Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nghiên cứu đặc điểm khí hậu tương quan tới sốt xuất huyết dengue tại 7 tỉnh ven ...

Tài liệu Nghiên cứu đặc điểm khí hậu tương quan tới sốt xuất huyết dengue tại 7 tỉnh ven biển nam bộ và hiệu quả diệt bọ gậy muỗi aedes của abate 1sg

.PDF
148
148
69

Mô tả:

1 ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, có nhiều tranh cãi về nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu (BĐKH) trên toàn cầu nhưng các quan điểm đều cho rằng BĐKH rõ ràng vẫn đang diễn ra (nhiệt độ không khí tăng từ 1,4 đến 5,8oC trong thế kỷ 21) [1]. Những biểu hiện của BĐKH như thay đổi về lượng mưa, gia tăng mực nước biển, gia tăng hoạt động của bão và lũ lụt đe dọa một tỷ lệ dân số thế giới đáng kể. Tác động của BĐKH đến sức khỏe con người diễn ra rất phức tạp. Nó thể hiện tác động tổng hợp, đồng thời của nhiều yếu tố khác nhau. BĐKH làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh nhiệt đới: sốt rét, sốt xuất huyết (SXH) Dengue, làm tăng tốc độ sinh trưởng và phát triển nhiều loại vi sinh vật và côn trùng, vật chủ mang bệnh, làm tăng số người bị nhiễm những bệnh dễ lây lan…[2]. Mối liên quan giữa dịch bệnh và BĐKH đã được nghiên cứu trong suốt một thời gian dài. Một số nghiên cứu cho thấy, trong điều kiện thuận lợi nhất định, nhiệt độ cao hơn sẽ làm tăng tỷ lệ phát triển của côn trùng, véc tơ và tần suất đốt của chúng. Sự ấm lên có khả năng tăng cường độ truyền tải cũng như gia tăng các khu vực lây nhiễm. Việt Nam là một trong những quốc gia được cảnh báo sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng của BĐKH và nước biển dâng. BĐKH ảnh hưởng đến hệ sinh thái, hậu quả gây ra một loạt yếu tố có thể ảnh hưởng tới sức khỏe môi trường, không chỉ làm bùng phát các dịch bệnh truyền thống mà còn xuất hiện các dịch bệnh mới. Tại Việt Nam, khí hậu nóng lên là nguyên nhân phát sinh 9 bệnh truyền nhiễm gồm: bệnh cúm A(H1N1), bệnh cúm A(H5N1), bệnh SXH Dengue, sốt rét, bệnh tả, thương hàn, tiêu chảy, viêm não do vi rút, và bệnh viêm đường hô hấp cấp tính nặng (SARS) [2]. Trong đó, SXH Dengue là bệnh truyền nhiễm chịu sự tác động trực tiếp đến từ các xu thế thay đổi khí hậu. 2 Trong các khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của BĐKH, các tỉnh ven biển Nam Bộ là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề. Diễn biến dịch bệnh SXH Dengue tại khu vực này có nhiều biến động bất thường. Quy luật dịch bệnh trong những năm qua thay đổi nhiều gây khó khăn cho công tác phòng chống dịch bệnh tại các tỉnh ven biển Nam Bộ. Do vậy, việc nghiên cứu đặc điểm khí hậu khu vực này và mối tương quan tới dịch bệnh SXH Dengue là rất cần thiết. Kết quả nghiên cứu giúp phân tích quy luật của dịch bệnh SXH Dengue từ đó xây dựng các giải pháp kiểm soát và dự phòng bệnh tốt hơn cho các tỉnh khu vực Nam Bộ. Xuất phát từ những vấn đề trên, nghiên cứu được triển khai nhằm mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm khí hậu và phân tích mối tương quan với bệnh SXH Dengue tại 7 tỉnh ven biển Nam Bộ giai đoạn 2003 - 2013. 2. Đánh giá hiệu quả diệt bọ gậy muỗi Aedes của ABATE 1SG trong phòng chống bệnh SXH Dengue tại TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VIỆT NAM Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn. Biến đổi khí hậu có thể là do các quá trình tự nhiên bên trong hoặc các tác động bên ngoài, hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất. Biến đổi khí hậu đề cập đến sự thay đổi về khí hậu do của con người một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, làm thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu, góp phần làm biến động khí hậu tự nhiên được quan sát, ghi nhận trong một khoảng thời gian có thể so sánh được. Đối với một số hiện tượng khí hậu cực đoan: Lượng mưa ngày cực đại và số ngày mưa lớn, hạn hán cũng có xu thế tăng lên nhưng biến động mạnh theo không gian và có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng khí hậu. Tần suất bão hoạt động có xu hướng tăng lên ở các vĩ độ phía nam [2]. Biến đổi khí hậu tác động đến con người bằng nhiều cách khác, từ trực tiếp như nắng nóng, giá rét, lũ lụt và bão đến gián tiếp như thay đổi chất lượng không khí, chất lượng nước, mất cân bằng hệ sinh thái và phá vỡ hệ thống kinh tế xã hội. Sóng nhiệt và đêm đen nhiệt đới cũng là nguyên nhân gây ra nhiều loại bệnh cho con người, nhất là các bệnh truyền nhiễm [3]. 1.1.1. Xu thế biến đổi của mưa lớn Xu thế biến đổi của số ngày mưa lớn giảm trên các vùng khí hậu phía Bắc, tăng nhẹ ở vùng Tây Nam Bộ và tăng mạnh ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Sự tăng lên của số ngày mưa lớn trên các vùng là một điều đáng lo 4 ngại, vì nó liên quan đến những hiện tượng thiên tai như lũ lụt, sạt lở đất,… và ảnh hưởng xấu đến nông nghiệp điển hình là nghề cá. Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Thanh và cộng sự cho thấy nếu lượng mưa trung bình hàng năm khu vực ven biển tăng lên 100 mm (0,1m) thì sản lượng khai thác thủy sản sẽ giảm khoảng 2,2% [4]. Theo kịch bản nồng độ khí nhà kính trung bình thấp (RCP4.5) của Bộ Tài nguyên và Môi trường, vào đầu thế kỷ 21, lượng mưa/năm có xu thế tăng ở hầu hết cả nước, phổ biến từ 5-10%. Vào giữa thế kỷ 21, mức tăng phổ biến từ 5-15%. Một số tỉnh ven biển Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ có thể tăng trên 20%. Đến cuối thế kỷ 21, mức biến đổi lượng mưa/năm có phân bố tương tự như giữa thế kỷ 21, tuy nhiên vùng có mức tăng trên 20% mở rộng hơn. Còn theo kịch bản nồng độ khí nhà kính cao (RCP8.5), vào đầu thế kỷ 21, lượng mưa/năm có xu thế tăng ở hầu hết các khu vực trên cả nước, phổ biến từ 3-10%. Vào giữa thế kỷ 21, xu thế tăng tương tự như kịch bản RCP4.5. Đáng chú ý là vào cuối thế kỷ 21, mức tăng nhiều nhất có thể trên 20% ở hầu hết diện tích khu vực Bắc Bộ, Trung Trung Bộ, một phần diện tích Tây Nam Bộ và Tây Nguyên [5]. Lượng mưa/năm giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía Nam. Tính trung bình trong cả nước, lượng mưa/năm trong 50 năm qua (1958-2007) giảm xuống khoảng 2% [6]. 1.1.2. Hiện tượng nắng nóng ở Việt Nam Theo số liệu quan trắc thời kỳ 1961-2014, nhiệt độ ngày cao nhất và nhiệt độ ngày thấp nhất có xu thế tăng rõ rệt, với mức tăng cao nhất lên tới 10C/10 năm. Số ngày nóng (số ngày có nhiệt độ cao nhất ≥ 350C) có xu thế tăng ở hầu hết các khu vực của cả nước, đặc biệt là ở khu vực Đông Bắc, đồng bằng Bắc Bộ và Tây Nguyên với mức tăng phổ biến 2-3 ngày/10 năm, 5 nhưng giảm ở một số nơi thuộc khu vực Tây Bắc, Nam Trung Bộ và khu vực phía Nam. Các kỷ lục về nhiệt độ trung bình cũng như nhiệt độ cao nhất liên tục được ghi nhận từ năm này qua năm khác [5]. Hình 1.1. Thay đổi nhiệt độ trung bình năm (0C) thời kỳ 1958-2014 * Nguồn: theo Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016) [5] 6 Biến trình năm của số ngày nắng nóng trung bình tháng cho thấy nắng nóng thường xuất hiện vào thời gian từ tháng 3 đến tháng 9 ở các vùng khí hậu từ vùng núi phía Bắc cho tới vùng Nam Trung Bộ, nhiều nhất là từ tháng 6 đến tháng 8. Ở vùng khí hậu vùng Tây Nguyên và vùng Đồng bằng Nam Bộ, nắng nóng thường xuất hiện từ tháng 2 đến tháng 6; nhiều nhất từ tháng 3 đến tháng 5, mùa khô và là thời gian mặt trời đi qua thiên đỉnh lần thứ nhất trong năm. Trong thế kỷ 20, nhiệt độ bề mặt trung bình của thế giới tăng khoảng 0,6°C. Dĩ nhiên, có những ảnh hưởng tự nhiên đến khí hậu toàn cầu trong thời gian này. Chúng bao gồm sự gia tăng hoạt động núi lửa từ năm 1960 đến năm 1991 (khi núi Pinatubo phun trào) tạo ra bức xạ tự nhiên kết hợp với sự bất ổn từ các hoạt động của mặt trời đã đẩy nhanh nhiệt độ trên bề mặt trái đất [7]. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác chỉ ra rằng hầu hết sự nóng lên toàn cầu từ năm 1950 là kết quả của hoạt động của con người. Lượng phát thải khí cácbô-níc toàn cầu hàng năm đã tăng lên một cách đáng kể từ năm 2000 trở lại đây. Nếu không có hành động quốc tế nào để nhanh chóng giảm phát thải, nhiệt độ toàn cầu trung bình (so với năm 2000) có khả năng tăng từ 1 đến 2°C vào năm 2050 và từ 3 đến 4°C vào năm 2100, bao gồm tăng lên đến 6 đến 7°C ở vĩ độ cao phía Bắc [8]. Theo Báo cáo về Biến đổi khí hậu và tác động ở Việt Nam, diễn biến nhiệt độ trung bình từ 1961 đến 2005 tại Việt Nam có những đặc điểm sau đây: - Nhiệt độ mùa đông, cũng như mùa hè và nhiệt độ năm từ 1990 đến 2005 cao hơn khoảng thời gian từ 1960 đến 1989. - Cũng như nhiệt độ trung bình hàng năm, nhiệt độ trung bình trong mùa đông cũng biến đổi nhiều hơn trong mùa hè. 7 - Nửa thập kỷ 1996 – 2000 được coi là có nhiệt độ cao nhất, trên các vùng khí hậu phía Bắc và các vùng khí hậu phía Nam [9]. Ở Việt Nam, kết quả thống kê và phân tích nhiều năm qua cho thấy, BĐKH và nước biển dâng có những điểm đáng chú ý. Trong 50 năm (từ năm 1958 đến năm 2007) nhiệt độ trung bình/năm ở Việt Nam tăng lên khoảng 0,5oC đến 0,7oC. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè và nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Nam. Nhiệt độ trung bình/năm của 4 thập niên gần đây (từ năm 1961 đến năm 2000) cao hơn nhiệt độ trung bình/năm của 3 thập niên trước đó (từ năm 1931 đến năm 1960) [3]. Có sự sụt giảm đáng kể trên toàn quốc về số ngày và đêm lạnh trong giai đoạn từ 1961 đến 2010, đặc biệt là ở miền Bắc và Tây Nguyên. Dữ liệu giai đoạn 1981-2009 cho thấy hiện tượng sương muối xảy ra muộn hơn; thời gian kéo dài ngắn hơn và số ngày có sương muối đã giảm nhanh chóng trong thập kỷ qua. Số ngày rét đậm, rét hại có xu thế giảm, đặc biệt là trong hai thập kỷ gần đây. Tuy nhiên, số lượng các đợt rét đậm, rét hại lại có sự biến đổi khá phức tạp và biến động mạnh từ năm này qua năm khác [10]. Bên cạnh đó, tại cùng khu vực Đông Nam Á, theo Nakhapakorn K. và cộng sự, số liệu về lượng mưa, nhiệt độ và độ ẩm tương đối hàng tháng được thu thập từ Cục Khí tượng học, Bộ Công nghệ Thông tin và Truyền thông Thái Lan. Ở Thái Lan, mưa xuất hiện chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 9 và phần còn lại của năm vẫn khô hạn. Ngoài lượng mưa, nhiệt độ và độ ẩm cũng ảnh hưởng đến sự lan truyền bệnh SXH Dengue. Do độ ẩm cao trong mùa mưa, muỗi có điều kiện thuận lợi để tồn tại và sinh trưởng. Nhiệt độ trung bình ở tỉnh Sukhothai dao động từ 22°C đến 33°C trong 5 năm (1997-2001). Nhiệt độ cao hơn 20°C là nhiệt độ thuận lợi cho muỗi Aedes aegypti sinh sản và phát triển. Độ ẩm tương đối trung bình trong 5 năm (1997-2001) là 95,6%. 8 Lượng mưa trung bình trong 30 năm (1969-2000) hàng tháng là 1.226,5 mm ở các vùng phía Bắc của Thái Lan [11]. 1.2. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH 7 TỈNH VEN BIỂN NAM BỘ 1.2.1. Đặc điểm địa lý Bảy tỉnh ven biển Nam Bộ trong nghiên cứu bao gồm Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang. Đây là các tỉnh ven biển thuộc khu vực miền Tây Nam Bộ. Khu vực Tây Nam Bộ, còn gọi là vùng Đồng bằng Nam Bộ hay là vùng Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm 13 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương và là một bộ phận của Châu thổ sông Mê Kông có diện tích 40.818,3 km2. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2017, dân số vùng Tây Nam Bộ là 17,7 triệu người và mật độ dân số khoảng 435 người/km2 [12]. Vùng Tây Nam Bộ có vị trí nằm liền kề với vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông. Vùng Tây Nam Bộ được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, Tây Nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Vùng Tây Nam Bộ có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, có tiềm năng lớn nhất để phát triển nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản, phát triển vườn cây ăn trái đem lại giá trị xuất khẩu lớn cho cả nước và mở rộng giao lưu với khu vực và thế giới. 9 1.2.2. Sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới vùng Tây Nam Bộ BĐKH là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ 21. Các diễn biến thời tiết bất thường, thiên tai, bão, lũ và khô hạn… gia tăng ở hầu hết các nơi trên thế giới, nhiệt độ trung bình toàn cầu tiếp tục tăng nhanh và làm gia tăng tốc độ tan băng ở các đầu cực trái đất làm mực nước biển dâng cao. Vùng Tây Nam Bộ, đặc biệt các tỉnh ven biển khu vực này là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề từ sự BĐKH và có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra điều này. Theo tài liệu báo cáo của Bộ Tài Nguyên và Môi trường, vùng Tây Nam Bộ là khu vực có nguy cơ ngập rất cao. Nếu mực nước biển dâng 100 cm, sẽ có khoảng 38,9% diện tích có nguy cơ bị ngập. Trong đó, các tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất là Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang (76,86%) và Cà Mau (57,69%) [5]. Cùng với nguy cơ ngập úng và mực nước biển dâng cao, vùng Tây Nam Bộ cũng đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề tới từ sự ảnh hưởng của BĐKH. Vùng Tây Nam Bộ nằm trong vùng bị ảnh hưởng khu vực phía Nam bởi sự thay đổi nhiệt độ trung bình/năm. Theo tài liệu báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, theo kịch bản RCP4.5, mức tăng nhiệt độ trung bình/năm là 1,3-1,40C; và theo kịch bản RPC8.5, mức tăng nhiệt độ trung bình/năm là 1,8-1,90C. Bên cạnh đó, theo kịch bản RCP8.5, khu vực Nam Bộ sẽ có xu thế tăng lượng mưa trung bình/năm với mức tăng vào mùa đông từ 50-80% và mùa thu từ 10-30% [5]. Tất cả những điều trên đều ảnh hưởng tới sự phát triển của loài muỗi Aedes aegypti, véc tơ truyền bệnh chính của bệnh SXH Dengue. 10 1.3. BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỚI BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE 1.3.1. Bệnh sốt xuất huyết Dengue Bệnh SXH Dengue là căn bệnh nhiệt đới do muỗi truyền. Đây là căn bệnh nguy hiểm do vi rút Dengue truyền qua muỗi vằn đốt người vào ban ngày. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự gia tăng số ngày mưa và sự giảm độ ẩm tương đối có liên quan đến sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh SXH Dengue [13]. Ước tính gần đây cho thấy khoảng 3,5 tỷ người, khoảng 55% dân số thế giới, sống ở các quốc gia có nguy cơ mắc bệnh SXH Dengue. SXH Dengue là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất ở nhiều quốc gia thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Sự lây truyền vi rút Dengue chủ yếu xảy ra thông qua các vết đốt của muỗi, Aedes aegypti, loài muỗi hút máu người và thường được tìm thấy trong và xung quanh nhà ở của người dân [14]. SXH Dengue trở thành vấn đề nghiêm trọng về sức khoẻ cộng đồng và là nguyên nhân chủ yếu của các trường hợp nhập viện và tử vong ở trẻ em ở nhiều nước châu Á, với hơn 100.000 trường hợp tử vong ước tính đã được ghi nhận vào năm 1995 [15]. Sự đô thị hóa và phát triển nhanh chóng của các thành phố ở châu Á có ảnh hưởng lớn đến việc lây truyền bệnh SXH Dengue. Hiện nay, hàng triệu người sống tập trung ở các thành phố ở châu Á, cùng với việc thiếu cơ sở hạ tầng nước thải, nhà ở không đầy đủ, và các điều kiện xã hội không đảm bảo vệ sinh đã thúc đẩy sự lan truyền bệnh SXH Dengue. Những yếu tố này góp phần quan trọng làm gia tăng tỷ lệ mắc SXH Dengue ở khu vực châu Á [16]. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trong năm thập kỷ (1960 - 2010), tỷ lệ mắc mới bệnh SXH Dengue tăng 30 lần. Hàng năm, ước 11 tính khoảng 50-100 triệu ca mắc SXH Dengue được ghi nhận tại hơn 100 quốc gia lưu hành. Bệnh cũng được ghi nhận đã lan truyền tới một số vùng chưa bị ảnh hưởng bao giờ. Mỗi năm, trên thế giới tăng thêm hàng trăm nghìn ca mắc nặng, bao gồm khoảng 20.000 ca tử vong; 264 người bị khuyết tật/1.000.000 người dân, với chi phí ước tính cho các trường hợp ngoại trú và nhập viện là từ 514 đến 1.394 Đô la Mỹ, thường ảnh hưởng đến cộng đồng người dân nghèo. Con số thực tế có thể còn cao hơn nhiều do việc báo cáo thiếu cũng như phân loại sai các trường hợp ghi nhận SXH Dengue [17]. SXH Dengue ở Việt Nam có khuynh hướng gia tăng những năm gần đây. Các số liệu thống kê y tế quốc gia gần đây cho thấy, năm 2008 ghi nhận 96.451 ca mắc SXH Dengue; năm 2009 tăng lên đến 105.370 ca; và năm 2010 số ca mắc được ghi nhận trên cả nước là 128.831 ca. Do đó, SXH Dengue ở Việt Nam được xếp trong nhóm 10 bệnh truyền nhiễm có nguy cơ tử vong cao nhất [18]. Sự BĐKH toàn cầu có thể ảnh hưởng đến sự phân bố theo mùa và địa lý của SXH Dengue ở khu vực châu Á Thái Bình Dương. Bản chất phức tạp của việc truyền bệnh SXH Dengue liên quan đến sinh thái học véc tơ, các yếu tố vi rút, sự miễn dịch của cộng đồng và những thay đổi về nhân khẩu học xã hội làm cho khó định lượng được mức độ ảnh hưởng của BĐKH đến sự lây truyền bệnh SXH Dengue. Tuy nhiên, tác động của những thay đổi về mặt môi trường - xã hội đối với việc truyền bệnh SXH Dengue ít được nghiên cứu kỹ [19]. Theo tổng hợp của nghiên cứu Phan Thùy Linh và cộng sự, SXH Dengue làm ảnh hưởng tới 50 - 100 triệu người mỗi năm trên toàn thế giới, và gây ra hàng chục nghìn ca tử vong ở trẻ em. Những đánh giá về thay đổi trong giới hạn địa lý của lây truyền SXH Dengue tính đến yếu tố BĐKH và dân số 12 đã chỉ ra rằng ước tính 50 – 60% dân số toàn cầu bị ảnh hưởng bởi SXH Dengue vào cuối thế kỷ 21 [20]. 1.3.2. Đặc điểm sinh thái học của véc tơ truyền bệnh sốt xuất huyết Dengue 1.3.2.1. Vài nét về sự phân bố của loài muỗi Aedes aegypti Aedes aegypti phân bố trong vùng nhiệt đới và ôn đới của các châu lục (giữa 450 vĩ tuyến Bắc và 350 vĩ tuyến Nam) giới hạn bằng đường đẳng nhiệt 100C. Về độ cao, chúng có mặt từ 0 đến 1.200 m, một ít quần thể có mặt đến độ cao 1.800 m (ví dụ ở Ấn Độ). Tại Việt Nam, muỗi Aedes phân bố ở hầu hết các tỉnh/thành phố, tuy nhiên mật độ cao và chiếm ưu thế hơn ở các tỉnh miền Nam, miền Trung và Tây Nguyên. Tại miền Bắc, Aedes aegypti chủ yếu tập trung ở thành phố, rồi đến các đồng bằng ven biển và các làng mạc gần đường giao thông. Đó là những nơi có dân cư đông đúc, có nhiều dụng cụ chứa nước (DCCN) và các phương tiện giao thông thường xuyên qua lại. Hiện nay, kinh tế phát triển (nhiều rác thải bia, đồ hộp,...) và việc đô thị hóa nhanh chóng nhưng không đồng bộ (hệ thống cấp thoát nước chưa đầy đủ, vệ sinh môi trường một số nơi còn kém) cùng với sự thờ ơ của một số người dân với giáo dục sức khỏe cộng đồng làm cho vùng phân bố của Aedes aegypti ngày càng mở rộng. Hiện nay, trên thế giới đã ghi nhận 2 loài muỗi có khả năng truyền bệnh SXH Dengue. Đó là muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus. Tuy nhiên, chúng lại có những đặc điểm tương đối khác nhau về hình thái học, sinh thái học, sự phân bố và khả năng truyền các loại bệnh trên. Aedes aegypti vẫn là loài muỗi chính truyền bệnh SXH Dengue [21]. 13 1.3.2.2. Đặc điểm hình thái muỗi Aedes aegypti trưởng thành Hình thái muỗi Aedes aegypti trưởng thành rất dễ nhận biết, với kích thước nhỏ màu đen, chân, thân và bụng có các khoang đen trắng rõ rệt. Đặc biệt, vùng ngực có các vẩy trắng xếp thành hàng. Thân có nhiều vẩy trắng bạc tập trung thành từng cụm hay từng đường trên mình muỗi. Vòi không có băng trắng, đỉnh pan trắng. Trên mặt lưng ngực có hai đường vẩy màu trắng bạc phình ra, như hai nửa vòng cung ôm hai bên lưng nên gọi là hình đàn Lia. Trên mặt lưng bụng ở gốc các đốt II đến VIII đều có những đường vẩy ngang từng đốt, gốc các đốt bàn chân sau có những khoang trắng, riêng đốt bàn chân thứ V trắng hoàn toàn, cho nên muỗi còn có tên gọi là muỗi vằn. Trứng muỗi có hình bầu dục màu đen, rời từng chiếc. Bọ gậy của muỗi có ống thở to, trên ống thở có vảy xếp theo hình răng cưa [21]. 1.3.2.3. Đặc điểm sinh học Aedes aegypti Vòng đời của Aedes aegypti có 4 giai đoạn: Trứng - Bọ gậy - Quăng Muỗi trưởng thành. Thời gian phát triển của các pha trước trưởng thành (từ trứng đến quăng) trung bình 7 ngày. Bọ gậy và quăng sống trong môi trường nước, thời gian từ quăng đến muỗi trưởng thành khoảng 2 đến 3 ngày. Muỗi sống trên cạn, sau khi nở muỗi trú đậu trên thành vật chứa khoảng vài giờ, sau đó muỗi bay phát tán cách xa khoảng 200 mét. Muỗi cái trưởng thành giao phối và thực hiện đốt hút máu lần đầu vào khoảng 48 giờ sau khi nở, thường muỗi đốt hút máu ban ngày hoạt động mạnh nhất vào lúc sáng sớm và lúc hoàng hôn, thời gian tiêu sinh của muỗi khoảng 5 ngày. Trường hợp đốt hút máu người có chứa vi rút Dengue, thời gian ủ bệnh trong muỗi cái thường 8 10 ngày, lúc này trong tuyến nước bọt của muỗi có vi rút nhân lên và truyền vi rút sang người khác khi chúng đốt, hút máu. Cũng giống như nhiều giống và loài muỗi khác, muỗi Aedes aegypti có sự khác nhau giữa con đực và con 14 cái về đặc điểm dinh dưỡng. Để sống và phát triển, con cái phải hút máu (có thể vài lần đốt hút máu trong một đợt phát triển trứng), còn con đực không hút máu mà chỉ hút nước, nhựa cây hay dịch hoa quả để tồn tại và phát triển. Chúng phát hiện vật chủ dựa vào các hợp chất hóa học: NH 3, CO2, axít lactic và Octenol tiết ra từ vật chủ [21]. Bên cạnh đó, mỗi một muỗi cái trong cả quá trình sống đẻ trung bình 285 trứng. Một muỗi cái trung bình đẻ 2,72 lần và số trứng trung bình một lần đẻ của một cá thể muỗi là 105 trứng. Tuổi thọ dài nhất của muỗi đực là 48 ngày; của muỗi cái là 65 ngày. Thời gian sống trung bình của muỗi đực trung bình là 13,41 ngày; của muỗi cái trung bình 33,84 ngày khi nuôi bằng dung dịch glucose 10% và đốt máu chuột [22]. 1.3.2.4. Nơi trú đậu và sinh sản của muỗi Aedes aegypti Muỗi Aedes aegypti thích đậu cao, ở những nơi treo vắt quần áo, mùng màn ở trong và ngoài nhà. Aedes aegypti sống trong nhà gần người, thường trú đậu nơi có ánh sáng yếu và có độ cao từ 2 mét trở xuống như: Trên các vật dụng vải: Quần áo, màn ngủ, ri-đô, túi xách,…; trên các vật dụng cứng: Gầm bàn có người thường làm việc, ghế tiếp khách, giường, tủ để gần tường. Hoạt động hút máu của muỗi phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường. Nếu nhiệt độ dưới 230C muỗi hầu như không hút máu. Muỗi hút cả máu người và các động vật khác như chim, bò, lợn, gà, thỏ, chuột,… Muỗi Aedes aegypti thường đẻ trứng ở những nơi nước sạch chứa trong lu, vại, bể, lọ hoa, phuy nước, chậu cây cảnh, chai lọ, vỏ dừa, lốp ô tô cũ, máng nước, đôi khi có ở hốc cây, kẽ lá (dừa, chuối, bẹ khoai),… ở trong và quanh nhà những nơi râm mát. Bọ gậy ưa nước có độ pH hơi axít, nhất là nước mưa [21]. 15 1.3.2.5. Vai trò truyền bệnh sốt xuất huyết Dengue của muỗi Aedes aegypti Vai trò này được thể hiện qua: (1) khả năng truyền vi rút Dengue của muỗi Aedes aegypti qua gây nhiễm trong phòng thí nghiệm; (2) khả năng truyền vi rút Dengue của muỗi Aedes aegypti tại các ổ dịch đang hoạt động; (3) khả năng truyền vi rút Dengue qua trứng muỗi Aedes aegypti. Trong đó, cả 4 típ vi rút Dengue đều chiếm tỉ lệ nhất định trong quá trình truyền bệnh tại các địa phương khác nhau. Một nghiên cứu của Guerra-Gomes I.C. và cộng sự tại Brazil chỉ ra rằng, vi rút Dengue típ 1 có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất. Sau đó, vi rút Dengue típ 3 trở thành chiếm ưu thế từ năm 2003; và vi rút Dengue típ 2 chiếm ưu thế từ năm 2007 [23]. Kết luận trên cũng tương tự như kết quả nghiên cứu của Đặng Thị Thúy và cộng sự, vi rút Dengue típ 2 chiếm ưu thế (64,4%); tiếp theo là típ 1 (25,4%), típ 3 và típ 4 (mỗi típ chiếm 3,4%). Đặc biệt có hai trường hợp đồng nhiễm típ 1 và 2 cũng được xác định (chiếm 3,4%). Các kết quả nghiên cứu trước đây tại Việt Nam trong các vụ dịch SXH Dengue đã cho thấy cả 4 típ Dengue đang lưu hành gây bệnh [24]. Trong nghiên cứu của Le V.T. và cộng sự tại đảo Cát Bà, trong số 192 trường hợp mắc bệnh SXH Dengue, 154 trường hợp (80%) được chẩn đoán dựa trên triệu chứng lâm sàng, 32 ca (17%) dựa vào kỹ thuật IgM ELISA và 6 trường hợp (3%) được khẳng định nhiễm vi rút Dengue típ 3 bằng kỹ thuật RT-PCR. Bệnh nhân thuộc mọi lứa tuổi, trung bình 37 tuổi và 47% là nam giới. Các trường hợp SXH Dengue chủ yếu từ hai khu vực: 123 người (64%) sống ở thị trấn Cát Bà và 69 người (36%) sống trong các nhà nổi trên biển, gần thị trấn Cát Bà (trong vòng 1 km). Tính toán theo quy mô dân số của hai 16 địa điểm (thị trấn: 11.000, làng nổi: 1.400), tỷ lệ chênh lệch tỷ lệ nhiễm bệnh SXH Dengue là 4,9 đối với những người sống trong nhà nổi [25]. 1.3.3. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới bệnh sốt xuất huyết Dengue Yếu tố nguy cơ là một chất, một vi sinh vật, một yếu tố,… có khả năng gây ra tác động tiêu cực lên sức khỏe nếu có sự tiếp xúc. Ví dụ, vi rút Dengue là một yếu tố nguy cơ vì chúng có thể gây bệnh SXH Dengue ở người; hay phẩy khuẩn tả là một yếu tố nguy cơ vì có thể gây ra dịch tả ở người. Nhiệt độ ảnh hưởng đến muỗi ở từng giai đoạn trong vòng đời của chúng. Nếu nhiệt độ của nước nơi muỗi đẻ trứng quá nóng hoặc lạnh, thì ít trứng nở hơn. Sau giai đoạn trứng, muỗi phát triển thành bọ gậy và sau đó là quăng. Nhiệt độ cũng đã được chứng minh là ảnh hưởng đến thời gian chuyển tiếp giữa các giai đoạn này. Nhiệt độ nước tối ưu để tồn tại và sự chuyển tiếp ngắn nhất giữa bọ gậy và quăng nằm trong khoảng từ 22°C đến 26°C. Sự ảnh hưởng của khí hậu và môi trường đến các bệnh truyền nhiễm là một chủ đề nghiên cứu trọng điểm trong nhiều thế kỷ. Nhiệt độ và độ ẩm có lợi cho việc xuất hiện và lan truyền của các loại bệnh do muỗi truyền. Các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống của tác nhân gây bệnh trong quá trình truyền bệnh phụ thuộc mật thiết các côn trùng truyền bệnh và vật chủ phù hợp có sẵn. Có được ước tính chính xác về tổng số các đợt bệnh là một bước quan trọng trong nghiên cứu bệnh và gánh nặng kinh tế của bệnh SXH Dengue. Mặc dù Việt Nam nằm hoàn toàn trong vùng nhiệt đới gió mùa, nó thể hiện sự đa dạng đáng kể về khí hậu và địa hình từ Bắc chí Nam qua các vĩ độ khác nhau. Điều này góp phần vào sự đa dạng trong mối liên hệ giữa các yếu tố khí hậu và tỷ lệ mắc bệnh SXH Dengue ở các vùng, miền khác nhau trên cả nước. Sự biến đổi thời tiết và khí hậu có thể gây ra sự khác biệt về tỷ lệ mắc 17 bệnh SXH Dengue thông qua sự tồn tại và sự phát triển của véc tơ hoặc vi rút Dengue. Sự mở rộng của các vùng có khí hậu nhiệt đới có thể dẫn tới sự di cư của các loài côn trùng và gặm nhấm làm lây lan các bệnh ở vùng có khí hậu nóng ấm tới các vùng cao nguyên, đồi núi. Những gì có lợi cho vi sinh vật có hại thì hiếm khi có lợi cho con người. Nhiệt độ ấm lên trong một thời gian dài do khí hậu thay đổi sẽ tạo điều kiện lý tưởng cho các loài muỗi và nhiều loài véc tơ truyền bệnh khác sinh sôi nảy nở, làm lây lan các bệnh truyền nhiễm. Khí hậu vùng nhiệt đới với nhiệt độ dao động từ 150C đến 400C và độ ẩm cao kết hợp với môi trường sống đông đúc, kém vệ sinh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh SXH Dengue phát triển. Thời gian của giai đoạn từ bọ gậy đến muỗi trưởng thành là 7 đến 12 ngày và tuổi thọ của muỗi cái là khoảng 8 đến 15 ngày. Trong khi đó, vi rút Dengue phát triển trong muỗi trong khoảng thời gian 8 đến 10 ngày. Vào thời điểm một người bị nhiễm vi rút Dengue xuất hiện sốt là khoảng thời gian lây truyền mạnh mẽ cho nhiều người. Vi rút Dengue được tìm thấy trong huyết thanh hoặc huyết tương, trong các tế bào máu tuần hoàn và trong các mô được chọn, đặc biệt là các mô của hệ thống miễn dịch trong khoảng 2 đến 7 ngày, tương ứng với thời kỳ sốt. Bệnh SXH Dengue nói chung có hai thể: thể sốt Dengue và thể sốt xuất huyết Dengue. Thể sốt Dengue có triệu chứng tương tự như cảm cúm, thường xảy ra ở trẻ lớn, người lớn và ít khi gây tử vong. Trái lại, thể sốt xuất huyết Dengue là thể thứ phát rất nguy hiểm, có xuất huyết và bệnh nhân có thể bị tử vong nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời [17]. Sự phát triển nền kinh tế và hệ thống y tế của các quốc gia ảnh hưởng đến sự lưu hành dịch tễ bệnh SXH Dengue với mức độ khác nhau. Các nguồn lực được huy động để phòng ngừa và điều trị bệnh SXH Dengue không có sẵn do chúng cần phải huy động để ứng phó với nhiều dịch bệnh khác. Các công nghệ chuyên môn y tế có sẵn có 18 thể được áp dụng để ngăn ngừa và điều trị bệnh SXH Dengue nhưng chúng lại tạo ra nguồn nợ lãi suất cao vì gánh nặng phải phân bổ cho nhiều loại dịch bệnh cũng như nhiều lĩnh vực khác nhau. Các cuộc điều tra phân tích kinh tế y tế về hiệu quả phòng chống SXH Dengue ngày nay đã và đang được thực hiện. Qua đó, vấn đề đánh giá về mặt kinh tế trong công tác phòng chống bệnh SXH Dengue cần cũng được xem xét kỹ lưỡng [26]. SXH Dengue là nguyên nhân hàng đầu của các trường hợp nhập viện và tử vong ở các nước Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương và ước tính khoảng 30 đến 60 triệu ca nhập viện hàng năm trên thế giới [27]. Việt Nam nằm trong vùng lưu hành của bệnh SXH Dengue. Dịch bệnh này được ghi nhận là nguyên nhân chủ yếu gây tử vong và bệnh tật ở Việt Nam và nằm trong số 10 bệnh truyền nhiễm hàng đầu về gánh nặng sức khoẻ tổng thể. Năm 1958, trường hợp SXH Dengue đầu tiên được mô tả ở Việt Nam. Vụ dịch đầu tiên xảy ra ở miền Nam vào năm 1963, dẫn đến 116 trường hợp tử vong. Tỷ lệ mắc và tử vong ước tính vào giữa năm 1979 tương ứng là 462 và 33/100.000 dân; và vào năm 2005 tương ứng là 2,7 và 0/100.000 dân. Mặc dù sự lan truyền SXH Dengue xảy ra ở cả nông thôn và thành thị Việt Nam nhưng với khoảng 73% dân số sống ở nông thôn, do đó phần lớn các ca mắc và tử vong do SXH Dengue là từ các khu vực này [28]. Bên cạnh đó, theo nghiên cứu của Rabaa M.A. và cộng sự, tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và khu vực Đông Nam Bộ, nơi có mật độ dân số cao, tiếp giáp với thành phố Hồ Chí Minh và là nơi có số lượng các khu công nghiệp và các trung tâm kinh tế khu vực mới nổi là nguồn bùng phát các điểm dịch SXH Dengue [29]. Theo nghiên cứu của Pham H.V. và cộng sự, trong giai đoạn 20042008, ở tỉnh Đắk Lắk đã ghi nhận được 3.502 trường hợp mắc SXH Dengue. Tỉ lệ mắc SXH Dengue dao động mạnh theo từng năm, và giữa các tháng trong năm. Một đợt dịch lớn đã xảy ra vào năm 2004; số ca mắc SXH Dengue 19 ghi nhận được trong năm chiếm 71,4% tổng số ca mắc trong 5 năm giám sát (2004-2008). Sau năm 2004, tỷ lệ mắc đã giảm rõ rệt. Trong vòng một năm, tỷ lệ mắc SXH Dengue đạt đỉnh điểm vào tháng 7 đến tháng 10, rơi vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11. Từ năm 2004 đến năm 2008, số ca mắc SXH Dengue ghi nhận được từ tháng 7 đến tháng 10 trong năm chiếm 71,6% tổng số ca mắc [30]. Theo nghiên cứu của Lê Thị Lựu và cộng sự đối với các trường hợp nhập viện điều trị tại Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên từ 2009 2010, đặc điểm lâm sàng chủ yếu là SXH Dengue độ II (chiếm 85,8%); SXH Dengue độ III có 9 ca, chiếm 8,5%. Sốt cao trên 39oC chiếm 93,4%, thường sốt từ 5- 6 ngày với tỉ lệ 71,7%. Xuất huyết gặp ở các hình thái: dưới da (94,33%), niêm mạc (38,5%), nôi tạng (5,65%) với xuất huyết xảy ra ở ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 của bệnh (83,85%). Các triệu chứng đau đầu, đau cơ khớp, da và niêm mạc xung huyết ở bệnh nhân SXH Dengue chiếm tỉ lệ cao từ 97,2 đến 100%; bên cạnh đó gan to chiếm tỉ lệ 36,8%; nôn gặp 39,6% [31]. Theo Hoang Q.C. và cộng sự, tuổi trung bình của các ca mắc SXH Dengue được ghi nhận ở Hà Nội cao và 85% ở độ tuổi trên 15. Mặc dù tuổi trung bình của các trường hợp lâm sàng ở Thái Lan đã tăng lên trong những năm đầu của thế kỷ 21, các trường hợp lâm sàng mắc SXH Dengue ở nhiều nước khu vực Đông Nam Á chủ yếu vẫn là trẻ em dưới 15 tuổi. Tuy nhiên, ở một số nước Đông Nam Á như Malaysia, Sri Lanka và Singapore thì SXH Dengue vẫn ảnh hưởng chủ yếu đến người trưởng thành. Ở nhiều nước châu Mỹ, SXH Dengue hay gặp ở người lớn. Ảnh hưởng quan trọng nhất đến sự khác biệt về địa lý trong nhóm tuổi bị mắc chủ yếu có thể là mức độ lan truyền bệnh SXH Dengue tại địa phương và thời gian kể từ khi SXH Dengue xuất hiện tại cộng đồng. Tuổi trung bình của các trường hợp SXH Dengue được ghi nhận tại Hà Nội cao có thể phản ánh mức độ nhiễm bệnh tương đối 20 thấp nhưng cũng có thể phản ánh việc bệnh SXH Dengue xuất hiện trong thời gian trước đó ở cộng đồng người lớn chưa có miễn dịch đa típ [32]. Bên cạnh đó, nhìn chung, mối tương quan giữa các đợt dịch SXH Dengue ở miền Nam Việt Nam với thời gian cao hơn so với mối tương quan giữa tỷ lệ mắc với thời gian. Điều này phù hợp với đặc điểm lan truyền theo mùa của vi rút Dengue mặc dù có sự khác biệt về mức độ dịch. Sự liên kết về mức độ dịch bệnh SXH Dengue hàng năm phụ thuộc vào không gian. Các huyện/thị cách nhau trong vòng 100 km có nhiều khả năng có những năm cùng có tỷ lệ mắc cao và cùng có tỷ lệ mắc bệnh thấp; mức độ tương quan cũng tăng lên khi khoảng cách các huyện/thị gần nhau hơn. Sự phụ thuộc không gian này cũng được quan sát thấy ở mức độ địa bàn cấp tỉnh phạm vi đến 122 km. Thời gian của các đợt dịch SXH Dengue ít phụ thuộc về không gian. Các huyện lân cận xuất hiện các đợt dịch đồng thời hơn, có ý nghĩa thống kê đến phạm vi 52 km. Tuy nhiên, sự phụ thuộc không gian này không được quan sát thấy ở mức độ địa bàn cấp tỉnh. Sự đồng thời phụ thuộc không gian cũng được quan sát thấy ở phạm vi lên đến 101 km khi phân tích tương quan chuỗi thời gian thô theo tháng, khi xem xét về thời gian và mức độ của dịch SXH Dengue. Nhìn chung, nghiên cứu cho thấy sự phân bố không gian của dịch bệnh SXH Dengue với phạm vi lên đến khoảng 50-100 km [33]. Ở Thái Lan, bệnh SXH Dengue thường được xem là bệnh ở trẻ em, gây ra tỷ lệ mắc và tử vong đáng kể ở trẻ em dưới 15 tuổi. Gần đây, số ca mắc SXH Dengue gia tăng được ghi nhận ở người lớn tuổi hơn. Ở một số nước Đông Nam Á, sự phân bố tuổi của các trường hợp mắc SXH Dengue ghi nhận được qua hệ thống giám sát thụ động đã dịch chuyển sang các nhóm tuổi lớn hơn. Sự thay đổi này liên quan đến việc chẩn đoán và quản lý ca bệnh lâm sàng; và qua đó, cũng đặt ra những thách thức mới đối với việc kiểm soát bệnh SXH Dengue. Phân tích của tác giả Cummings D.A.T. và cộng sự cho
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan