tố: lược thuật, dựng cảnh, hồi thuật, dự báo, gây đợi chờ, phân tích bình luận, giọng điệu”. [54,100]. Nói một cách khác, trần thuật là sự phân bố thế giới hình tượng qua một văn bản ngôn từ nhằm đạt được hiệu quả tư tưởng thẫm mỹ . . . là sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện, tình tiết, các mối quan hệ xung đột về sự kiện và nhân vật tạo nên sức hấp dẫn theo tổ chức điểm nhìn trần thuật. Đây là yếu tố then chốt đóng vai trò quan trọng trong cấp độ kết cấu trần thuật. Nhà lý luận Mỹ Jonathan Culler đã đưa ra ý kiến “ Bất cứ trần thuật nào đều có người trần thuật, người kể, bất kể người trần thuật ấy có được xác nhận rõ ràng hay không? Bởi vì trọng tâm của chủ đề mỗi câu chuyện đều là vấn đề về mối quan hệ giữa người trần thuật hàm ẩn với câu chuyện mà nó kể ra, nên muốn hiểu rõ một đoạn tự sự, một tác phẩm tự sự, bắt buộc phải xác nhận người kể chuyện hàm ẩn trong đó xác nhận các bộ phận thuộc về cái nhìn của nó, phân biệt bản thân hành động và sự quan sát của người trần thuật đối với hành động đó” [53,189]. Trong tác phẩm tự sự vai trò của tác giả là rất lớn “ tác giả là trung tâm tổ chức nội dung và hình thức cái nhìn nghệ thuật trong tác phẩm, là người mang thế giới cảm quan đặc thù và trung tâm tổ chức ngôn ngữ theo nguyên tắc nghệ thuật ” [13,106] . Do vậy lựa chọn trần thuật như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào tác giả. Từ những khái niệm, định nghĩa về trần thuật, các thành phần của trần thuật, bản chất của trần thuật . . . chúng ta nhận thấy một điều: khảo sát cách trần thuật của nhà văn ( tức khảo sát nhà văn “kể như thế nào”) là cùng một lúc người nghiên cứu sẽ nhận thấy được nghệ thuật kể của nhà văn, lời văn kể, cái nhìn của nhà văn về con người và thế giới . . . Đồng thời chúng 17 cũng làm bật lên một điều là khả năng cảm hóa lôi cuốn của tác phẩm đến người đọc không chỉ có nội dung mà ở cả hình thức kể. Như vậy, trần thuật là một yếu tố thuộc về hình thức trong cấu trúc văn bản tự sự, phương diện này góp phần làm nổi bật vai trò chủ thể trần thuật, là hướng nghiên cứu kĩ thuật kĩ xảo của mỗi nhà văn. Đến đây có thể nói, trần thuật là một yếu tố hình thức chủ đạo chi phối toàn bộ nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Nhà văn đã khéo léo và linh hoạt trong cách tổ chức trần thuật từ cách xây dựng cốt truyện, xây dựng nhân vật đến chọn lối kể, cách mở đầu, kết thúc, điểm nhìn để kể, nhịp điệu kể, giọng điệu, các thủ pháp nghệ thuật...Nguyễn Quang Sáng thường chọn cho mình lối kể chủ quan để miêu tả hiện thực. Mặt khác, nhà văn biết điều phối nhịp điệu kể phù hợp với hoàn cảnh, sự kiện của nhân vật, lúc thì trầm tĩnh, chậm rãi, lúc thì dồn dập, khẩn trương, sôi nổi. Ngôn ngữ trong truyện ngắn cũng được Nguyễn Quang Sáng sử dụng biến hoá, linh hoạt ở mọi chi tiết, từ cách dùng từ, đặt câu, cách so sánh ví von, cách tả cảnh tả người cho đến những lời nói của nhân vật hay của người kể chuyện với giọng điệu giàu chất Nam Bộ. Qua nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, chúng ta thấy nghệ thuật trần thuật đóng vai trò rất quan trọng trong tác phẩm của ông và là một yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đối với người đọc. Ngoài ra, có thể khẳng định trần thuật là yếu tố chi phối nội dung, kết cấu và nghệ thuật, đồng thời là căn cứ để các nhà nghiên cứu, nhà phê bình đánh giá bút lực, phong cách của văn từ Nguyễn Quang Sáng. 1.3.2. Giới thuyết về truyện ngắn Theo Từ điển thuật ngữ Văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán – Nguyễn Khắc Phi – Trần Đình Sử đồng chủ biên, truyện ngắn được hiểu “ là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống như đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn”. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưa phải là đặc điểm chủ yếu phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự khác. Trong văn học hiện đại có nhiều tác phẩm rất ngắn, nhưng thực chất lại là những truyện dài viết ngắn lại. Truyện ngắn thời trung đại cũng ngắn nhưng rất gần với truyện vừa. Các hình thức truyện kể dân gian rất ngắn gọn như cổ tích, truyện cười, giai thoại,... lại càng không phải là truyện ngắn. Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Cho nên truyện ngắn đích thực xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học. Khác với 18 tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người. Vì thế, trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Và nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới, thì nhân vật của truyện ngắn là mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắc họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội, hoặc trạng thái tồn tại của con người. Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tầng, nhiều tuyến mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. Bút pháp tường thuật của truyện ngắn thường là chấm phá. Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Truyện ngắn là thể loại gần gũi với đời sống hằng ngày, súc tích, dễ đọc, lại thường gắn liền với hoạt động báo chí, do đó có tác dụng, ảnh hưởng kịp thời trong đời sống. Nhiều nhà văn lớn trên thế giới và nước ta đạt được đỉnh cao của sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật chủ yếu bằng những truyện ngắn xuất sắc của mình[ 13,243]. Truyện ngắn là một loại “tự sự cở nhỏ” thường nhằm tới việc khắc họa những tính cách điển hình có cá tính đầy đặn trong tương quan với hoàn cảnh. Dung lượng của tác phẩm chỉ cho phép tác giả thể hiện con người trong những “khoảnh khắc”, “chốc lát” có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong đời sống. Vì vậy, cốt truyện, truyện ngắn thường là cốt truyện đơn tuyến, hệ thống sự kiện được tác giả kể lại gọn gàng, tập trung thể hiện quá trình phát triển tính cách của một vài nhân vật chính, có khi chỉ là một giai đoạn trong cuộc đời hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật nhằm gây ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình người. Khi xây dựng cốt truyện nhà văn không chỉ khai thác tình tiết, sườn truyện, chi tiết nghệ thuật mà còn chú ý đến tình huống truyện. Tình huống góp phần bộc lộ nét bản chất độc đáo của truyện là “ngắn”, “hàm súc”, “cô đọng”. Mặt khác, tình huống còn là sự thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm mà nhà văn muốn thể hiện. Các nhà văn, các nhà lý luận phê bình đã nhận ra vai trò của tình huống trong truyện ngắn. Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Tình thế truyện không cần đến những mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng nó là cái cắc cớ chắc chắn, hết sức cụ thể mà mang tình riêng, ở đó cốt truyện và nhân vật dựa vào để thể hiện đắc lực các ý định của tác giả, ví 19 như những cây cọc vững chắc để cho cây bí leo lên mà ra hoa trái… Những nhà văn có tài điều là những người có tài tạo ra tình thế xảy ra truyện vừa rất cá biệt vừa mang tính phổ biến hoặc tượng trưng” [53,12]. Nhà văn Nguyễn Kiên quan niệm: “Điều quan trong đối với truyện ngắn là phải lựa chọn tình thế tự nó bộc lộ ra nét chủ yếu của tính cách và số phận, tự nó đặc trưng cho một hiện tượng xã hội”. 1.3.3. Vai trò của trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng Bấy lâu nay, Nguyễn Quang Sáng được khẳng định, được ngợi ca trước hết là ở tấm lòng của nhà văn và nội dung tác phẩm mà nhà văn phản ánh. Vì sao văn Nguyễn Quang Sáng được nhiều người quan tâm, làm xúc động lòng người? Một mặt là do nội dung kể trong tác phẩm, nhưng mặt khác, không thể phủ nhận được, là cách kể của nhà văn – Nguyễn Quang Sáng đã “kể như thế nào” mà nội dung tác phẩm mới “sống” được? Trả lời câu hỏi này buộc chúng ta phải chú ý đến vai trò trần thuật trong văn Nguyễn Quang Sáng. Ngay từ những sáng tác đầu tay, tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng đã thu hút được độc giả và giới nghiên cứu ở cả nội dung kể và cách kể của nhà văn. Vân Thanh nhận xét: Không phải Nguyễn Quang Sáng không có ý định viết truyện dài. Anh đã cho in truyện vừa Chiếc áo thằng hình rơm (NXB Giải phóng, 1973) và đã cho đăng dần trên tạp chí Tác phẩm mới (1974) một số chương của truyện dài Mùa gió chướng. Nhưng trong hoàn cảnh miền Nam vào những ngày chống Mỹ ác liệt, anh tập trung sức lực vào truyện ngắn. Anh đã từng nói: “Tôi rất thích viết tiểu thuyết ngay lúc bắt đầu lên đường về chiến trường, tôi đã nghĩ đến tiểu thuyết. Nhưng khi sống trong thực tế của bom đạn, tôi nghĩ biết sống biết chết lúc nào mà để dành. Có cái gì viết cái ấy phục vụ ngay. Phải đánh trả lại kẻ thù từng miếng, từng nhát, thật sâu”. Năm 1968, anh viết tập truyện ngắn Chiếc lược ngà; và tiếp ngay năm sau, anh cho xuất bản tập truyện Bông cẩm thạch. Hai tên truyện gợi cho người đọc nghĩ ngay đến những vật kỷ niệm nhỏ nhắn, xinh xắn nào đó của một cuộc sống êm ả. Đúng, đấy là những kỷ niệm nhưng có điều đó không phải là những kỷ niệm bình thường của một cuộc đời phẳng lặng mà là những kỷ niệm có khi nhòa lẫn máu của những ngày chống Mỹ ác liệt, những ngày nổi dậy của Cửu Long cuộn gió. Cái ý ấy, có lúc anh đã nói lên một cách bóng gió: “Sông Cửu Long lúc nào cũng có sóng. Đừng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan