MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Tại các vùng biển đảo như Đảo Côn Sơn, nguồn nước sạch đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong sự phát triển toàn diện của đảo. Do nguồn nước mặt hạn
chế nên việc khai thác và cung cấp nguồn nước sạch phục vụ cho nhu cầu sinh
hoạt của cư dân trên Đảo Côn Sơn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước dưới đất
(NDĐ).
Nghĩa trang Côn Đảo có lịch sử hình thành lâu đời và là nghĩa trang lớn nhất
trên Đảo Côn Sơn. Do nghĩa trang nằm trong khu vực bao gồm các loại đất cát
bở rời, ngay trên tầng chứa nước mà không có lớp sét ngăn cách nên nước rỉ
xác từ nghĩa trang lan truyền ô nhiễm đến tầng chứa nước nằm bên dưới là có
thể xảy ra. Vì vậy, đề tài luận án “Nghiên cứu lan truyền ô nhiễm từ nghĩa
trang đến tầng chứa nước dưới đất – Áp dụng cho Đảo Côn Sơn, tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu” được hình thành nhằm đánh giá mức độ tác động của nghĩa trang
đến chất lượng nguồn NDĐ. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ đóng góp cơ sở
khoa học cho việc quản lý môi trường các nghĩa trang và góp phần bảo vệ môi
trường NDĐ tại và xung quanh khu vực các nghĩa trang.
2. Mục đích nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Xác định thông số lan truyền chất ô nhiễm vào dung dịch đất nghĩa trang;
- Đánh giá và dự báo mức độ lan truyền chất ô nhiễm phát thải từ nghĩa trang
đến tầng chứa NDĐ.
2.2. Ý nghĩa khoa học
- Bước đầu tiếp cận phương pháp xác định thông số lan truyền chất của một
tầng chứa nước lỗ hổng bằng thực nghiệm trong phòng thí nghiệm để làm dữ
liệu đầu vào cho một mô hình lan truyền chất trong điều kiện không có thí
nghiệm hiện trường.
- Vận dụng mô hình Hydrus 1D để tối ưu hóa việc tìm nghiệm bài toán phi
tuyến tính do phụ thuộc nhiều yếu tố (tham số).
1
- Sử dụng phần mềm GMS để mô phỏng hệ thống NDĐ cho một khu vực và có
thể vận dụng mô phỏng này để tìm lời giải bài toán lan truyền chất nhằm dự
báo ô nhiễm nguồn NDĐ cho các khu vực khác.
2.3. Ý nghĩa thực tiễn
- Phương pháp thực nghiệm được trình bày trong Luận án có thể ứng dụng,
thực hiện ở các khu vực khác có điều kiện địa chất thủy văn tương tự và chưa
có thí nghiệm hiện trường.
- Kết quả dự báo mức độ lan truyền chất amoni N-NH4+ là thông tin hữu ích
cho các nhà quản lý và quy hoạch định hướng khai thác sử dụng hợp lý tài
nguyên NDĐ trên địa bàn đảo Côn Sơn như: khoanh định vùng cấm và hạn chế
khai thác NDĐ, vùng bảo vệ vệ sinh, … theo Thông tư quy định của Bộ Tài
nguyên và Môi trường đã ban hành.
3. Phương pháp nghiên cứu
Hai phương pháp nghiên cứu trọng chính đã được dùng trong luận án là phương
pháp mô hình số và thực hiện thí nghiệm mô phỏng quá trình lan truyền chất
trong phòng thí nghiệm kết hợp phương pháp mô phỏng toán học trên phần
mềm GMS 10. Mô hình thu nhỏ trong phòng thí nghiệm được nghiên cứu sử
dụng để xác định các hệ số lan truyền chất trong dung dịch đất Côn Sơn với tỷ
lệ 1/30 so với công trình thực tế.
4. Đóng góp mới của luận án
(1) Xác định giá trị các thông số lan truyền chất hòa tan trong dung dịch đất
bằng phương pháp thực nghiệm trong quy mô phòng thí nghiệm kết hợp với
ước tính tối ưu thông số bằng mô hình Hydrus 1D.
(2) Đề xuất quy trình tổng quát xác định sự lan truyền ô nhiễm trong tầng chứa
nước dưới đất ở các khu vực khác.
6. Cấu trúc luận án
Luận án gồm có các phần: Mở đầu, 03 chương, kết luận và kiến nghị những
nghiên cứu tiếp theo. Tổng cộng có 139 trang, trong đó có 56 hình, 28 bảng
biểu và các công thức tính toán, phương trình phản ứng hóa học. Phần phụ lục
có 19 trang.
2
CHƯƠNG 1
1.1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Tổng quan các nghiên cứu về mô hình dòng chảy NDĐ
Để mô phỏng hệ thống NDĐ thì phương pháp mô hình toán thường được sử
dụng. Bên cạnh chức năng mô phỏng dòng chảy cho chuỗi thời gian hiện tại thì
các mô hình mô phỏng NDĐ còn có khả năng dự báo các thay đổi hay tác động
đến các tầng chứa NDĐ trong tương lai. Các mô hình toán được sử dụng để mô
phỏng dòng chảy NDĐ trong các nghiên cứu trong và ngoài nước bao gồm
MODFLOW, SEAWAT, FEFLOW, TGFM, GSFLOW và PHREEQC-2.
1.2
Tổng quan các nghiên cứu về lan truyền ô nhiễm từ nghĩa trang đến
tầng chứa nước dưới đất
Tại Việt Nam, thông tin về các nghiên cứu trong nước có liên quan đến vấn đề
ô nhiễm nguồn NDĐ tại các nghĩa trang hiện chưa được tìm thấy. Một số
nghiên cứu liên quan của các tác giả Nguyễn Thị Huyền Trang (2009), Nguyễn
Thị Vân Hà (2010), Huỳnh Ngọc Phương Mai và cộng sự (2012) là các nghiên
cứu ứng dụng mô hình toán (trong đó có sử dụng phần mềm GMS) để mô
phỏng quá trình di chuyển của các chất ô nhiễm trong NDĐ trong một khu vực
hay bãi chôn lấp cụ thể. Tuy nhiên, việc kế thừa các hệ số lan truyền chất có từ
các nghiên cứu ngoài nước làm dữ liệu ban đầu cho mô hình toán đã dẫn đến
kết quả bài toán mô phỏng lan truyền của các tác giả nêu trên có mức độ tin cậy
không cao.
Trên thế giới hiện có ít nghiên cứu cụ thể về tình trạng ô nhiễm của nghĩa trang
đến chất lượng của NDĐ. Các nghiên cứu trên thế giới về khả năng lan truyền ô
nhiễm trong các tầng chứa NDĐ xuất phát điểm từ các nghĩa trang tiêu biểu
như của tác giả Van Haaren F.W.J. (1951), Dent B. B và Knight M. J.
(1996,1998), Young C.P và cộng sự (1999), Environment Agency for England
and Wales (2004), Hart A. và Casper S. (2004), Sanaz Khorami Pour và Seyed
Mostafa Khezri (2010) phần lớn chỉ dừng lại ở việc khảo sát, phân tích chất
lượng NDĐ thực địa và xác định nguồn gốc, nguyên nhân gây ô nhiễm ngay tại
và xung quanh khu vực nghĩa trang và chưa ứng dụng cụ thể các biện pháp xử
lý chất ô nhiễm phát sinh từ nghĩa trang.
3
1.3
Tổng quan các nghiên cứu xác định các hệ số lan truyền chất hòa tan
trong dung dịch đất
Trên thế giới, việc xác định các hệ số lan truyền của các chất hòa tan khác nhau
trong các loại đất tương ứng khác nhau được ghi nhận từ thập kỷ 70-80 thế kỷ
20. Phương pháp xác định các hệ số này phần lớn là sự kết hợp giữa việc thực
hiện thí nghiệm lan truyền chất hòa tan trên các ống cột đất trong phòng thí
nghiệm hoặc ngay tại lỗ khoan hiện trường và sử dụng các phương pháp đo
lường hàng loạt hay phương pháp tính toán phần tử hữu hạn - sai phân hữu hạn
cũng như các phần mềm hỗ trợ tính toán.
Tuy nhiên, với đặc thù địa chất từng vùng nghiên cứu không giống nhau cũng
như sự khác biệt giữa các phương pháp đo lường hay phần mềm hỗ trợ tính
toán đã cho thấy khoảng giá trị của các hệ số lan truyền tương ứng khác nhau
ngay cả trên cùng một dạng chất hòa tan.
Tại Việt Nam, hiện chưa ghi nhận bất kỳ nghiên cứu nào trên một khu vực thực
địa cụ thể nhằm xác định các hệ số lan truyền chất trong dung dịch đất với
phương pháp thực nghiệm trên các cột đất kết hợp với sự hỗ trợ của phần mềm
tính toán hỗ trợ.
1.4
Đánh giá tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước
Nhìn nhận tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy:
- Việc ứng dụng mô hình toán trong mô phỏng dòng chảy NDĐ rất phổ biến và
có nhiều mô hình khác nhau đã được chọn lựa sử dụng để mô phỏng dòng chảy
NDĐ cho một vùng, một khu vực cụ thể. Với sự tích hợp của nhiều gói chức
năng hỗ trợ tiên tiến và phù hợp với mục tiêu nghiên cứu khả năng lan truyền ô
nhiễm từ nghĩa trang đến tầng chứa nước thì phần mềm GMS 10. được đề xuất
sử dụng trong Luận án.
- Số lượng hạn chế trong các nghiên cứu ô nhiễm nghĩa trang và sự tồn đọng
trong vấn đề giải quyết xử lý ô nhiễm nghĩa trang cho thấy vấn đề ô nhiễm
nghĩa trang chưa nhận được sự quan tâm thích đáng từ cộng động và xã hội.
- Liên quan đến bài toán ô nhiễm nghĩa trang, phần lớn các nghiên cứu ngoài
nước chỉ dừng lại ở việc khảo sát, phân tích chất lượng NDĐ thực địa và xác
định nguồn gốc, nguyên nhân gây ô nhiễm ngay tại và xung quanh khu vực
4
nghĩa trang. Tại Việt Nam, hiện chưa ghi nhận bất kỳ công trình nghiên cứu
nào liên quan đến nghĩa trang.
- Đối với vấn đề xác định các hệ số lan truyền chất hòa tan trong dung dịch đất,
phần lớn các nghiên cứu ngoài nước sử dụng phương pháp thực nghiệm lan
truyền chất hòa tan trong các ống cột đất hoặc trong lỗ khoan quan sát ngay tại
thực địa kết hợp với các phương pháp xác định mức độ hấp phụ và định lượng
nồng độ chất bị hấp phụ khác nhau - được ước tính theo phương pháp giải tích
hoặc ước tính trên các phần mềm hỗ trợ. Sự kết hợp giữa các phương pháp nêu
trên đã xác định được giá trị các hệ số lan truyền của các chất hòa tan khác
nhau, tương ứng với các đặc tính đất khác nhau.
Điểm khác biệt tạo nên tính mới của đề tài “Nghiên cứu lan truyền ô nhiễm từ
nghĩa trang đến tầng chứa nước dưới đất - áp dụng cho Đảo Côn Sơn, Côn Đảo,
Bà Rịa Vũng Tàu” so với các nghiên cứu trong và ngoài nước đó là xác định
được mức độ ô nhiễm, phạm vi và hướng lan truyền chất ô nhiễm phát thải từ
nghĩa trang đến NDĐ dựa trên cơ sở xác định cụ thể các hệ số lan truyền chất ô
nhiễm trong dung dịch đất pha cát như ở Côn Đảo bằng phương pháp thực
nghiệm kết hợp các mô hình toán.
Kết luận Chương 1
Đánh giá tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về ô nhiễm nghĩa trang
cho thấy bài toán ô nhiễm nghĩa trang chưa thu hút được sự quan tâm từ phía
các nhà khoa học đến cộng đồng. Tuy đã có số ít các công trình ngoài nước
nghiên cứu về lan truyền ô nhiễm từ nghĩa trang nhưng các nghiên cứu này
phần lớn là đưa những hệ số lan truyền giả định hoặc tham khảo từ nhiều nguồn
tài liệu khác nhau mà chưa xác định cụ thể các hệ số lan truyền phù hợp với
vùng nghiên cứu. Chính điều này đã đưa đến kết quả đánh giá mức độ ô nhiễm
tại các nghĩa trang thiếu tính chính xác và thiếu độ tin cậy. Nhìn nhận từ những
hạn chế của các nghiên cứu về ô nhiễm nghĩa trang đã được thực hiện, đề tài
nghiên cứu lan truyền ô nhiễm nghĩa trang đến các tầng chứa NDĐ áp dụng cho
Đảo Côn Sơn, Huyện Côn Đảo được hình thành.
5
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ NGHIÊN CỨU LÝ THUYẾT VÀ THỰC NGHIỆM
Mối liên hệ giữa các cơ sở nghiên cứu và hệ giữa các mô hình mô phỏng được
đề xuất sử dụng trong phạm vi đề tài được thể hiện ở Hình 2.1 và Hình 2.2.
Cơ sở
lý thuyết
Cơ sở
thực
nghiệm
Dòng chảy NDĐ
Mô hình MODFLOW
Lan truyền chất ô
nhiễm trong NDĐ
Mô hình RT3D
Phần mềm
Hydrus 1D
Xác định thực nghiệm các
hệ số lan truyền chất ô
nhiễm trong dung dịch đất
Thực nghiệm
lan truyền ô
nhiễm trên các
cột đất thực địa
Hình 2.1 Sơ đồ cơ sở nghiên cứu lan truyền ô nhiễm từ nghĩa trang đến NDĐ
Thông số
đầu vào
MODFLOW
Mô phỏng dòng
chảy NDĐ
Kết quả
Vận tốc
dòng chảy
Thông số
đầu vào
RT3D
Mô phỏng lan
truyền chất
Kết quả
HYDRUS 1D
Ước tính các thông số
lan truyền chất ô nhiễm
- Phân vùng cột áp
trong tầng chứa NDĐ
- Xác định hướng
dòng chảy NDĐ
- Phân vùng nồng độ ô
nhiễm từ nguồn thải
xuống tầng chứa NDĐ
- Xác định thời gian
lan truyền ô nhiễm và
phạm vi vùng ô nhiễm
Kết quả thực nghiệm
mô phỏng lan truyền
chất trên các cột đất
Hình 2.2 Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa các mô hình số trong Luận án
6
2.1 Cơ sở lý thuyết mô hình dòng chảy NDĐ
Mô hình dòng chảy NDĐ MODFLOW thuộc phần mềm GMS 10., được sử
dụng để mô phỏng sự thay đổi mực NDĐ và lưu lượng dòng chảy trong cân
bằng với điều kiện địa chất thủy văn được xác định trong mô hình và có thể mô
phỏng sự thay đổi này trong tương lai dựa vào sự thay đổi áp lực trong các tầng
chứa nước
Có 03 loại điều kiện biên chính được sử dụng trong mô hình bao gồm:
- Điều kiện biên loại I: là điều kiện biên mực nước được xác định trước .
- Điều kiện biên loại II: là điều kiện biên dòng chảy được xác định trước.
- Điều kiện biên loại III: là điều kiện biên lưu lượng trên biên phụ thuộc vào
mực nước.
2.2 Cơ sở lý thuyết mô hình lan truyền chất ô nhiễm
Mô hình RT3D thuộc phầm mềm GMS 10., là mô hình mô phỏng quá trình lan
truyền chất ô nhiễm trên cơ sở mô phỏng các quá trình đối lưu, phân tán và các
phản ứng hóa học xảy ra trong dung dịch đất và NDĐ dưới những điều kiện
thủy lực tổng quát. Điểm ưu việt của mô hình RT3D so với nhiều dạng mô hình
mô phỏng lan truyền ô nhiễm khác như MT3DMS, SEAM3D là chức năng
cung cấp gói phản ứng hóa học thích hợp với các dạng đa chất và đa dạng các
biện pháp xử lý chất ô nhiễm.
Kết quả mô phỏng của RT3D là xác định vùng thu giữ chất ô nhiễm và nồng độ
các chất nhiễm bẩn còn lại theo từng bước tính toán ở trạng thái cân bằng với
hệ thống dòng chảy NDĐ và điều kiện thủy hóa được xác định trong mô hình.
Các điều kiện mô hình
- Điều kiện ban đầu được viết dưới dạng:
C aqua . ( x, y, z, t ) C0aqua. ( x, y, z ) và C soil ( x, y, z, t ) C0soil ( x, y, z ) tại t = 0
Trong đó: C0aqua (x,y,z) và C0soil (x,y,z) : nồng độ của chất ô nhiễm hòa tan tại
thời điểm ban đầu trong tầng chứa nước và trong đất tương ứng (mg/m3).
- Điều kiện biên loại I: Là điều kiện nồng độ được xác định dọc theo biên trong
suốt thời gian thiết lập mô hình.
7
- Điều kiện biên loại II: Là điều kiện biên mà gradient nồng độ chất ô nhiễm
dC/dx được xác định dọc theo biên trong suốt thời gian tính toán mô hình.
- Điều kiện biên loại III: Là điều kiện biên mà giá trị nồng độ chất ô nhiễm dọc
theo biên và gradient nồng độ được xác định dọc theo biên.
2.3
Cơ sở lý thuyết mô hình Hydrus 1D
Hydrus 1D là mô hình mô phỏng: (1) dòng chảy NDĐ bão hòa một chiều, (2)
lan truyền nhiệt và (3) lan truyền chất hòa tan trong môi trường vật liệu có độ
rỗng ở cả điều kiện ổn định và nhất thời.
Một trong những ưu điểm nổi bật của Hydrus 1D là ước tính ngược thhông số
lan truyền chất theo thuật toán Marquardt-Levenberg. Quy trình ước tính các hệ
số lan truyền chất trong Luận án được thực hiện theo sơ đồ Hình 2.3.
Thí nghiệm lan
truyền chất
hòa tan
Kết quả
thí nghiệm
Thông số giả định ban đầu trong Hydrus 1D
(4) Đặc tính đất: α, n, l, Ksat theo phương trình
Van Genuchten
(5) Thông số dòng chảy NDĐ: 𝜆
(6) Thông số phản ứng: r0, 𝜆, F, Kd, β, η, ω, α
(1) Chuỗi giá trị nồng độ chất
hòa tan theo thời gian C(t)
(2) Giá trị đặc tính cơ lý hóa
của đất thực địa (gồm θs, θr,
n, ρb, TOC)
(3) Giá trị đặc tính hình học
của các cột đất thực địa (gồm
vào
chiều cao-đường kính cột đất
L-D)
Hình 2.3 Quy trình ước tính các hệ số
lan truyền chất
Kết thúc
Nhập vào
Hydus 1D - Quy trình ước tính ngược
Kết quả ước tính ngược
Tối ưu các thông số
(7) Đặc tính đất: θs, θr , α, n, l, Ksat
(8) Thông số dòng chảy NDĐ: 𝜆, D
Nhập
(9) Thông số phản ứng: Kd,, F, α
Nhập vào
Hydus 1D - Quy trình ước tính thuận
(Nhằm kiểm định kết quả tối ưu thông số)
Kết quả ước tính thuận
Chuỗi giá trị nồng độ chất hòa tan lan
truyền trong cột đất theo thời gian
So sánh kết quả ước tính thuận với kết quả
thí nghiệm dựa trên giá trị RSQUARE (R2)
8
2.4. Cơ sở thực nghiệm lan truyền chất hòa tan trên các cột đất thực địa
2.4.1. Mục tiêu thực nghiệm
- Xác định hệ số phân tán D trong dung dịch đất thông qua việc mô phỏng lan
truyền dung dịch natri clorua NaCl trong các cột đất Côn Sơn.
- Xác định hệ số phân vùng hấp phụ amoni Kd, hệ số chuyển đổi chất α và
thông số phân vùng hấp phụ F theo sự lan truyền của ion N-NH4+ - một thành
phần trong dung dịch amoni clorua NH4Cl (N-NH4+ được xác định là chất gây ô
nhiễm chính của tầng chứa NDĐ Côn Sơn).
2.4.2. Quy trình thực nghiệm lan truyền amoni
Các thí nghiệm được thực hiện trên 04 ống cột nhựa có D=9cm và chiều cao
H=70cm theo tỷ lệ thu nhỏ 1/30 so với chiều cao phẫu diện đất thực tế tại Trạm
quan trắc CS9 (xem Hình 2.4) - là trạm quan trắc NDĐ quốc gia nằm ngay phía
cổng nghĩa trang Côn Đảo.
Hình 2.3 Sơ đồ thí nghiệm lan truyền trên 04 ống cột
Các thí nghiệm được thực hiện tại phòng thí nghiệm theo trình tự các bước sau:
- Bước 1: nước thủy cục được bơm đẩy với tốc độ thấp vào mỗi ống cột trong
24 giờ để tạo môi trường vật liệu hoàn toàn bão hòa.
- Bước 2 - Bước thu nhận chuỗi giá trị nồng độ Cl- theo thời gian: dung dịch
natri clorua NaCl với nồng độ 5,8 g/l được bơm vào các ống cột..
9
- Bước 3: nước thủy cục được bơm lại vào các ống cột nhằm loại bỏ hoàn toàn
NaCl còn tồn đọng trong dung dịch đất.
- Bước 4 - Bước thu nhận chuỗi giá trị nồng độ N-NH4+ theo thời gian (trường
hợp 1): bơm dung dịch amoni clorua NH4Cl với nồng độ từ 4,84÷102,88 mg/l
và với lưu lượng không đổi là 20 ml/phút vào các ống cột thí nghiệm khác
nhau.
- Bước 5 - Bước thu nhận chuỗi giá trị nồng độ N-NH4+ theo thời gian (trường
hợp 2): định lượng sự ảnh hưởng của lưu lượng dòng chảy đối với nồng độ NNH4+ không đổi 100±2 mg/l và lưu lượng dòng chảy được sử dụng lần lượt là
10, 20 và 30 ml/phút.
Trong suốt quá trình thí nghiệm, pH và nhiệt độ dung dịch được duy trì ổn định
với giá trị pH = 7,8÷8,2 và t = 30ºC ± 2ºC.
Kết luận Chương 2
Trong phạm vi Luận án, phần mềm GMS 10. bao gồm các module MODFLOW
và RT3D được đề xuất sử dụng như một công cụ nghiên cứu lan truyền ô nhiễm
từ nghĩa trang đến tầng chứa NDĐ. Các cơ sở lý thuyết về dòng chảy NDĐ, lan
truyền chất ô nhiễm hòa tan trong NDĐ và các mô hình mô phỏng lan truyền ô
nhiễm đóng vai trò là cơ sở khoa học trong việc thiết lập mô hình mô phỏng lan
truyền chất ô nhiễm phát thải từ nghĩa trang và hiệu chỉnh - kiểm định các mô
hình mô phỏng.
Cơ sở thực nghiệm các thí nghiệm là các yêu cầu quan trọng để có thể tiến hành
thí nghiệm. Từ các kết quả thí nghiệm lan truyền 1D trên các cột đất, phần mềm
Hydrus 1D được đề xuất sử dụng để ước tính thành các hệ số lan truyền chất ô
nhiễm hòa tan cần thiết. Giá trị của các hệ số này là dữ liệu mới, quan trọng và
giúp gia tăng độ tin cậy của bài toán mô phỏng hóa lan truyền ô nhiễm và xử lý
ô nhiễm tại nghĩa trang áp dụng cho nghĩa trang Côn Đảo so với các nghiên cứu
ngoài nước trước đây về ô nhiễm nghĩa trang.
10
CHƯƠNG 3 ÁP DỤNG NGHIÊN CỨU CHO NGHĨA TRANG CÔN
ĐẢO, ĐẢO CÔN SƠN, HUYỆN CÔN ĐẢO, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU
3.1
Tổng quan vùng áp dụng nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Đảo Côn Sơn là đảo lớn nhất thuộc huyện Côn Đảo có diện tích 51,52km2,
chiều dài khoảng 15km, chiều ngang chỗ rộng nhất là 9km, chỗ hẹp khoảng
1km. Địa hình Côn Đảo chủ yếu là đồi núi. Độ cao thay đổi từ 2 mét đến 577m,
độ cao trung bình 200÷300m với các kiểu hình thái địa mạo: núi, đồi, các bậc
thềm bóc mòn và địa hình tích tụ. Khí hậu đảo Côn Sơn mang tính chất khí hậu
biển trên nền khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Côn Đảo có 3 phân vị địa tầng địa chất thủy văn: tầng Holocen (qh), tầng
Pleistocen (qp) và các thành tạo địa chất nghèo nước hoặc không chứa nước
(Mz). Trong đó tầng Pleistocen (qp) là tầng phục duy nhất cho nhu cầu khai
thác và sinh hoạt của cư dân Đảo Côn Sơn.
Trong hầu hết các lỗ khoan nghiên cứu, lớp cát hạt mịn chiếm tới 70%, cát
trung thô chiếm tỷ lệ nhỏ. Cát hạt mịn có mức độ đồng nhất khá cao. Hiện nay
tất cả các giếng đều khai thác từ tầng này.
3.1.2. Tổng quan về chất lượng nguồn nước tại Thung lũng Côn Sơn
Kết quả phân tích hóa lý chất lượng NDĐ tại 12 trạm quan trắc NDĐ thuộc
Thung lũng Côn Sơn từ 2005-2015 cho thấy phần lớn các chỉ tiêu phân tích
chất lượng NDĐ tại các trạm quan trắc trong 10 năm quan trắc cho kết quả đạt
quy chuẩn QCVN 09:2015/BTNMT. Tuy nhiên vẫn có một số chỉ tiêu vượt quy
chuẩn, trong đó nồng độ N-NH4+ được ghi nhận vượt quy chuẩn trong nhiều
năm tại các trạm quan trắc và một số chỉ tiêu vượt quy chuẩn khác như COD,
nitrit cũng được ghi nhận có giá trị gia tăng đột biến, nhưng các chỉ tiêu này có
giá trị vượt chuẩn trong một khoảng thời gian ngắn hoặc không được ghi nhận
đầy đủ số liệu, do đó không đủ cơ sở khoa học để tiến hành nghiên cứu chuyên
sâu.
Kết quả phân tích chất lượng nước mặt cho thấy, nước mặt ở Hồ Quang Trung
và Hồ An Hải, vào mùa mưa và mùa khô đều có chỉ tiêu BOD5 vượt qua giới
11
hạn cho phép nên cần xử lý trước khi sử dụng cho mục đích sinh hoạt. Với kết
quả trên có thể nhận thấy khả năng thấm dòng ô nhiễm nước mặt từ các hồ hay
bổ cập ô nhiễm từ hồ xuống tầng chứa nước Pleistocen của Thung lũng là
không cao.
3.1.3 Hiện trạng ô nhiễm tại nghĩa trang Côn Đảo
Với vị trí nằm phía trước cổng nghĩa trang Côn Đảo và thuận theo hướng dòng
chảy NDĐ của toàn Thung lũng Côn Sơn do đó các giá trị phân tích chất lượng
NDĐ của trạm CS9 được đề xuất là giá trị đại diện cho chất lượng NDĐ của
nghĩa trang Côn Đảo.
Kết quả phân tích chất lượng NDĐ tại trạm quan trắc NDĐ CS9 và toàn Thung
lũng Côn Sơn cho thấy, nồng độ N-NH4+ tại trạm CS9 nói riêng hay tại khu vực
nghĩa trang Côn Đảo nói chung trong 10 năm hiện trạng có xu hướng giảm. Bản
chất là một ion tương đối di động nên khi xâm nhập vào trong nguồn NDĐ,
amoni N-NH4+ có khả năng lan truyền nhanh trong nước và làm ô nhiễm NDĐ
trên phạm vi sâu và rộng, nhất là khi có sự hỗ trợ của mưa và các điều kiện địa
chất thủy văn thuận lợi như tầng chứa nước là đất cát, mạch nông... Do đó trong
vùng áp dụng nghiên cứu, amoni N-NH4+ được đề xuất xem là chất gây ô nhiễm
chính trong NDĐ Côn Sơn và là chất ô nhiễm phát thải chính của nghĩa trang
Côn Đảo.
3.2
Thực nghiệm lan truyền amoni trên các cột đất Côn Sơn
3.2.1. Mô tả mẫu đất
Các mẫu đất được lấy tại vị trí cách nghĩa trang Côn Đảo 0,8km, gần Hồ Quang
Trung. Các mẫu đất được lấy theo phương pháp khoan khô nhằm bảo quản
thành phần hạt và giữ nguyên hiện trạng cấu trúc các lớp địa tầng.
3.2.3. Kết quả thí nghiệm
Kết quả thí nghiệm và ước tính từ phần mềm Hydrus 1D cho thấy:
- Độ phân tán dọc được ước tính λ = 0,2 cm và hệ số phân tán D = 8,40 cm2/h
với hệ số xác định R2 = 0,97.
12
- Hai hệ số phân vùng được hình thành dựa trên hai phần số liệu nồng độ: (a)
các nồng độ (4,84; 9,65; 19,56mg/l) với Kd1 = 0,35(1/kg) - R2 = 0,9962 và (b)
các nồng độ (36,54; 79,82; 102,88mg/l) với Kd2 = 0,21(1/kg) - R2 = 0,9963.
- Hệ số chuyển đổi chất α thay đổi từ 1,00 đến 7,19(l/h) đối với nồng độ NNH4+ trong dung dịch tương ứng từ 4,84 đến 102,88mg/l. Trong phạm vi Luận
án, với giá trị nồng độ N-NH4+ khác nhau nằm trong khoảng [4,84, 102,88] thì
giá trị hệ số chuyển đổi chất α sẽ được xác định nội suy tương ứng trong
khoảng [1,00; 7,19].
Nhìn nhận trên các kết quả thực nghiệm và kết quả mô phỏng lan truyền theo
các dạng mô hình cân bằng và không cân bằng lý hóa khác nhau trên phần
mềm Hydrus 1D trong điều kiện các cột đất Côn Sơn chứa phần lớn là cát hạt
mịn, còn thành phần sét và chất hữu cơ rất ít, có thể kết luận rằng:
- Sự suy giảm nồng độ N-NH4+ ít phụ thuộc vào sự hấp phụ của vật liệu trong
dung dịch đất và NDĐ mà phụ thuộc chính vào sự pha loãng do quá trình đối
lưu - phân tán gây nên.
- Mức độ hấp phụ chất của đất cũng phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ dòng chảy,
cụ thể khoảng 25÷30% amoni bị đất giữ lại khi hạ thấp lưu lượng dòng chảy và
gia tăng thời gian tiếp xúc 180 phút.
Mô hình lan truyền amoni từ nghĩa trang Côn Đảo đến tầng chứa
nước Pleistocen (2005-2015)
3.3.1. Sơ đồ hóa vùng lập mô hình
3.3
3.3.1.1. Các lớp lập mô hình
Mô hình dòng chảy NDĐ
Trên cơ sở đặc điểm các tầng chứa nước, MH DCNDĐ được xây dựng thành 2
lớp để mô phỏng các tầng chứa nước như sau:
- Lớp 1: Chiếm diện tích khoảng 6km2 ở trung tâm vùng tính toán. Do giữa hai
tầng chứa nước Holocen và Pleistocen không tồn tại lớp cách nước và thành
phần thạch học không khác nhau nên về mặt tính thấm có thể xem như là một
lớp và được xem như là lớp không áp hoặc có áp yếu cục bộ, không đồng nhất
về tính thấm.
13
- Lớp 2: Chiếm toàn bộ diện tích vùng tính toán, bao gồm phần trên nứt nẻ của
các đá Mezozoi đến chiều sâu dự kiến -50m (so với mực nước biển) và không
thấm nước. Đây được xem như là lớp không hoặc bán áp, không đồng nhất về
tính thấm.
Mô hình lan truyền amoni
Các lớp tính toán của mô hình lan truyền ô nhiễm amoni được giữ nguyên theo
MH DCNDĐ (gồm hai lớp). Riêng khu vực nghĩa trang nằm trong lớp 1.
3.3.1.2 Vùng lập mô hình
Mô hình dòng chảy NDĐ
Căn cứ điều kiện tự nhiên và đặc điểm cấu trúc địa chất thủy văn của đảo Côn
Sơn, vùng lập MH DCNDĐ sẽ được chọn như trong Hình 3.1, được giới hạn
bởi bờ biển phía nam và các núi đá ở các phía còn lại.
Hình 3.1. Điều kiện biên và các lớp trong vùng nghiên cứu
Mô hình lan truyền amoni
- Vùng lập mô hình lan truyền ô nhiễm amoni được xây dựng trên nền MH
DCNDĐ.
- Thung lũng Côn Sơn được chia thành hai polygon: polygon 1 – nghĩa trang;
polygon 2 – khu vực bao xung quanh nghĩa trang và phủ kín hết Thung lũng
Côn Sơn (xem Hình 3.2).
3.3.1.3 Biên giới lập mô hình
- Lớp 1: Phần rìa phía đông lớp 1 tiếp xúc với các đá Mezozoi bề dày vát mỏng,
phần phía nam tiếp xúc với biển.
14
- Lớp 2: Phần rìa phía đông lớp 2 tiếp xúc với vách núi đá dựng đứng Mezozoi,
phần phía nam tiếp xúc với biển
Chiều rộng
thung lũng:
2÷3km
Chiều dài
thung lũng:
8÷10km
Nghĩa trang
Côn Đảo
- Polygon 1
Khu vực
xung quanh Polygon 2
Hình 3.2 Sơ đồ hóa vị trí nghĩa trang Côn Đảo tại Thung lũng Côn Sơn
3.3.2. Dữ liệu đầu vào mô hình
Mô hình dòng chảy NDĐ
- Chiều sâu phân bố các lớp: Dữ liệu đáy lớp 1 này được xây dựng dựa trên địa
tầng các lỗ khoan nghiên cứu và liên kết trên các mặt cắt toàn vùng nghiên cứu.
Riêng dữ liệu đáy lớp 2 được lấy bằng mặt phẳng nằm ngang ở độ sâu -50m.
- Lưới tính toán hai chiều được phân thành 80 hàng và 102 cột, với các ô lưới
có kích thước tương ứng là 50 x 50m và lưới tính toán ba chiều được phân
thành 80 hàng và 102 cột, số lớp là 2.
- Các thông số địa chất thủy văn, lượng bổ cập - bốc hơi, lượng khai thác, mực
nước ban đầu tại 12 lỗ khoan quan trắc cần nhập vào MH DCNDĐ được thu
thập từ Sở Tài nguyên và Môi trường Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu từ 2005-2015.
Mô hình lan truyền amoni
Nồng độ amoni tại nghĩa trang được ghi nhận theo nồng độ amoni tại trạm quan
trắc CS9 - vào năm 2005, C0 = 3,39mg/l. Đối với 12 trạm quan trắc NDĐ, nồng
độ ô nhiễm amoni theo thời gian được lấy bằng các giá trị nồng độ amoni ghi
15
nhận theo thời gian tại 12 trạm quan trắc NDĐ Côn Sơn. Nồng độ amoni của
toàn khu vực nghiên cứu được giả định bằng 0 mg/l.
3.3.2. Biên và điều kiện biên
3.3.2.1. Mô hình dòng chảy NDĐ
Các loại biên trong MH DCNDĐ bao gồm biên không thấm (Q = 0) và biên
tổng hợp. Cụ thể:
+ Lớp 1: Phần rìa phía đông lớp 1 tiếp xúc với các đá Mezozoi bề dày vát
mỏng nên được xem là biên không thấm (biên loại II). Phần phía nam tiếp xúc
với biển, chủ yếu là thoát nước và lượng nước thoát ra phụ thuộc chênh lệch áp
lực của tầng chứa nước và mực nước biển do đó nên được xem là biên tổng hợp
(biên loại III).
+ Lớp 2: Phần rìa phía đông lớp 2 tiếp xúc với vách núi đá dựng đứng
Mezozoi có điều kiện biên là biên không thấm (biên loại II). Phần phía nam tiếp
xúc với biển nên được xem là biên tổng hợp (biên loại III).
MH DCNDĐ Thung lũng Côn Sơn áp dụng biên cho hai trường hợp:
+ Bờ biển phía nam: Đáy biển cắt sâu vào lớp 1 và lớp 2 nên ở đây sẽ được đặt
biên tổng hợp.
+ Hai hồ chứa nước Quang Trung và An Hải cũng được gán loại biên tổng hợp.
+ Các kênh rạch nhỏ trong thung lũng được gắn biên sông - đây cũng là biên
tổng hợp và chỉ gán cho lớp 1 và đôi chỗ cho lớp 2.
3.3.2.2. Mô hình lan truyền amoni
Trên bình diện mô hình lan truyền amoni, các tầng chứa nước được khống chế
bởi ranh giới lập MH DCNDĐ và các điều kiện biên về nồng độ ô nhiễm.
Bên cạnh các loại biên đã được xác lập trong MH DCNDĐ thì mô hình lan
truyền amoni còn bao gồm các loại biên sau: biên nguồn thải, biên không chứa
nguồn thải và biên tổng hợp.
Mô hình lan truyền amoni áp dụng biên cho các trường hợp:
- Nghĩa trang Côn Đảo: đây là nguồn phát thải amoni chính trong phạm vi
nghiên cứu nên được xem là biên nguồn.
- Các đường biên không dòng chảy (Q=0): đây là các đường biên thuộc MH
DCNDĐ: một là vách núi đá cứng và một biên giới không thấm nên không có
16
nguồn phát thải ô nhiễm (C=0). Do đó các đường biên này được xem là biên
C=0 - biên không chứa nguồn phát thải ô nhiễm.
- Hai hồ chứa nước Quang Trung và An Hải là hai nguồn nước mặt có sự trao
đổi dòng chảy ra hoặc vào trong tầng chứa NDĐ nên được xem là biên tổng
hợp. Trong đó Hồ Quang Trung chỉ đặt điều kiện biên cho lớp 1 và Hồ An Hải lớp 1 và 2 (vì trầm tích mỏng và gần núi đá).
- Bờ biển phía nam: Đáy biển cắt sâu vào lớp 1 và lớp 2 nên ở đây sẽ được đặt
biên tổng hợp.
Biên C=0
(lớp 1)
Biên C=0
(lớp 2)
Biên nguồn thải
(lớp 1)
Biên tổng hợp
(lớp 1 và lớp 2)
Hình 3.3 Điều kiện biên cho mô hình MT3DMS
3.3.3. Hiệu chỉnh - kiểm định mô hình
3.3.3.1. Mô hình dòng chảy NDĐ
MH DCNDĐ 2005-2015 đã được hiệu chỉnh theo 114 bước tính toán từ thời
điểm 10/2005 đến hết tháng 05/2015 (01 tháng/01bước) với việc hiệu chỉnh hệ
số thấm, hệ số nhả nước đàn hồi (xem Bảng 3.1).
Nhìn nhận từ kết quả hiệu chỉnh thông số đầu vào mô hình dòng chảy NDĐ
2005-2015 cho thấy:
- Giá trị chênh lệch giữa cao độ tuyệt đối mực NDĐ quan trắc và cao độ tuyệt
đối mực NDĐ do mô hình MODFLOW tính toán tại 12 trạm quan trắc đều thấp
hơn ±1m.
- Sai số trung bình quân phương tại 12 trạm quan trắc nằm trong khoảng
0,42÷0,63.
17
Bảng 3.1 Kết quả hiệu chỉnh thông số đầu vào MH DC NDĐ 2005-2015
Thông số
Hệ số
thấm
đứng ngang
Hệ số
nhả nước
đàn hồi trọng lực
Đơn vị
m/ngày
1/m
Lớp mô phỏng
Giá trị ban đầu
Lớp1 - Vùng 1
Lớp 1 - Vùng 2
Lớp 2 - Vùng 1
Lớp 2 - Vùng 2
Lớp1 - Vùng 1
Lớp 1 - Vùng 2
Lớp 2 - Vùng 1
Lớp 2 - Vùng 2
7,5 - 0,75
3,0 - 0,30
0,25 - 0,025
0,5 - 0,05
0,20 - 1,5E-06
0,13 - 1,5E-06
0,12 - 1,0E-05
0,12 - 1,0E-05
Giá trị hiệu
chỉnh
7,5 - 0,75
3,2 - 0,32
0,22 - 0,022
0,45 - 0,045
0,19 - 1,5E-06
0,13 - 1,5E-06
0,15 - 1,0E-0,5
0,15 - 1,0E-05
3.3.3.2. Mô hình lan truyền amoni
Hiệu chỉnh mô hình lan truyền amoni (2005-2010)
Mô hình lan truyền amoni từ nghĩa trang Côn Đảo 2005-2010 được mô phỏng
với 1.825 bước tính toán với việc hiệu chỉnh các hệ số phân tán, hệ số phân
vùng hấp phụ amoni (đã được ước tính từ Hydrus 1D) (xem Bảng 3.2).
Bảng 3.2 Kết quả hiệu chỉnh thông số đầu vào mô hình RT3D 2005-2010
Giá trị hiệu
STT
Thông số
Đơn vị
Giá trị ban đầu
chỉnh
1
Độ phân tán dọc
m
0,20E-02
0,21E-02
2
Hệ số phân vùng Kd
1/kg
0,35
0,36
So sánh giá trị chênh lệch giữa các giá trị nồng độ amoni quan trắc thực tế và
nồng độ amoni tính toán từ mô hình lan truyền amoni 2005-2010 tại 12 lỗ
khoan quan trắc cho thấy giá trị sai số trung bình quân phương RMSE đều nhỏ
hơn 0,5 - đây là giá trị sai số thấp và là giá trị sai số giới hạn trong Luận án.
Kết quả hiệu chỉnh cho thấy bộ thông số đầu vào mô hình lan truyền amoni
2005-2010 đã dần có mức độ tin cậy cao hơn so với bước xác lập các điều kiện
ban đầu cho mô hình.
Kiểm định mô hình lan truyền amoni (2010-2015)
Sau 1.644 bước tính toán và kiểm định bộ thông số đã được hiệu chỉnh của mô
hình RT3D 2005-2010 trên bộ số liệu về nồng độ amoni tại 12 trạm quan trắc
từ 2010-2015 đã cho thấy kết quả sai số RMSE đều nhỏ hơn 0,5.
18
Kết quả kiểm định đã thể hiện được tính tin cậy của mô hình mô phỏng lan
truyền amoni theo khoảng thời gian tính toán từ 2005-2015.
3.3.4. Kết quả mô phỏng
3.3.3.1. Mô hình dòng chảy NDĐ
Nhận xét: Kết quả tính toán mô phỏng và quan trắc động thái nước tại 12 trạm
quan trắc Côn Sơn cho thấy động thái của tầng Pleistocen thay đổi theo mùa..
3.3.3.2 Mô hình lan truyền amoni
2005
2010
2015
Biển
Đông
Kích thước ô lưới: 50m x 50m
Hình 3.4 Mô phỏng lan truyền amoni từ 2005-2015
Ghi chú:
: hướng dòng chảy NDĐ là hướng Đông Nam và dần thoát ra biển.
Diễn biến suy giảm nồng độ amoni theo thời gian được trình bày ở Hình 3.5.
Nồng độ NH4+, mg/l
3.5
Ô lưới 1
Ô lưới 2
Ô lưới 3
Ô lưới 4
Ô lưới 5
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0
Thời gian
Hình 3.5 Đồ thị suy giảm nồng độ amoni từ nghĩa trang Côn Đảo 2005-2015
Nhận xét:
- Hướng di chuyển của dòng ô nhiễm amoni tuân theo xu hướng dòng chảy
NDĐ là hướng Đông nam để thoát ra phía biển.
19
- Sự hấp phụ amoni trong dung dịch đất và NDĐ Côn Sơn gia tăng tương ứng
với thời gian mô phỏng.
- Với trên 90% thành phần hạt trong đất và vật liệu hạt của tầng Pleistocen là
cát hạt mịn - trung kết hợp với sự tồn tại amoni nguyên thủy từ địa hóa trong
đất Côn Sơn rất thấp nên quá trình lan truyền amoni trong dung dịch đất và tầng
Pleistocen ít chịu ảnh hưởng của sự hấp phụ amoni mà phần lớn chịu tác động
của sự chuyển tải - phân tán amoni. Điều này được thể hiện rõ trên Hình 3.4:
sau 10 năm mô phỏng, phạm vi vùng ô nhiễm amoni dần được mở rộng.
- Tuy tốc độ lan truyền ô nhiễm trên diện bằng và diện sâu tương đối chậm
nhưng nhìn nhận từ diện tích mở rộng của vùng ô nhiễm có thể nhận thấy sự
pha loãng nồng độ amoni từ nghĩa trang và từ một số trạm quan trắc ra phạm vi
khu vực bên ngoài đã xảy ra.
- Mức độ ô nhiễm amoni tại nghĩa trang Côn Đảo có sự suy giảm theo thời gian
10 năm lan truyền từ 2005-2015. Điều này có nghĩa là dưới tác động chính và
trực tiếp từ quá trình đối lưu-phân tán của dòng chảy NDĐ thì quá trình 10
năm (2005-2015) lan truyền amoni từ nghĩa trang Côn Đảo (với nồng độ ban
đầu bằng 3,39mg/l) vẫn chưa loại bỏ được amoni hoàn toàn khỏi nghĩa trang
hay nhìn nhận theo cách khác là tầng Pleistocen vẫn chưa đủ khả năng hồi
phục được chất lượng nước đáp ứng nhu cầu khai thác - phục vụ sinh hoạt của
người dân (theo quy chuẩn QCVN 09:2015/BTNMT, nồng độ amoni trong NDĐ
phải thấp hơn 1mg/l).
3.4 Mô hình dự báo lan truyền amoni (2015-2050)
Để xác thực được khoảng thời gian làm suy giảm tự nhiên nồng độ amoni trong
NDĐ tại Thung lũng Côn Sơn xuống dưới mức cho phép là 1mg/l hay thời
điểm nguồn NDĐ tại Thung lũng Côn Sơn phục hồi chất lượng nước đạt chuẩn
sinh hoạt, Luận án tiến hành mô phỏng tiếp hiện trạng lan truyền amoni từ năm
2015 đến năm 2050 (hay còn gọi là mô hình dự báo lan truyền amoni tương lai
RT3D 2015-2050) trên cơ sở mô hình RT3D 2010-2015 đã được kiểm định.
20
- Xem thêm -