Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Y dược Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả nội soi màng phổi trong ch...

Tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả nội soi màng phổi trong chẩn đoán căn nguyên tràn dịch màng phổi dịch tiết tại trung tâm hô háp bệnh viện bạch mai

.PDF
96
140
70

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI -----***----- HOÀNG ANH ĐỨC Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả nội soi màng phổi trong chẩn đoán căn nguyên tràn dịch màng phổi dịch tiết tại trung tâm Hô Hấp bệnh viện Bạch Mai Chuyên ngành : Nội khoa Mã số : 62722050 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ NỘI TRÚ Người hướng dẫn khoa học GS.TS. Ngô Quý Châu 2 ĐẶT VẤN ĐỀ Tràn dịch màng phổi (TDMP) là tình trạng xuất hiện dịch trong khoang màng phổi nhiều hơn mức bình thường và là một hội chứng thường gặp trên lâm sàng do nhiều nhóm nguyên nhân khác nhau gây ra. Những nguyên nhân hàng đầu gây ra TDMP là lao màng phổi, ung thư, viêm phổi [1]. Việc phát hiện TDMP thường không gặp nhiều khó khăn khi có thể dựa vào các triệu chứng lâm sàng cũng như các phương tiện chẩn đoán hình ảnh. Tuy nhiên chẩn đoán nguyên nhân gây TDMP đặc biệt là TDMP dịch tiết đôi khi lại gặp rất nhiều khó khăn trên lâm sàng. Chẩn đoán nguyên nhân gây TDMP hiện nay vẫn dựa chủ yếu vào các xét nghiệm DMP cũng như STMP kín. Đây là các phương pháp rẻ tiền, dễ thực hiện. Tuy nhiên vẫn có từ 25 đến 40% các trường hợp TDMP không chẩn đoán được nguyên nhân sau khi đã được chọc hút DMP và/hoặc STMP kín [2], [3]. Trong các trường hợp không chẩn đoán được nguyên nhân TDMP khi đã STMP kín đòi hỏi phải tiến hành nội soi màng phổi (NSMP) để chẩn đoán. Tỷ lệ chẩn đoán thành công trong NSMP là cao hơn rõ rệt so với STMP kín trong các bệnh lý màng phổi do lao (99% so với 51%) và do ung thư (95% so với 44%) [4]. Nội soi màng phổi không phải là một kỹ thuật mới, được tiến hành lần đầu tiên vào năm 1910 bởi Han Jacobeus, một bác sỹ người Thụy Điển. Đến năm 1921 Jacobeus đã xuất bản công trình nghiên cứu đầu tiên đánh giá giá trị của nội soi màng phổi trong chẩn đoán lao và TDMP do ung thư. Tại Việt Nam, nội soi màng phổi được thực hiện lần đầu tiên bởi giáo sư Nguyễn Việt 3 Cồ vào năm 1985. Ngày nay NSMP ngày càng được áp dụng ngày nhiều trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý màng phổi. NSMP thường chỉ định trong các trường hợp chẩn đoán TDMP dịch tiết không rõ nguyên nhân sau khi đã xét nghiệm DMP và STMP kín. NSMP gồm có hai loại là NSMP nội khoa và NSMP phẫu thuật dưới sự hỗ trợ của video (VATS). NSMP có thể được tiến hành dưới hình thức gây tê tại chỗ cũng như gây mê toàn thân. NSMP cho phép quan sát bề mặt lá thành và lá tạng màng phổi đồng thời có thể tiến hành sinh thiết vào các vị trí tổn thương nghi ngờ một cách chính xác. Nhờ đó tỷ lệ chẩn đoán thành công của NSMP trong các trường hợp TDMP được tăng lên tới hơn 90% [5]. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về giá trị của nội soi màng phổi trong chẩn đoán TDMP dịch tiết không rõ căn nguyên cũng như đánh giá các đặc điểm về mặt đại thể và mô bệnh học của màng phổi nhờ vào nội soi màng phổi. Tuy nhiên tại Việt Nam hiện chưa có nhiều nghiên cứu về vai trò cũng như giá trị của nội soi màng phổi trong chẩn đoán các trường hợp TDMP dịch tiết chưa rõ căn nguyên. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả nội soi màng phổi trong chẩn đoán căn nguyên tràn dịch màng phổi dịch tiết tại trung tâm Hô Hấp bệnh viện Bạch Mai” với hai mục tiêu sau: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của TDMP dịch tiết tại trung tâm Hô Hấp bệnh viện Bạch Mai. 2. Nhận xét kết quả nội soi sinh thiết màng phổi trong chẩn đoán căn nguyên tràn dịch màng phổi dịch tiết ở bệnh nhân sau STMP kín chưa rõ căn nguyên. 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. Giải phẫu, mô học và chức năng sinh lý màng phổi 1.1.1. Giải phẫu học màng phổi Màng phổi hay phế mạc là bao thanh mạc bọc quanh phổi, gồm có lá thành và lá tạng. Giữa lá thành và lá tạng là một khoang ảo gọi là khoang màng phổi hay khoang phế mạc. Ở người, hai khoang màng phổi phải và trái được tách riêng biệt bởi trung thất. Trong mỗi khoang màng phổi có một ít dịch khoảng 10ml để hai lá trượt lên nhau được dễ dàng. Lá tạng Lá tạng bao bọc xung quanh mặt phổi trừ ở rốn phổi. Ở rốn phổi, lá tạng quặt ngược lại, liên tiếp với lá thành, theo hình cái vợt mà cán ở dưới (tạo nên dây chằng phổi hay dây chằng tam giác). Lá tạng lách vào các khe liên thuỳ và ngăn các thuỳ với nhau. Mặt trong lá tạng dính chặt vào bề mặt phổi, còn ở mặt ngoài thì nhẵn, bóng và áp sát vào lá thành. Lá thành Bao phủ tất cả mặt trong của lồng ngực và liên tiếp với lá tạng ở rốn phổi và tạo nên dây chằng tam giác lúc nó đi từ rốn phổi đến cơ hoành. Lá thành quấn lấy phổi, dính vào các vùng xung quanh, chia thành từng vùng: - Màng phổi lá thành – thành ngực: bao phủ mặt trong thành ngực vùng xương sườn và vùng cơ gian suờn. - Màng phổi lá thành - cơ hoành: bao phủ mặt ngực của cơ hoành. - Màng phổi lá thành - đỉnh phổi: bao phủ mặt trong thành ngực vùng đỉnh phổi. 5 - Màng phổi lá thành - trung thất: bao phủ các tạng trong trung thất. Lá thành cùng với các cơ quan bao quanh phổi tạo nên các túi cùng (góc). Bao gồm: góc sườn hoành, góc sườn trung thất trước, góc sườn trung thất sau, góc hoành trung thất. Khoang màng phổi Khoang màng phổi hay khoang phế mạc là một khoang ảo. Lá thành và lá tạng của màng phổi áp sát vào nhau và có thể trượt lên nhau dễ dàng lúc hít vào hay thở ra do có một lớp dịch mỏng. Khi màng phổi bị viêm, mặt áp sát vào nhau của hai lá mất độ nhẵn và cọ lên nhau hoặc hơn nữa khi ổ phế mạc trong tình trạng bệnh lý có thể có dịch, mủ, máu, hoặc hai lá dính vào nhau làm bệnh nhân khó thở và đau [6], [7], [8]. Bình thường khoang màng phổi có áp lực âm (-7 đến -4mmHg) [9], nhưng vì một lý do nào đó làm mất áp lực âm ở khoang màng phổi, nhu mô phổi sẽ bị xẹp lại. Do lá tạng bao phủ nhu mô phổi tới tận các rãnh liên thùy nên từng thùy riêng biệt có thể xẹp tuỳ theo mức độ. Nếu mức độ nặng, nhu mô phổi sẽ bị xẹp hoàn toàn và co rúm về phía rốn phổi. 1.1.2. Mô học màng phổi Cấu trúc của màng phổi dưới kính hiển vi quang học là màng liên kết từ trong ra gồm 5 lớp (Hình 1) [10]: - Lớp biểu mô (còn gọi là lớp trung biểu mô vì có nguồn gốc từ trung bì): lớp này gồm các tế bào tựa lên một đáy dày 500 - 600 angstron, phía khoang màng phổi bào tương các tế bào nhô thành các lông dài 0,5 - 3m. - Lớp liên kết dưới trung mô: là lớp liên kết mỏng chứa các sợi liên võng và sợi chun mảnh, không có tế bào và mạch máu. Trong trường hợp bệnh lý, lớp này dày lên và tăng sinh nhiều mạch máu. 6 - Lớp sợi chun nông: gồm những sợi chun, sợi lưới và các bó tạo keo. - Lớp liên kết dưới màng phổi: giàu tế bào, mạch máu, mạch bạch huyết, thần kinh, cấu trúc lỏng lẻo, dễ tách. - Lớp xơ chun sâu: lớp này dầy hơn lớp dưới biểu mô, bao phủ phổi và thành ngực. Phía trong tiếp giáp với mô liên kết kém biệt hoá chứa nhiều mạch máu và mô bào [10]. Tế bào mỡ Tế bào mỡ Mao mạch Thần kinh Mạch bach huyết Hình 1.1: Cấu trúc của màng phổi dưới kính hiển vi quang học [10]. 1) Lớp biểu mô 2) Lớp liên kết dưới trung mô 3) Lớp sợi chun nông 4) Lớp liên kết dưới màng phổi 5) Lớp xơ chun sâu 7 Độ dày của màng phổi thay đổi tùy từng vùng nhưng trung bình khoảng 40 Mm. màng phổi lá tạng vùng đỉnh phổi thường mỏng hơn và là nơi thường hình thành bóng kén khí ở bệnh nhân COPD. Trong khi, màng phổi lá tạng vùng đáy phổi dày hơn do lớp biểu mô là những tế bào hình trụ có nhiều lông chuyển kèm theo sự tăng sinh collagen và sợi đàn hồi ở vùng này. Màng phổi lá thành có cấu trúc hơi khác nhau tùy từng vùng. Ví dụ, vùng MP phủ bên dưới xương sườn mỏng do lớp trung biểu mô dẹt, có ít lông chuyển và lớp dưới biểu mô mỏng. Trong khi, vùng màng phổi bao phủ những tổ chức lỏng lẻo như trung thất thì có lớp trung biểu mô hình trụ, lớp hai và lớp ba dày hơn và lớp năm gần như hòa vào lớp bốn [10]. 1.1.3. Hệ thống mạch máu, bạch huyết và thần kinh của màng phổi Màng phổi lá thành được nuôi dưỡng bởi các nhánh động mạch tách ra từ động mạch liên sườn, động mạch vú trong và động mạch hoành. màng phổi lá tạng được nuôi dưỡng bằng hệ thống các mao mạch của động mạch phổi. Bạch huyết của màng phổi lá thành đổ về các hạch bạch huyết của trung thất dưới qua hạch trung gian là chuỗi hạch vú trong. Mạng lưới bạch huyết của màng phổi lá tạng đổ về các hạch vùng rốn phổi qua các hạch trung gian là hạch liên sườn. Qua hệ thống cấp máu và mạng lưới bạch huyết của màng phổi, những khối u ở vị trí lân cận như ung thư phổi, ung thư vú…có thể dễ dàng di căn màng phổi gây TDMPAT thứ phát. Chỉ màng phổi lá thành mới có các sợi thần kinh cảm giác, các nhánh này tách ra từ các dây thần kinh liên sườn. Trong bệnh lý viêm màng phổi hoặc TDMP… sẽ kích thích vào đầu các dây thần kinh cảm giác ở lá thành màng phổi và gây triệu chứng đau trên lâm sàng [8], [9],[10]. 8 1.1.4. Sinh lý học màng phổi Màng phổi giữ một vai trò quan trọng trong sinh lý hô hấp, cũng là nơi trao đổi, vận chuyển dịch và tế bào. Nó tham gia vào phản ứng miễn dịch và phản ứng viêm để đáp ứng với mọi tấn công của môi trường bên ngoài cũng như bên trong. DMP sinh lý sản sinh chủ yếu từ các hệ thống mao quản ở lá thành. Thể tích DMP sinh lý là 1 - 10 ml hoặc 0,1 - 0,2 ml/kg cân nặng cơ thể. Nồng độ protein trong DMP sinh lý xấp xỉ khoảng 1 - 2g/dl. Sự kiểm soát dịch, các protein và các hạt trong khoang màng phổi chủ yếu do màng phổi lá thành, nhờ có mạng bạch huyết lưu thông thẳng với khoang màng phổi. Bình thường quá trình bài tiết dịch thấm và tái hấp thu dịch ở màng phổi được cân bằng để đảm bảo cân bằng động thể tích và thành phần DMP. Bạch huyết của màng phổi lá thành có vai trò chính trong hấp thu DMP và các hạt có kích thước bằng hồng cầu vào trong hệ tuần hoàn. Khả năng dẫn lưu của hệ thống bạch huyết thay đổi từ vài chục ml đến 600 ml trong 24 giờ. Sự mất cân bằng giữa quá trình bài tiết và tái hấp thu DMP, sự cản trở lưu thông của hệ bạch huyết màng phổi sẽ gây TDMP [9]. Sự tuần hoàn của DMP được thực hiện nhờ các cơ chế sau: hiện tượng chênh áp từ phía áp lực cao của hệ thống mạch máu màng phổi lá thành về phía áp lực thấp của hệ thống mạch máu màng phổi lá tạng, áp lực thẩm thấu riêng phần DMP và tuần hoàn bạch huyết đổ về phía các lỗ bạch huyết của màng phổi lá tạng hay của cơ hoành. Lưu lượng bạch huyết góp phần quan trọng trong việc điều hòa lượng dịch trong khoang màng phổi, lưu lượng này bị giảm đi nhiều trong các tình trạng bệnh lý [11]. 9 1.2. Các phương pháp chẩn đoán TDMP 1.2.1. Xquang chuẩn Chụp XQ lồng ngực thẳng và nghiêng là xét nghiệm quan trọng nhất để chẩn đoán xác định TDMP, nếu có thể phải được thực hiện ở tư thế đứng và bao gồm phim thẳng và phim nghiêng. Nói chung, một TDMP số lượng lớn biểu hiện bằng hình mờ tỷ trọng dịch đồng nhất ở phía thấp, không co rút, giới hạn trên là hình lõm quay bề mặt lõm về phía trong và lên trên (đường cong Damoiseau). Thường kéo dài lên trên bới một đường bờ lách. Trong trường hợp TDMP nhiều, một nửa phổi mờ, cùng với sự di lệch về phía bên đối diện của trung thất. Nếu TDMP số lượng ít, chỉ thấy mờ góc sườn hoành (túi cùng), đôi khi nhì rõ hơn trên phim nghiêng, ở vị trí sau. Phim chụp ở tư thế năm nghiêng, về phía bên bệnh, cho phép xác định hình thái dốc của hình mờ trên XQ, đặc điểm của hình mờ, đánh giá tốt những TDMP ở mức độ vừa phải. Đôi khi TDMP khu trú (TDMP trên cơ hoành) gây ra các khó khăn trong chẩn đoán. Các căn cứ cho chẩn đoán là sự nhô cao về một phía của vòm hoành, sự di chuyển đỉnh của vòm hoành từ khu vực giữa sang một phần ba ngoài, một hình phẳng của vòm hoành, không quan sát thấy các mạch máu của thùy dưới phổi dưới vòm hoành. Nếu TDMP ở bên T, có một sự tăng khoảng cách từ vòm hoành tới túi hơi dạ dày. TDMP thể lách biểu hiện như một hình mờ dạng phình và đồng nhất, hình thoi đối diện thành của lách. 10 TDMP thể trung thất biểu hiện trung thất giãn rộng không cân xứng. Có thể là một dải mờ trồng lên trục dọc của trung thất hoặc hình mờ tam giác ở trung thất dưới. TDMP rãnh liên thùy thường khó quan sát thấy trên phim thẳng vì nó biểu hiện như một hình dày lên. Khi dịch khu trú ở gian thùy phổi, một hình thái giả khối u sẽ được biểu hiện trên phim thẳng bằng một hình mờ oval xung quanh mờ nhiều đến ít. Trên phim nghiêng, hình thoi hoặc thấu kính lồi. Trong trường hợp có hiện tượng dày dính giữa hai lá màng phổi trong khoang màng phổi, giới hạn của dịch là ở nhiều thùy phổi hoặc dạng hình thoi hoặc có hình đường zic-zac về phía nhu mô phổi đối diện. 1.2.2. Siêu âm Siêu âm giúp xác định có hay không có DMP đồng thời xác định vị trí chọc hút DMP chính xác trong những trường hợp dịch khu trú, ít, vị trí sinh thiết hay đặt ống dẫn lưu màng phổi, phân biệt dịch và dầy dính màng phổi, ước lượng mức độ TDMP, phân biệt giữa abcess phổi và hình dịch khu trú của màng phổi. Đây là phương tiện đơn giản, giá thành rẻ, dễ sử dụng, và không xâm lấn nên được ứng dụng rộng rãi. 1.2.3. Chụp CLVT Chụp CLVT là phương pháp hiện đại không chỉ xác định được sự xuất hiện của dịch trong khoang màng phổi mà còn giúp xác định các bất thường của nhu mô phổi mà không nhìn thấy được trên Xquang thường do dịch che mờ. Phân biệt hình khí dịch thuộc nhu mô hay màng phổi. Đánh giá chính xác dày màng phổi. Tuy nhiên dựa vào tỷ trọng của hình ảnh trên CT Scanner không phải luôn đủ đặc hiệu để phân biệt tổn thương nhu mô, khối đông đặc, dịch thanh tơ, dịch mủ hay máu. 11 1.3. Chẩn đoán nguyên nhân TDMP 1.3.1 Xét nghiệm dịch màng phổi Chọc dò DMP để xét nghiệm là một trong các phương pháp đầu tay trong việc định hướng chẩn đoán căn nguyên gây TDMP, đây là một kỹ thuật đơn giản rẻ tiền và không có chống chỉ đinh tuyệt đối. Chọc hút dẫn lưu DMP cũng được thực hiện để điều trị trong trường hợp DMP nhiều. Để tránh phù phổi không nên chọc tháo DMP quá nhanh (dưới 1,5l/ lần). Chống chỉ định tương đối: - Rối loạn đông máu nặng - Dịch quá ít - Thông khí nhân tạo - Nhiễm trùng da vùng chọc dò (zona thần kinh) Biến chứng: - Đau vùng chọc dò - Chảy máu - TKMP - Chọc vào gan và lách - Viêm mủ màng phổi - Cường phế vị - ngất Nhận xét sơ bộ về màu sắc, độ dính của DMP có ý nghĩa định hướng chẩn đoán: - Bình thường: dịch màu vàng chanh - Dịch máu mà không liên quan đến chấn thương gới ý bệnh lý ung thư - Dịch màu trắng đục có thể do dịch bạch huyết, cholesterol hoặc mủ. - Dịch màu nâu đen có thể xuất hiện khi có áp xe gan vỡ lên cơ hoành 12 - Dịch màu đen gợi ý nhiễm trùng aspergilus - Dịch màu xanh vàng: TDMP trong dạng viêm khớp dạng thấp - DMP dính, nhớt: ung thư trung biểu mô Xét nghiệm tế bào DMP Việc xét nghiệm tế bào DMP không chỉ đánh giá được thành phần và số lượng tế bào trong DMP mà còn phát hiện các tế bào bất thường trong DMP. TDMP dịch tiết thường có số lượng bạch cầu trên 10 000/ml. Bạch cầu đa nhân trung tính thường chiếm ưu thế trong những trường hợp TDMP dịch tiết đặc biệt trong các trường hợp TDMP do viêm phổi, viêm tụy hay tắc mạch phổi. Tuy nhiên vẫn có khoảng 10% DMP dịch thấm có bạch cầu trung tính chiếm ưu thế [12]. Tỷ lệ bạch cầu lympho trên 85% gợi ý nhiều đến TDMP do lao. Tuy nhiên, một số trường hợp cũng gặp tỷ lệ bạch cầu lympho tăng lên rất cao như u lympho, bệnh sarcoidosis. Bạch cầu ái toan trong DMP xuất hiện sau khi khoang MP tiếp xúc với không khí hoặc máu [13]. Tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng trên 10% gặp trong nhiều bệnh lý khác nhau như các bệnh lý liên quan đến áp xe hay những trường hợp liên quan tới sử dụng thuốc như dantrolen, bromocriptine, bệnh lý sán, amíp, hội chứng Churg-Strauss [14]. Tế bào trung biểu mô Là các tế bào trung biểu mô màng phổi bong ra và ít xuất hiện trong DMP. Các tế bào màng phổi xuất hiện trong các trường hợp TDMP dịch tiết. Tế bào trung biểu mô dạng hoạt động dễ nhầm lẫn với tế bào ác tính. Các xét nghiệm sinh hóa DMP Việc định lượng protein và LDH trong DMP giúp phân biệt DMP dịch thấm và dịch tiết nhưng không giúp phân biệt các nguyên nhân trong DMP 13 dịch tiết. Trong trường hợp DMP đủ tiêu chuẩn dịch tiết theo giá trị LDH (tiêu chuẩn Light), nhưng không đạt tiêu chuẩn dịch tiết về giá trị Protein (tiêu chuẩn Light), những trường hợp này thường do DMP do viêm phổi hoặc do bệnh lý DMP ác tính [15]. Giá trị LDH là một chỉ số tin cậy đánh giá mức độ viêm của MP, giá trị LDH càng cao, mức độ viêm DMP càng rộng. Sự có mặt của hồng cầu trong DMP không làm thay đổi nhiều giá trị của LDH [16]. Các xét nghiệm sinh hóa khác về DMP: Tăng nồng độ amylase trong DMP có thể gặp trong các trường hợp TDMP do viêm tụy cấp, nang giả tụy, TDMP do vỡ thực quản, khối u trong hoặc ngoài tử cung [11]. TDMP dưỡng chấp được chẩn đoán khi định lượng nồng độ triglyceride trong DMP trên 100mg/dl. Một số marker khác trong DMP cũng được định lượng song ít được ứng dụng trên lâm sàng như tỷ lệ lysozyme và B2 – microglobulin trong DMP tăng trong các trường hợp lao, các bệnh lý mạn tính hoặc TDMP liên quan đến ung thư. Hoạt độ của ADA (adenosine deaminase) cũng tăng trong các trường hợp trên, các bệnh nhân có hoạt độ ADA > 50UI/l có thể giúp phân biệt TDMP do lao và TDMP do ung thư nhưng không thể loại trừ đươc các trường hợp tràn mủ màng phổi và TDMP trong viêm khớp dạng thấp [11]. Xét nghiệm vi sinh vật DMP Các XN nhuộm soi hoặc nuôi cấy vi khuẩn ưa khí, kỵ khí và vi khuẩn lao được thực hiện với DMP. Có ý kiến cho rằng cần có sự chọn lọc khi làm XN DMP dựa trên triệu chứng lâm sàng, đặc điểm của DMP để có định hướng xét nghiệm vi sinh vật của DMP. Các xét nghiệm vi sinh DMP đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán căn nguyên gây TDMP đặc biệt trong các trường hợp tràn mủ màng phổi hoặc TDMP do lao. Tỷ lệ dương tính khi nuôi 14 cấy vi khuẩn trong DMP là khác nhau trong nhiều nghiên cứu. Barnes TW và cộng sự làm nghiên cứu nuôi cấy vi sinh vật từ bệnh phẩm DMP trên 476 bệnh nhân TDMP thấy có 15 trường hợp (3%) nuôi cấy dương tính [17]. Ngược lại, nghiên cứu của Ferrer và cộng sự lại có xu hướng ngược lại, nghiên cứu trên 245 bệnh nhân có tới 15% bệnh phẩm dương tính, và 60% trường hợp dương tính thì ở bệnh phẩm không mủ [18]. Tìm tế bào ung thư trong dịch màng phổi Tỷ lệ tìm thấy tế bào ung thư trong DMP chỉ vào khoảng 60% đối với các trường hợp TDMP do ung thư di căn và chỉ đạt dưới 30% nếu là TDMP do ung thư trung biểu mô màng phổi. Chẩn đoán tế bào học phết lam thông thường có độ nhạy thấp do các tế bào thường bị chồng lên nhau hoặc bị mất đi trong quá trình thực hiện kỹ thuật. Kỹ thuật khối tế bào (cell block) là một phương pháp có nhiều giá trị trong chẩn đoán căn nguyên gây TDMP đặc biệt là trong TDMP do ung thư. Nếu chọc hút tế bào làm phiến đồ đơn thuần xác định được 67% các trường hợp TDMPAT, nếu kết hợp với kỹ thuật khối tế bào thì có thể xác định được khoảng 83%. Giá trị chẩn đoán của phương pháp khối tế bào cao hơn so với phương pháp thông thường do lưu giữ được những mảnh cấu trúc mô tốt hơn, đồng thời có thể áp dụng được nhuộm đặc biệt, nhất là hóa mô miễn dịch. 1.3.2. Các kỹ thuật xâm nhập Sinh thiết màng phổi kín Sinh thiết màng phỏi bằng kim được đặt ra trong các trường hợp TDMP dịch tiết, không được chỉ định trong trường hợp TDMP dịch thấm và TDMP dịch mủ. Biện pháp này giúp lấy được mô màng phổi trong 85% trường hợp. Trước khi tiến hành STMP kín cần phải tiến hành các xét nghiệm về đông 15 máu để đảm bảo PT > 60% và số lượng tiểu cầu > 40 000 G/l. Có 2 loại kim sinh thiết thường được sử dụng là kim Abrams và kim Castelain. Các biến chứng của STMP kín: - TKMP 3-15% - Đau 1-15% - Phản ứng phế vị: 1-5% - Chảy máu màng phổi: 2% - Sốt phản ứng, tụ máu, nhiễm trùng, tắc mạch khí (<1%) Nếu bệnh phẩm là mô màng phổi, sẽ có bốn khả năng về mặt kết quả mô học: - Bình thường - Viêm không đặc hiệu - Viêm lao - Hình ảnh ung thư Sự xuất hiện của các u hạt gợi ý mạnh mẽ đến tổn thương lao, ngoài ra có thể gặp trong một số trường hợp bệnh lý sarcoidose nhưng tỷ lệ rất hiếm. Khả năng chẩn đoán lao khi STMP kín là từ 70 đến 80%. Độ nhạy của STMP kín trong bệnh lý ác tính là thấp: 40% đến 55%. Đối với các ung thư nguyên phát màng phổi là chỉ 10% đến 20 %. Kết quả viêm không đặc hiệu gặp trong 50 đến 70 % các trường hợp. Khi đó thì NSMP được đặt ra để xác định chẩn đoán. Sinh thiết màng phổi kín dưới hướng dẫn siêu âm, CLVT Dưới sự hỗ trợ của các phương tiện chẩn đoán hình ành như siêu âm, chụp cắt lớp vi tính, các bác sỹ lâm sàng có thể phát hiện các tổn thương màng phổi như dày màng phổi khu trú, màng phổi vách hóa, khối u màng phổi một cách 16 chính xác qua đó lựa chọn vị trí STMP thích hợp để làm tăng khả năng chẩn đoán căn nguyên gây TDMP và giảm tỷ lệ tai biến sau sinh thiết. Tương tự như siêu âm, chụp CLVT cũng giúp phát hiện được những tổn thương kết hợp và làm tăng tỷ lệ chẩn đoán ở những bệnh nhân có dày màng phổi trên chụp CLVT ngực. Theo Metintas và cộng sự, độ nhạy trong chẩn đoán của STMP dưới hướng dẫn của CLVT là 87,5% so với NSMP là 94,1%. Vì thế STMP dưới hướng dẫn CLVT có thể là một phương pháp được áp dụng trong những trường hợp có dày màng phổi [19]. 1.4. Tổng quan về nội soi màng phổi 1.4.1. Lịch sử NSMP NSMP được thực hiện lần đầu tiên năm 1911 bởi Han Jacobaeus (người Thuỵ Điển) ở Stockholm. Han Jacobaeus đã sử dụng ống soi bàng quang để làm NSMP. Năm 1910 - 1925 Han Jacobaeus đã báo cáo 120 trường hợp cắt dây chằng khi trình bày kinh nghiệm về NSMP để chẩn đoán u màng phổi. Từ đó cho đến năm 1950, NSMP chỉ sử dụng để cắt dây chằng. Ảnh 1.1: Jacobaeus H.C đang tiến hành một ca NSMP 17 Cho đến những năm 1974 - 1977 Swierenga J và cộng sự đã có kinh nghiệm hơn 1000 trường hợp NSMP trong đó 317 trường hợp là TDMP [20]. Từ năm 1980 đến 1990 thì người ta thấy có một sự bùng nổ các công trình về chẩn đoán TDMP do lao, TDMP do ung thư hay TKMP bằng kỹ thuật NSMP. Từ những năm 1980 đến nay người ta đã phát triển những dụng cụ và phương pháp mới để NSMP. Hệ thống 2 Trocar (2 cửa vào) dùng ống NSMP cứng với hệ thống quang học sợi mềm: dùng ống soi phế quản sợi mềm đưa qua ống NSMP và dùng ống soi cứng kiểu mới (Karl storz): dùng thấu kính Hopkins, điện cực cầm máu đốt điện. Hiện nay NSMP gắn với video và soi lồng ngực phẫu thuật để chẩn đoán được chỉ định ngày càng rộng rãi, khi STMP bằng kim không đạt được hiệu quả chẩn đoán. Từ những năm 1990, với sự phát triển của các công cụ nội soi và video hỗ trợ, NSMP dưới sự hỗ trợ của video (VATS) đã được sử dụng rộng rãi bởi các nhà phẫu thuật trong điều trị các bệnh màng phổi như một phẫu thuật riêng biệt thay thế cho mở lồng ngực. Trước kia người ta phân chia NSMP ra thành hai loại NSMP nội khoa và NSMP phẫu thuật (VATS). Đặc điểm của nội soi màng phổi nội khoa là được tiến hành bằng gây tê tại chỗ với mục tiêu chủ yếu là để chẩn đoán. Trong khi đó nội soi màng phổi phẫu thuật (VATS) là một quy trình phẫu thuật riêng biệt được tiến hành bằng gây mê toàn thân và thông khí một phổi nhằm phục vụ cho các mục đích điều trị. Tuy nhiên với quan điểm hiện tại thì thuật ngữ NSMP nội khoa không còn được ủng hộ bởi nhiều tác giả trên thế giới. NSMP dù với mục đích là chẩn đoán hay điều trị thì đều là các thủ thuật xâm lấn. Hơn nữa, các nhà hô hấp nội khoa có thể tiến hành NSMP với các mục đích chẩn đoán cũng như điều trị dưới hình thức gây tê tại chỗ cũng như gây mê toàn thân [21], [5], [22], [23]. 18 1.4.2. Chỉ định và chống chỉ định của NSMP Chỉ định [24], [25], [26] - NSMP chẩn đoán: + TDMP dịch tiết chưa rõ nguyên nhân. + Đánh giá giai đoạn của UT phổi hoặc UT trung biểu mô. + Đánh giá TKMP. + Xác định các receptor hormon trong ung thư vú và tổn thương mô bệnh học trong viêm màng phổi do lao. + Bệnh phổi lan tỏa. + Các tổn thương khu trú trên thành ngực hoặc phổi. - NSMP điều trị: + Gây dính màng phổi trong điều trị tràn dịch màng phổi ác tính (TDMPAT). + Gây dính màng phổi trong điều trị TDMP lành tính nếu DMP nhiều và tái phát nhanh. + Tràn mủ giai đoạn sớm. + TKMP tự phát thứ phát hoặc TKMP tự phát nguyên phát tái phát. Chống chỉ định [24], [25], [26] - Chống chỉ định tuyệt đối : + Rối loạn đông máu không kiểm soát được. + Khoang màng phổi bị dính do các nguyên nhân khác nhau + Tắc nghẽn tĩnh mạch chủ trên. - Chống chỉ định tương đối: + Bệnh nhân ho nhiều không kìm chế được (với NSMP vô cảm bằng gây tê tại chỗ). 19 + Bệnh nhân không thể nằm trên mặt phẳng trong 1 giờ. + Tình trạng tim mạch và huyết động không ổn định + Tăng áp lực động mạch phổi + Thể trạng suy kiệt 1.4.3. Kỹ thuật NSMP Chuẩn bị bệnh nhân Trước khi tiến hành NSMP bệnh nhân phải được chụp XQ phổi chuẩn, chụp cắt lớp ngực nếu có điều kiện, các xét nghiệm chuẩn bị mổ. Một ngày trước khi NSMP, tiến hành hút tháo DMP bên định NSMP (với bệnh nhân có TDMP số lượng lớn). Hoặc bơm hơi vào màng phổi (với bệnh nhân TDMP ít, có dính màng phổi), lượng khí bơm vào khoảng 300500ml. Sau đó chụp lại XQ phổi để kiểm tra lại kích thước khoang chứa khí trong màng phổi. Chuẩn bị dụng cụ - Ống NSMP, camera, nguồn sáng nối với màn hình và ống nội soi. - Các dụng cụ dùng trong NSMP: Đầu đốt điện, hệ thống hút và các ống hút, trocar, kìm sinh thiết. - Các dụng cụ khác: Bơm kim tiêm, ống dẫn lưu khoang màng phổi... Kỹ thuật NSMP Boutin C (1991) đã mô tả khá tỷ mỉ soi màng phổi với một cửa vào cùng với các hình thái nội soi bình thường và các hình thái tổn thương như viêm màng phổi không đặc hiệu và các tổn thương đặc hiệu, đồng thời mô tả kỹ thuật soi với 2 cửa vào để cắt dây chằng, sinh thiết màng phổi và phổi. Trong một số trường hợp sử dụng laser để làm đông khô màng phổi hoặc phổi. Ngày nay NSMP có thể được thực hiện với sự hỗ trợ của video. 20 Bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm nghiêng sao cho khoang màng phổi được mở rộng tối đa. Sau khi gây mê hoặc gây tê chọc kim vào màng phổi hút khí kiểm tra trước. Rạch da dài 1,5 - 2 cm, rồi bóc tách ở gian sườn 4 trên đường nách giữa, vị trí này nhìn rõ nhất các cấu trúc trong lồng ngực. Có tác giả thì đưa ống soi ở giữa lồng ngực đường nách sau. Sau khi đưa ống soi vào khoang màng phổi chúng ta quan sát đánh giá, sinh thiết những vùng tổn thương nghi ngờ, có thể kết hợp với chẩn đoán cắt lạnh để có hướng xử trí phù hợp. Hình ảnh đại thể trên NSMP Màng phổi bình thường: trong trạng thái bình thường, màng phổi nhẵn bóng và có thể quan sát được các cấu trúc bên trong màng phổi như xương sườn, mạch máu của lá thành, động mạch liên sườn, tổ chức xơ mỡ, dây chằng, đôi khí còn có thể thấy các mạch bạch huyết. Viêm màng phổi do lao: các hình ảnh thường gặp trong viêm màng phổi do lao là màng phổi dày dính, vách hóa, xung huyết, nhiều tổn thương hạt nhỏ trắng rải rác hoặc những cục lao nhuyễn hóa bã đậu. Ung thư màng phổi: các tổn thương có thể quan sát thấy trong ung thư màng phổi tiên phát hoặc nguyên phát là các khối u tròn nhăn, u dạng quả dâu, u sùi, mảng sùi, các tổn thương nốt đa dạng. Màng phổi cũng có thể dày dính, vách hóa. Các kỹ thuật sử dụng trong khi NSMP Đầu tiên, có thể tiến hành sinh thiết màng phổi tại những vị trí tổn thương nghi ngờ sau khi đã quan sát đầy đủ các tổn thương trên màng phổi. Qua NSMP người ta có thể tiến hành gây dính màng phổi bằng các chất hoá học (bột talc, Iodopovidone). Bên cạnh đó cũng có thể tiến hành thắt, đốt các bóng khí để ngăn ngừa TKMP tái phát, hoặc bóc tách các mảng fibrin, hút mủ, rửa sạch khoang màng phổi trong tràn mủ màng phổi.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng