Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Người kể chuyện trong tiểu thuyết tạ duy anh...

Tài liệu Người kể chuyện trong tiểu thuyết tạ duy anh

.PDF
73
401
82

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ----------o0o---------- MAI HẠNH NGÂN NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận văn học Người hướng dẫn khoa học: TS. PHÙNG GIA THẾ HÀ NỘI – 2013 1 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, TS. Phùng Gia Thế - người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô trong khoa Ngữ văn và đặc biệt là các thầy cô trong tổ bộ môn Lí luận văn học đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận. Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía các thầy cô và các bạn sinh viên để đề tài nghiên cứu của chúng tôi tiếp tục được hoàn thiện. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 21 tháng 5 năm 2013 Người thực hiện Mai Hạnh Ngân 2 LỜI CAM ĐOAN Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo, TS. Phùng Gia Thế. Tôi xin cam đoan rằng: - Khóa luận này là kết quả tìm tòi, nghiên cứu của riêng tôi. - Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực. - Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất kì công trình nghiên cứu được công bố nào. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 21 tháng 5 năm 2013 Người thực hiện Mai Hạnh Ngân 3 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………………... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề………………………………………………............. 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………….… 4 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu……………………………………………….. 5 5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………............. 5 6. Đóng góp của khóa luận………………………………………………….……. 5 7. Bố cục của khóa luận…………………………………………………….…….. 5 NỘI DUNG .......................................................................................................... 12 Chương1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN VĂN HỌC ............................................................. 12 1.1. Khái niệm về người kể chuyện…………………………………………........ 7 1.2. Chức năng của người kể chuyện……………………………………….. .... 10 1.3. Các hình thức của người kể chuyện ....................................................... 12 1.3.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất .................................................... 17 1.3.2 Người kể chuyện ngôi thứ hai ....................................................... 19 1.3.3. Người kể chuyện ngôi thứ ba ....................................................... 20 1.4. Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả ........................................ 21 Chương 2. SỰ ĐỘC ĐÁO CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH .................................................................................................... 24 2.1. Ngôi kể của người kể chuyện ................................................................ 24 2.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba ....................................................... 24 2.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất .................................................... 26 2.1.3. Sự xen cài, luân chuyển giữa các ngôi kể ..................................... 29 2.2. Điểm nhìn của người kể chuyện ............................................................ 33 4 2.2.1. Điểm nhìn bên trong .................................................................... 34 2.2.2. Điểm nhìn bên ngoài .................................................................... 39 2.2.3. Điểm nhìn không gian, thời gian .................................................. 41 2.2.4. Điểm nhìn đánh giá tư tưởng, cảm xúc......................................... 43 2.3. Người kể chuyện không đáng tin ........................................................... 46 2.3.1. Người kể chuyện hàm hồ về tư liệu.............................................. 47 2.3.2. Người kể chuyện hàm hồ về nhận thức ........................................ 49 2.3.3. Yếu tố huyền ảo và tính bất khả tín của hiện thực ........................ 50 2.4. Ngôn ngữ người kể chuyện.................................................................... 52 2.4.1. Ngôn ngữ thông tục, suồng sã ...................................................... 53 2.4.2. Ngôn ngữ giễu nhại...................................................................... 55 2.5. Giọng điệu người kể chuyện .................................................................. 58 2.5.1. Giọng quan hoài, da diết .............................................................. 59 2.5.2. Giọng bỗ bã, dung tục .................................................................. 61 2.5.3. Giọng triết lí, tranh biện ............................................................... 63 2.5.4. Giọng trữ tình, ngọt ngào ............................................................. 65 KẾT LUẬN........................................................................................................... 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 65 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Người kể chuyện (narrator) là một thuật ngữ trung tâm của trần thuật học. Trước đây khái niệm này hầu như bị bỏ qua, người ta chỉ nghiên cứu nhân vật, ngôn ngữ, cốt truyện, các biện pháp tu từ .v.v, người kể chuyện trong văn bản biến mất, gần như vô hình hoặc bị đồng nhất với tác giả. Những năm gần đây, do quá trình tiếp thu các thành tựu lí luận trên thế giới, người ta thấy cần có sự phân biệt giữa tác giả và người kể chuyện. Vì vậy, người kể chuyện trở thành vấn đề rất được giới nghiên cứu quan tâm chú ý. Tz. Todorov đã tuyên bố: “Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện” [dẫn theo 28, tr.116 – 117]. Có thể hiểu tuyên bố này như là một sự khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của người kể chuyện đối với một tác phẩm tự sự. Người kể chuyện là nhân vật do tác giả sáng tạo ra có nhiệm vụ tổ chức kết cấu tác phẩm và môi giới, dẫn dắt người đọc tiếp cận văn bản. Chính bởi vậy, việc xây dựng hình tượng người kể chuyện trong tác phẩm tự sự là biểu hiện của sức sáng tạo ở mỗi tác giả. Lựa chọn hình thức người kể chuyện này hay khác sẽ góp phần quan trọng làm nên thành công của tác phẩm và khẳng định tài năng của nhà văn. 1.2. Văn học Việt Nam từ sau 1975 đã và đang có những nỗ lực cách tân đáng ghi nhận. Sớm được biết đến như một nhà văn có khát vọng mãnh liệt trong việc đổi mới, Tạ Duy Anh không ít lần “làm nóng” bầu không khí phê bình văn học bằng những sáng tác gây nhiều tranh cãi. Qua những sáng tác khen, chê không dứt ấy, Tạ Duy Anh khẳng định một bản lĩnh “bước qua lời nguyền”, “viết như một sự vượt qua chính mình”. Thực tế cho thấy nhà văn đã có những đóng góp mới mẻ cho nền văn học nước nhà trên nhiều phương diện: nhân vật, cốt truyện, kết cấu… làm thay đổi sâu sắc diện mạo 6 nền văn học Việt Nam đương đại, đem đến cho người đọc những tác phẩm mới mẻ, góp phần làm thay đổi thị hiếu thẩm mĩ của công chúng. 1.3. Dù có người đã cáo chung cho thể loại tiểu thuyết thì thể loại này vẫn phát triển mạnh mẽ, có vị thế cột sống và đóng vai trò quyết định căn cốt diện mạo một nền văn học, là thể loại của thời đại hôm nay. Đối với Tạ Duy Anh, tiểu thuyết chính là nơi thể hiện rõ nhất tài năng cũng như sự dấn thân “khước từ truyền thống” của ông để xác lập những hình thức nghệ thuật mới cho văn học. Cho đến nay, Tạ Duy Anh đã trình làng sáu cuốn tiểu thuyết: Khúc dạo đầu, Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối, Sinh ra để chết. Trừ tiểu thuyết đầu không gây được tiếng vang, năm tiểu thuyết còn lại đã dành được sự quan tâm đặc biệt của công chúng. Với việc nghiên cứu đề tài Người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh, chúng tôi mong muốn tìm hiểu đặc điểm, vai trò cũng như sự độc đáo của người kể chuyện – sản phẩm sáng tạo của nhà văn nhằm thể hiện quan niệm, tư tưởng nghệ thuật về cuộc sống và con người. Từ đó, khóa luận góp phần giúp bạn đọc thấy được sức sáng tạo mạnh mẽ của Tạ Duy Anh và những đóng góp của ông đối với tiến trình văn xuôi Việt Nam sau 1975 cũng như đối với đời sống văn xuôi đương đại. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Trong những năm gần đây, giới nghiên cứu đã chú ý quan tâm đến vấn đề người kể chuyện trong tác phẩm tự sự. Có thể kể đến một số bài viết tiêu biểu như: “Người kể chuyện – nhân vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự” của Nguyễn Thị Hải Phương [29, tr.196 - 207], “Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong kể chuyện” của Đặng Anh Đào [29, tr.169 – 178]. Ở đây, các tác giả đã đưa ra khái niệm và chức năng của người kể chuyện đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa người kể chuyện với các yếu tố khác trong kết cấu tác phẩm. 7 Trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8/2009, tác giả Cao Kim Lan có bài “Người kể chuyện và mối quan hệ giữa người kể chuyện với tác giả” trong đó trình bày các quan niệm về người kể chuyện theo lí thuyết tự sự học cũng như mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả. Các bài viết trên chủ yếu đề cập đến vấn đề người kể chuyện trên phương diện lí thuyết nhằm cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết cơ bản về người kể chuyện. Tuy nhiên, việc ứng dụng tìm hiểu người kể chuyện trong tác phẩm cụ thể vẫn chưa được nhiều tác giả quan tâm triển khai. 2.2. Cuối những năm 80 của thế kỉ trước, trong trào lưu đổi mới của toàn xã hội, văn học cũng nhanh nhạy xuất hiện những tên tuổi cùng những tác phẩm đáng chú ý. Người ít tuổi nhất trong số các tên tuổi ấy chính là Tạ Duy Anh. Đến nay, với hơn 20 năm cầm bút, ông đã cho ra đời một số lượng tác phẩm đáng kể với sáu tiểu thuyết, hàng chục tập truyện ngắn, tản văn, truyện thiếu nhi… Điều đáng nói là trong số đó, có rất nhiều tác phẩm của ông ngay từ khi mới ra đời đã gây chú ý đặc biệt trong công chúng và giới phê bình. Luôn có ý định cách tân văn học một cách mạnh mẽ, Tạ Duy Anh nhận được nhiều sự ủng hộ song cũng không ít lời phản bác của độc giả. Các nhà nghiên cứu đã dành nhiều trang viết về Tạ Duy Anh, song mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ở quy mô nhỏ lẻ, các bài báo, phỏng vấn, điểm sách… Ở cấp độ lớn nhất đó là những khoá luận, luận văn khoa học. Có thể kể ra một số ý kiến đánh giá, những nghiên cứu ở nhiều công trình với các cấp độ khác nhau như sau: Báo Thể thao và Văn hóa số 47 năm 2004 đánh giá về nội dung giá trị tác phẩm Tạ Duy Anh: “Mối quan tâm lớn nhất của Tạ Duy Anh là cái vong bản, đánh mất mình của con người, dưới sự giằng xé xiêu dạt của lịch sử. Trên con đường truy tìm lại mặt mình, cũng như khả dĩ gương mặt của quá khứ, con người vấp phải và bị phong tỏa bởi thói gian trá, đớn hèn, vật dục, 8 tàn ác, kể cả trong mỗi cá nhân. Phúc âm duy nhất là tình yêu, tình cảm trong sạch bản thể của hiện tại và cái nhìn trung thực, nhân đạo đối với những vết thương, lỗi lầm trong quá khứ. Có thể gọi ông là nhà văn của đạo đức. Văn chương ông có lúc hiện lên bằng gương mặt thế sự, đau đáu riết róng chuyện thánh thiện, tàn ác, liêm sỉ và vô lương… nhưng không phải như những khái niệm truyền bảo chết khô mà thông qua sự cảm nhận đau đớn về số phận” [dẫn theo 1 – tr.134]. Báo Giáo dục và Thời đại số 80 năm 2004 viết: “Gần như thành thông lệ ở ta, khi nhà văn nào có được một tác phẩm nổi tiếng thì thường họ quay về nhấm nháp niềm vinh quang, sớm thỏa mãn và cứ như thế họ mất hút trong mắt độc giả. Tạ Duy Anh từng có “Bước qua lời nguyền” gây chấn động văn đàn và nhiều người đã nghĩ anh khó vượt qua nghiệt lệ ấy. Nhưng rồi anh cho ra đời “Lão Khổ”, một cuốn sách mà người ta sẽ càng ngày càng phải tìm đọc lại bởi nói như giáo sư Hoàng Ngọc Hiến: “Đây là một cuốn tiểu thuyết quan trọng”. Tiếp đó, anh cho ra đời hàng chục tập truyện ngắn. Nhưng một thành tựu không nhỏ như vậy vẫn còn là quá ít với anh. Trong khi văn đàn đang có dấu hiệu rệu rã thì liên tiếp trong hai năm, Tạ Duy Anh cho ra hai cuốn tiểu thuyết gây xôn xao dư luận trong và ngoài nước, trước hết bởi sự kì lạ về hình thức và vấn đề nhức nhối mà nó quan tâm” [dẫn theo 1 – tr.168]. Đáng chú ý nhất trong các công trình nghiên cứu về Tạ Duy Anh là cuốn: Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh (NXB. Hội Nhà văn, 2007) dày 400 trang trình bày ba luận văn lấy đề tài từ sáng tác của Tạ Duy Anh đã được Hội đồng Giám khảo của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đánh giá cao. Cụ thể gồm: Thứ nhất, Tạ Duy Anh với việc làm mới nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hồng Giang, nghiên cứu việc “làm mới” văn chương, “làm mới” trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh. 9 Thứ hai, Thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh của Vũ Lê Lan Hương đi sâu khám phá hành trình văn học Tạ Duy Anh, một thế giới nhân vật ngoại biên và những thủ pháp xây dựng nhân vật đáng chú ý trong sáng tác Tạ Duy Anh. Thứ ba, Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh của Võ Thị Thanh Hà nghiên cứu Tạ Duy Anh trong bối cảnh đổi mới tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, quan niệm nghệ thuật về con người và đặc sắc thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của ông. Qua các bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên, các nhà phê bình cơ bản đã thống nhất ghi nhận những nỗ lực của Tạ Duy Anh trong việc đổi mới văn học, về những cách tân trong tư duy và lối viết, trong đó ít nhiều đề cập đến vấn đề người kể chuyện trong tiểu thuyết của ông. Phân tích các công trình nghiên cứu tiểu thuyết Tạ Duy Anh, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nào tìm hiểu về người kể chuyện trong tiểu thuyết của ông một cách toàn diện và triệt để. Chính vì lẽ đó, trên cơ sở gợi ý của những người đi trước, tác giả khóa luận mong muốn tập trung tìm hiểu người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh để góp phần làm nổi bật những tìm tòi, đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Khóa luận hướng đến mục đích tìm ra điểm độc đáo của người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh trên cơ sở khai thác các hình thức kể chuyện truyền thống và những sáng tạo mới nhằm khẳng định nỗ lực của tác giả trong việc đổi mới nghệ thuật tự sự tiểu thuyết. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Nêu ra khái niệm về người kể chuyện, chức năng, các hình thức người kể chuyện và mối quan hệ giữa người kể chuyện với tác giả. 10 3.2.2. Nghiên cứu vấn đề người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh qua một số tiểu thuyết tiêu biểu: Lão Khổ, Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong khóa luận, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu về người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh trên các bình diện cơ bản như: ngôi kể, điểm nhìn, người kể chuyện không đáng tin, ngôn ngữ, giọng điệu. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Với khuôn khổ một khóa luận tốt nghiệp và khả năng làm chủ tư liệu có hạn, chúng tôi không có tham vọng đi tìm hiểu người kể chuyện trong tất cả các tiểu thuyết của Tạ Duy Anh mà chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu vào ba tiểu thuyết quan trọng: 1. Lão Khổ; 2. Thiên thần sám hối; 3. Giã biệt bóng tối. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện khóa luận, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp so sánh - Phương pháp hệ thống 6. Đóng góp của khóa luận - Cung cấp những hiểu biết khái quát và có hệ thống về người kể chuyện. - Đi sâu tìm hiểu người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh, từ đó chỉ ra sự sáng tạo độc đáo của nhà văn trong sáng tác văn chương. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm hai chương. Cụ thể là: Chương 1: Những vấn đề chung về người kể chuyện trong nghiên cứu lí luận văn học Chương 2: Sự độc đáo của người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh 11 NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN VĂN HỌC 1.1. Khái niệm về người kể chuyện Người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi hiện đại nhưng phải đến đầu thế kỉ XX, vấn đề này mới được giới nghiên cứu quan tâm. Những người có công đầu tiên trong việc đề xuất nghiên cứu về người kể chuyện đó là các nhà hình thức chủ nghĩa Nga (A.Veksler, I.Gruzdev, V.Shklovski, B.Eikhembaum) và nhóm các nhà nghiên cứu Bắc Âu viết bằng tiếng Đức (W.Dibelius, K.Friedemann, K.Forstreuter). Tuy nhiên, phải qua công trình của những nhà nghiên cứu thế hệ sau, những người đặt nền móng cho “trần thuật học” như P.Lubbock, N.Friedman, E.Leibfried, F.Stanzel, W.Kayser, Iu.Lotman, B.Uspenski, R.Barthes, Tz.Todorov, G.Genette, S.Chatman… “phương pháp hình thức” kết hợp với “mĩ học tiếp nhận” mới đưa ra được quan điểm tương đối rõ ràng về người kể chuyện. Chúng tôi xin dẫn ra một số khái niệm về người kể chuyện của một số tác giả tiêu biểu: Theo G.N. Pospelov thì người kể chuyện là “người môi giới giữa các hiện tượng được miêu tả và người nghe (người đọc), là người chứng kiến và cắt nghĩa các sự việc xảy ra” [dẫn theo 29, tr.196]. Trong quan niệm của W. Kayser, người kể chuyện là một khái niệm mang tính chất cực kì hình thức: “Đó là một hình hài được sáng tạo ra, thuộc về toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học. Ở nghệ thuật kể, không bao giờ người kể chuyện là vị tác giả đã hay chưa nổi danh, nhưng là cái vai mà tác giả bịa ra và chấp nhận” [dẫn theo 29, tr.196]. 12 Tz. Todorov tuyên bố: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng… Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện. Như vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà nhân danh nó cuốn sách được kể có một vị trí hoàn toàn đặc biệt…” [dẫn theo 28, tr. 116 – 117]. Theo quan điểm của ông, người kể chuyện không chỉ là người kể mà còn là người định giá: “Người kể chuyện là một nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế giới hư cấu. Chính người kể chuyện là hiện thân của những khuynh hướng mang tính xét đoán và đánh giá” [dẫn theo 29, tr.196 – 197]. Từ việc kế thừa, tổng hợp những định nghĩa của những nhà lí luận văn học đi trước, tác giả Nguyễn Thị Hải Phương trong bài “Người kể chuyện – nhân vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự” đã đưa ra khái niệm người kể chuyện thông qua sự phân biệt nó với người kể chuyện thực tế trong đời sống, với nhân vật và tác giả. Tác giả bài viết cho rằng người kể chuyện là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Người kể chuyện là sản phẩm của quá trình hư cấu của nhà văn, nó khác với người kể chuyện thực tế trong đời sống. Nếu như người kể chuyện thực tế trong đời sống là những con người cụ thể, hữu hình, có hình hài, giọng nói, điệu bộ… thì đến người kể chuyện trong tác phẩm tự sự, tất cả những yếu tố hữu hình, cụ thể này đều được chuyển vào trong văn bản thông qua các thủ pháp nghệ thuật. Hai kiểu người kể chuyện này sẽ lựa chọn cách kể chuyện khác nhau. Nếu người kể chuyện trong thực tế thường kể chuyện theo trật tự tuyến tính và hoàn toàn có thể điều chỉnh câu chuyện theo phản ứng của người nghe thì ngược lại, người kể chuyện trong tác phẩm tự sự có thể sử dụng lối kể đảo tuyến, đan xen giữa hiện tại, quá khứ, tương lai. Câu chuyện mà họ kể ra đã được cố định trong văn bản, không thể thêm bớt hay sửa chữa gì [29, tr.196 – 208]. 13 Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Thị Hải Phương còn khẳng định người kể chuyện là một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm tự sự. Người kể chuyện không chỉ là một nhân vật tham gia trong tác phẩm như các nhân vật khác mà còn có chức năng tổ chức các nhân vật khác, đánh giá về các nhân vật khác. Vị trí của nhân vật người kể chuyện trong tác phẩm thay đổi rất linh hoạt, tùy thuộc vào động cơ và thái độ của tác giả. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, người kể chuyện là “hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng của chính tác giả…, có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra…, có thể là một người biết một câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có nhiều người kể chuyện. Hình tượng người kể chuyện đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lí, nghề nghiệp hay lập trường xã hội cho cái nhìn tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con người và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú, nhiều phối cảnh” [14, tr.221]. Qua việc khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy mỗi định nghĩa khai thác khái niệm “người kể chuyện” ở một phương diện khác nhau, nhưng tựu trung lại, chúng ta có thể khái quát được những đặc điểm cơ bản sau về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự: - Người kể chuyện là một dạng hình tượng do tác giả hư cấu, sáng tạo nên, là người đại diện phát ngôn cho tác giả trong tác phẩm tự sự. - Trong phạm vi tác phẩm, người kể chuyện là chủ thể của lời kể, là người đứng ra kể chuyện và là nhân tố trung tâm chi phối việc tổ chức, kết cấu cấu trúc của văn bản tự sự. - Người kể chuyện giữ vai trò trung giới giữa tác giả, tác phẩm và người đọc. 14 1.2. Chức năng của người kể chuyện Người kể chuyện có vai trò đặc biệt quan trọng, thực hiện nhiều chức năng trong tác phẩm tự sự: Theo Từ điển thuật ngữ văn học, người kể chuyện đảm nhiệm năm chức năng: “1) chức năng kể chuyện, trần thuật; 2) chức năng truyền đạt, đóng vai một yếu tố của tổ chức tự sự; 3) chức năng chỉ dẫn, thuộc phương pháp trần thuật; 4) chức năng bình luận; 5) chức năng nhân vật hóa” [14, tr.223]. Người kể chuyện là sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, là công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Việc nhà văn lựa chọn hình thức người kể chuyện nào có vai trò đặc biệt quan trọng trong tác phẩm, quyết định sự thuyết phục và thành công của câu chuyện. Trên cơ sở quan niệm người kể chuyện là nhân vật trung gian nối liền giữa nhà văn, tác phẩm và bạn đọc, trong bài viết: “Người kể chuyện - nhân vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự”, tác giả Nguyễn Thị Hải Phương đã nghiên cứu chức năng của người kể chuyện trong ba mối quan hệ này để hình thành nên ba chức năng cơ bản: Một là, người kể chuyện với chức năng tổ chức kết cấu tác phẩm. Người kể chuyện phải thay mặt nhà văn cố gắng tìm cho mình một kết cấu tối ưu để làm cho câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn được người đọc. Với các cách kể khác nhau, cách xuất hiện khác nhau của người kể chuyện, ta sẽ có các dạng cốt truyện khác nhau: cốt truyện tuyến tính, cốt truyện tâm lý, cốt truyện “chuyện lồng chuyện”… L. Timofeev cũng đã khẳng định: “Hình tượng này có tầm quan trọng hết sức to lớn trong việc xây dựng tác phẩm bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra, cách đánh giá các nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân người kể” [dẫn theo 29, tr.204]. 15 Hai là, người kể chuyện có chức năng môi giới, dẫn dắt người đọc tiếp cận thế giới nghệ thuật, giúp người đọc hiểu rõ hơn, sâu hơn về nhân vật, hướng người đọc cùng suy ngẫm, chia sẻ và đồng cảm với những chiêm nghiệm, những suy nghĩ của mình về cuộc đời. Trong nhiều trường hợp, người kể chuyện còn tiến hành đối thoại, tranh luận với người đọc để cùng nhau kiếm tìm, khám phá chân lí cuộc sống. Ba là, người kể chuyện thay mặt nhà văn trình bày những quan điểm về cuộc sống, nghệ thuật. Mỗi nhà văn khi sáng tạo ra một tác phẩm văn chương đều mong muốn gửi gắm vào đó một quan điểm, một tư tưởng về cuộc sống, về con người. Tuy nhiên, các nhà văn không trình bày tư tưởng của mình bằng những lời phát biểu trực tiếp mà trình bày một cách nghệ thuật thông qua các hình tượng do mình hư cấu nên trong đó có hình tượng người kể chuyện. Trong 150 thuật ngữ văn học, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cũng đưa ra quan niệm của mình về người kể chuyện trong trần thuật tự sự: “Trần thuật tự sự được dẫn dắt bởi một ngôi được gọi là người trần thuật – một loại trung giới giữa cái được miêu tả và thính giả (độc giả), loại người chứng kiến và giải thích về những gì đã xảy ra” [7, tr.360]. Theo quan điểm này, nhà lí luận một lần nữa khẳng định vai trò cầu nối và dẫn dắt câu chuyện của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự, đồng thời nhấn mạnh vai trò chứng kiến và giải thích của hình tượng này. Đây là những dấu hiệu cơ bản nhất để nhận diện người kể chuyện trong các sáng tác tự sự từ xưa đến nay. Có thể khẳng định, người kể chuyện đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong tác phẩm tự sự. Nó có chức năng tổ chức các nhân vật khác, tổ chức kết cấu tác phẩm, dẫn dắt, định hướng và khơi gợi khả năng đối thoại, tranh luận của người đọc. Ngoài ra, người kể chuyện còn là một điểm tựa để tác giả bộc lộ những quan điểm của mình về cuộc sống, nghệ thuật. Chính dựa trên chức 16 năng này của người kể chuyện mà Tz.Todorov đã tuyên bố: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng… Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện” [dẫn theo 29, tr.196 – 197]. Với vai trò đặc biệt của người kể chuyện, việc xây dựng hình tượng người kể chuyện trong tác phẩm tự sự luôn được các nhà văn quan tâm, chú ý. Lựa chọn hình thức người kể chuyện phù hợp sẽ góp phần quan trọng làm nên thành công của tác phẩm và khẳng định tài năng của nhà văn. 1.3. Các hình thức người kể chuyện Trong tác phẩm tự sự, việc xây dựng người kể chuyện cũng có nhiều hình thức khác nhau, từ đó tạo nên các kiểu người kể chuyện tương ứng. Thông thường, hình thức người kể chuyện gắn liền với ngôi kể. Người kể chuyện có thể kể theo ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba. 1.3.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất Hình thức người kể chuyện ngôi thứ nhất xuất hiện muộn (ở châu Âu từ đầu thế kỉ XX). Đây là hình thức người kể là một nhân vật trong truyện, xưng “tôi” chứng kiến các sự kiện đứng ra kể lại. Trường hợp kể chuyện ngôi thứ nhất xưng “chúng tôi” (số nhiều) có xuất hiện, nhưng rất ít. Ví dụ như các tác phẩm: 26 người đàn ông và một cô gái của M. Gorki hay Hoa hồng cho Emily của W. Faulkner. Người kể chuyện ngôi thứ nhất là lời của nhân vật trong tác phẩm nên nó lộ diện, có tên tuổi, tính cách, số phận cụ thể. Trong hình thức này, người kể chuyện có điều kiện tham dự vào cuộc đàm thoại, được nhận xét trực tiếp về các sự kiện và các nhân vật, được nói tiếng nói riêng của mình. Từ đó, bạn đọc nhận ra tính cá biệt hóa của người kể chuyện với các nhân vật trong truyện cả trên phương diện xã hội thẩm mĩ, góp phần tạo ra cái nhìn nghệ thuật cho tác phẩm. 17 Nói về người kể chuyện ngôi thứ nhất, nhà bác học Nga M. Bakhtin đã từng khẳng định: “Trần thuật từ ngôi thứ nhất là tương tự với sự trần thuật của người kể chuyện. Đôi khi, hình thức này do dụng ý dựa trên lời kể của kẻ khác quy định, đôi khi như lối kể của Tuôcghênhiep, nó có thể tiếp cận và cuối cùng là hòa nhập với lời trực tiếp của tác giả, tức là hoạt động với lời một giọng của ngôi thứ hai” [28, tr. 380]. Người kể chuyện ngôi thứ nhất cũng mang những ưu điểm và hạn chế nhất định. Vì người kể ở đây là một nhân vật trong tác phẩm tham gia vào hầu hết các tình tiết, sự kiện trong tác phẩm nên câu chuyện được kể trở nên đáng tin cậy hơn so với việc câu chuyện được kể ở ngôi thứ ba. Không những thế, vì là một nhân vật trong truyện đứng ra kể nên câu chuyện được kể mang tính chủ quan hơn và thông tin được kể trở nên thấm thía hơn. Tuy nhiên, do nhân vật tham gia vào chuyện nên nó không thể mang cái nhìn bao quát như người kể chuyện đứng ngoài mà biết đến đâu, kể đến đấy. Do vậy, dung lượng hiện thực được phản ánh thường hạn chế. Dù vậy, số tác giả viết truyện sử dụng hình thức người kể chuyện này vẫn giữ số lượng lớn. Có thể kể đến Nam Cao với: Những cánh hoa tàn, Dì Hảo, Lão Hạc, Cái mặt không chơi được, Những chuyện không muốn viết, Mua nhà…, Nguyễn Công Hoan với: Mánh khóe, Nhân tài, Tôi chủ báo, nó chủ báo…, Nguyễn Minh Châu với: Mảnh trăng cuối rừng, Bức tranh, Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành…, Nguyễn Huy Thiệp với: Chảy đi sông ơi, Những bài học nông thôn, Những người thợ xẻ, Tướng về hưu… Trong đời sống hiện đại, do nhu cầu thể hiện và tự thể hiện cái tôi cá nhân nên hình thức người kể chuyện ngôi thứ nhất chiếm một vị trí quan trọng. Bằng việc sử dụng hình thức kể mới này, các nhà văn từ thế kỉ XX đến nay đã cho ra đời nhiều sáng tác nghệ thuật có giá trị đóng góp vào tiến trình phát triển của văn học nhân loại. 18 1.3.2 Người kể chuyện ngôi thứ hai Người kể chuyện ngôi thứ hai là hình thức kể chuyện ít được sử dụng. Trong tác phẩm, người kể chuyện ngôi thứ hai thường xưng “bạn”, “anh”, “chị”, cũng mang cái tôi của người kể song nó tạo ra được một không gian gián cách, một cái tôi khác, một cái tôi được kể ra chứ không phải một cái tôi tự kể như ngôi thứ nhất. Bạn đọc sẽ bắt gặp hình thức người kể chuyện ngôi thứ hai trong một số tác phẩm như: Linh Sơn của Cao Hành Kiện, Không khóc ở California của Nguyễn Huy Thiệp, Niềm vui sướng của Mạc Ngôn, Thay đổi của M. Butor hay một số đoạn trong Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế Hoàng Linh… Nói về vai trò của người kể chuyện ngôi thứ hai, M. Butor đã từng khẳng định: “Nếu nhân vật hoàn toàn biết rõ chuyện của y, sẵn sàng đem kể ra hoặc tự kể với mình thì sử dụng ngôi thứ nhất là thích hợp. Nhưng khi người ta muốn miêu tả một sự tiến triển thật sự của ý thức, khi vấn đề là làm sao cho nhân vật nói ra được thì sử dụng ngôi thứ hai lại có hiệu quả hơn”. Trong một cuộc phỏng vấn về việc kể chuyện ở ngôi thứ hai trong tiểu thuyết Thay đổi, M. Butor đã nói: “Nhất thiết là truyện phải được kể từ điểm nhìn của một nhân vật. Nhưng vì đây là việc băn khoăn chọn lựa phải theo bề nào, do đó không nên để nhân vật xưng “tôi”. Tôi cần đến một độc thoại nội tâm dưới tầm ngôn từ của chính nhân vật, ở dạng trung gian giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Cái ngôi thứ hai ấy giúp tôi miêu tả được tình huống của nhân vật và cái cách ngôn từ nảy sinh ở anh ta”. Nếu ở các nhà văn khác, việc sử dụng người kể chuyện ngôi thứ hai rải rác trong tác phẩm thì trong Thay đổi của M. Butor trừ một vài đoạn hiếm hoi, ông đã sử dụng phổ biến từ đầu đến cuối hình thức người kể chuyện này. Như vậy, giống với người kể chuyện ngôi thứ nhất và người kể chuyện ngôi thứ ba, hình thức người kể chuyện ngôi thứ hai cũng có khả năng đem 19 đến cho tác phẩm những ý nghĩa riêng. Người kể chuyện vẫn là hình tượng nghệ thuật có thể thay mặt tác giả thể hiện quan niệm, tư tưởng nghệ thuật về cuộc sống và con người. 1.3.3. Người kể chuyện ngôi thứ ba Cùng với hình thức người kể chuyện ngôi thứ nhất, người kể chuyện ngôi thứ ba là hình thức kể chuyện quen thuộc và phổ biến được các nhà văn sử dụng khi viết các tác phẩm tự sự. Tuy nhiên, nếu hình thức người kể chuyện ngôi thứ nhất mới chỉ xuất hiện khoảng hai thế kỉ trở lại đây thì hình thức người kể chuyện ngôi thứ ba là hình thức trần thuật đã ngự trị trong văn học từ thời cổ trung đại. Hình thức kể này cho phép người kể có thể kể tất cả những gì họ biết. Đây là hình thức người kể chuyện giấu mặt, đứng ở một vị trí nào đó trong không gian, thời gian bao quát hết mọi diễn biến của câu chuyện đã xảy ra trọn vẹn và thuật lại với chúng ta. Dù người kể chuyện không xuất hiện, ta không biết tên tuổi, hình hài, tư cách ra sao nhưng ngầm hiểu trước sau vẫn một người ấy. Tác giả Nguyễn Thái Hòa khi bàn về người kể chuyện ngôi thứ ba đã khẳng định: “Ở lối kể này, người kể đứng ở vị trí khách quan “giả vờ” không dính líu đến câu chuyện. Nói cách khác, là giữ một khoảng cách giữa người kể và nhân vật, cốt truyện để rộng đường hư cấu và đảm bảo tính khách quan của hiện thực, làm người thư kí của thời đại” [15, tr.54]. Trên văn đàn Việt Nam đã xuất hiện rất nhiều tác phẩm có giá trị sâu sắc khi sử dụng hình thức người kể chuyện ngôi thứ ba. Có thể kể đến: Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Chí Phèo của Nam Cao, … Do người kể chuyện ở đây đứng ngoài câu chuyện nên hình thức kể ngôi thứ ba, nhất là ngôi thứ ba toàn thông có ưu điểm vượt trội là khả năng bao quát nghệ thuật rộng lớn, từ đó dung lượng hiện thực được phản ánh vào 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan