Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Người phụ nữ trong truyện ngắn thạch lam...

Tài liệu Người phụ nữ trong truyện ngắn thạch lam

.PDF
127
460
115

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----  ---- PHẠM THỊ QUYÊN NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành : Văn học Việt Nam HÀ NỘI, 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----  ---- PHẠM THỊ QUYÊN NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60.22.01.21 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÝ HOÀI THU HÀ NỘI, 2013 2 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Thạch Lam Nói chung 2.2. Những bài viết nghiên cứu về ngƣời phụ nữ trong văn Xuôi Thạch Lam 3. Đối tƣợng, phạm vị, mục đích nghiên cứu 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 5. Cấu trúc luận văn PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 : Nhân vật ngƣời phụ nữ và truyện ngắn Thạch Lam trong bối cảnh văn xuôi 1930 - 1945 1.1 Nhân vật ngƣời phụ nữ trong văn xuôi giai đoạn 1930 – 1945 1.2 Hành trình sáng tác của Thạch Lam 1.2.1 Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác 1.2.2 Nhân vật ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam Chƣơng 2. Đời sống và thân phận ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam 2.1 Ngƣời phụ nữ trong quan hệ với đời sống xã hội 2.1.1 Bức tranh chung về đời sống xã hội đƣơng thời 2.1.2 Ngƣời phụ nữ trƣớc những biến đổi của xã hội 2.1.2.1 Bất biến trong sự biến đổi của xã hội 2.1.2.2 Nạn nhân của xã hội 2.2 Ngƣời phụ nữ trong quan hệ với gia đình, với tình cảm Và khao khát riêng tƣ 3 2 3 2 4 7 7 9 10 10 21 21 30 39 39 39 42 42 46 53 2.2.1 Ngƣời phụ nữ trong đời sống gia đình 54 2.2.1.1 Những thân phận cơ cực, kém may mắn 54 2.2.1.1 Những con ngƣời mang vẻ đẹp truyền thống của ngƣời phụ nữ Việt Nam 2.2.2 Ngƣời phụ nữ với tình cảm và khao khát riêng tƣ 68 2.3 Vấn đề giới, thiên tính nữ 73 2.3.1 Ý thức sâu sắc về vẻ đẹp nữ giới 74 2.3.2 Thiên chức làm vợ, làm mẹ 77 Chƣơng 3. Nhân vật ngƣời phụ nữ nhìn từ phƣơng thức biểu hiện 83 3.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật 83 3.1.1 Ngoại hình 83 3.1.2 Tâm lý 85 3.2 Ngôn ngữ nghệ thuật 90 3.2.1 Ngôn ngữ trần thuật 91 3.2.2 Ngôn ngữ nhân vật 95 3.3 Không – Thời gian nghệ thuật 98 3.3.1 Không gian nghệ thuật 99 3.3.1.1 Không gian làng quê 99 3.3.1.2 Không gian phố thị 106 3.3.2 Thời gian nghệ thuật 109 3.3.2.1 Thời gian quá khứ 111 3.3.2.2 Thời gian hiện tại 113 PHẦN KẾT LUẬN DANH MỰC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 4 116 119 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Thạch Lam là một nhà văn có vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 và đƣợc coi là một cây bút truyện ngắn đặc sắc. Với ba tập truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết, một tập bút kí, một tập bình luận văn chƣơng, ông đã để lại dấu dấn đậm nét. Tên tuổi Thạch Lam gắn với Tự Lực văn đoàn. Tác phẩm của Thạch Lam giàu chất nhân văn và đậm đà tính dân tộc. Với thời gian, những trang văn của Thạch Lam vẫn là ngƣời bạn tinh thần của nhiều thế hệ ngƣời đọc, vẫn giữ đƣợc vẻ đẹp và ý nghĩa riêng. Nhiều thiên truyện ngắn của Thạch Lam cho đến nay và có lẽ mãi mãi về sau vẫn làm ta xúc động, khi mà trên đời này vẫn còn những xót xa, thƣơng cảm cho số phận con ngƣời. Giống nhƣ nhiều tác phẩm của các thế hệ đi trƣớc, hình ảnh ngƣời phụ nữ Việt Nam trong những trang văn Thạch Lam nhƣ đi sâu vào tâm khảm độc giả, nhƣ nhắc nhở ta luôn nhớ đến hình ảnh của một thời, một kiếp ngƣời từng tồn tại. Trong văn học Nhà trƣờng, Thạch Lam và tác phẩm của ông có một vị trí quan trọng. Tác phẩm của ông đƣợc đƣa vào trong chƣơng trình giảng dạy trung học phổ thông. Từ lớp 8, học sinh đƣợc làm quen với tâm hồn ngây thơ và hành động tốt bụng, đáng yêu của hai chị em Lan và Sơn trong Gió lạnh đầu mùa. Lên lớp 11, khi đã hiểu nhiều về cuộc đời, học sinh đƣợc học về tiểu sử Thạch Lam và Hai đứa trẻ. Bên cạnh đó, độc giả nhận ra và cảm nhận về kiếp sống buồn man mác của con ngƣời qua Thanh và câu chuyện lãng mạn với Nga - Dưới bóng Hoàng lan. Ba tác phẩm với ba câu chuyện khác nhau, nhƣng ngƣời đọc đủ nhận ra văn phong tác giả. “Mỗi truyện của Thạch Lam nhƣ một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhƣng chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trƣớc những biến 5 thái của cảnh vật và lòng ngƣời. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc.” (24, 94) Thêm vào đó, trong những năm gần đây, hƣớng nghiên cứu, tìm hiểu nhân vật ngƣời phụ nữ trong các tác phẩm dƣới góc nhìn về lý thuyết giới, thiên tính nữ đã đƣợc mở ra. Vận dụng cái nhìn này hứa hẹn sẽ mang đến một số nhận thức mới về ngƣời phụ nữ trong xã hội. Để góp cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về nhân vật ngƣời phụ nữ trong trang văn Thạch Lam, đồng thời góp một tiếng nói vào việc khẳng định một tài năng, nhân cách nhà văn đã từng hiến dâng cho đời nhiều áng văn chƣơng có sức cuốn hút lòng ngƣời, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Người phụ nữ trong truyện ngắn của Thạch Lam”. Đề tài vừa đáp ứng đƣợc niềm say mê cá nhân, vừa thiết thực cho công việc giảng dạy trong Nhà trƣờng. 2. Lịch sử vấn đề: Trong giai đoạn Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, sự xuất hiện của Thạch Lam gắn liền với chặng đƣờng mới trong văn xuôi nghệ thuật nói chung và địa hạt truyện ngắn nói riêng. Hơn nửa thế kỉ trôi qua kể từ ngày văn phẩm đầu tay của Thạch Lam chào đời, đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về thân thế, sự nghiệp, tác gia và tác phẩm của nhà văn. Một cách tổng quát, có thể thấy các tài liệu nghiên cứu về Thạch Lam xoay quanh hai nội dung lớn. 2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Thạch Lam nói chung: Trƣớc hết là những tài liệu nghiên cứu về thành tựu của Văn học Việt Nam thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong những tài liệu này, các chuyên gia nghiên cứu về Văn học Việt Nam hiện đại đã đƣa ra những nhận định về giá trị văn chƣơng Thạch Lam và khẳng định đóng góp của ông vào thành tựu chung của công cuộc hiện đại hóa Văn học nƣớc nhà. Nhằm mục đích làm rõ những đánh giá khái quát về thời kì Văn 6 học, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại năm 1942 đã khảo sát Thạch Lam với tƣ cách một nhà văn cùng thế hệ, đó là lần đầu tiên sự nghiệp văn chƣơng của Thạch Lam đƣợc đánh giá một cách tổng thể nhất. Tuy nhiên, nhiều nhận xét của ông đƣa ra không còn phù hợp với quan điểm của đánh giá hiện nay về Thạch Lam. Tiếp theo là các công trình nghiên cứu khác nhƣ Thạch Lam của Nguyễn Tuân, Thạch Lam của Phạm Thế Ngũ, Văn học lãng mạn Việt Nam (1932-1945) của Phan Cự Đệ, Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn của Phong Lê, Một khuynh hướng truyện ngắn của Nguyễn Hoành Khung, Thạch Lam (1910-1942) của Hà Văn Đức ... Việc xuất hiện Tuyển tập Thạch Lam năm 1988 của Nhà xuất bản Văn học với lời giới thiệu kỹ lƣỡng và trang trọng của giáo sƣ Phong Lê và lời bạt của nhà văn tài năng Nguyễn Tuân cho ta thấy những trang viết đầy tính nhân bản truyền thống của Thạch Lam càng cần thiết trong cuộc sống hôm nay với bao biến động của cái chân giá trị. Hội thảo khoa học kỷ niệm năm mƣơi năm ngày mất của Thạch Lam tại Viện Văn học do Viện Văn học phối hợp với Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng, Hội Văn học nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng và Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức không chỉ có ý nghĩa tƣởng nhớ đến một tài năng văn học đã ra đi tròn nửa thế kỷ mà còn xuất phát từ ý thức muốn khám phá sâu hơn, rộng hơn các giá trị của văn học quá khứ trƣớc yêu cầu đổi mới của văn học. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau của tƣ duy nghiên cứu hiện đại, trên một tinh thần dân chủ và sáng tạo, từ điểm nhìn khách quan và khoa học, nhiều bản tham luận tại hội thảo đã đi sâu nghiên cứu những đóng góp quan trọng của văn chƣơng Thạch Lam trên nhiều phƣơng diện: quan niệm nghệ thuật, thi pháp truyện ngắn và những giá trị nhân bản của tác phẩm. 7 Việc đi sâu khám phá những giá trị văn chƣơng của Thạch Lam dƣờng nhƣ chƣa kết thúc. Nhiều bài nghiên cứu về Thạch Lam sau hội thảo vẫn tiếp tục. Nhiều luận án cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ gần đây đã tìm tòi và phát hiện thêm những phẩm chất thẩm mỹ mới của văn chƣơng Thạch Lam. 2.2. Những bài viết nghiên cứu về người phụ nữ trong văn xuôi Thạch Lam. Hà Văn Đức trong Thế giới nhân vật của Thạch Lam có viết “Trong tác phẩm của mình, Thạch Lam thƣờng viết về ngƣời dân nghèo với một niềm thƣơng cảm chân thành, man mác. Niềm thƣơng cảm đó trở nên đặc biệt sâu sắc khi ông nói đến thân phận của những ngƣời mẹ, ngƣời vợ Việt Nam đảm đang, tần tảo, giàu đức hy sinh” (6, 591). “Thái độ trân trọng ngƣời phụ nữ, cảm thông chia sẻ với số phận của họ đƣợc Thạch lam thể hiện qua nhiều tác phẩm” (6, 593). Trong Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Thạch Lam, ông viết “Cái đẹp lớn nhất mà Thạch Lam đem đến cho mọi ngƣời là tình yêu vô hạn của những ngƣời phụ nữ hết lòng vì gia đình”. Lê Dục Tú trong Thạch Lam – người đi tìm cái đẹp trong cuộc đời và trong văn chương nhận xét “Nói đến truyện ngắn của Thạch Lam, trƣớc hết ngƣời ta thƣờng nói đến một thế giới nhân vật trong truyện của ông. Nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam là nhân vật của cuộc sống: có những thân phận dƣới đáy của xã hội (Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ); có những kiếp ngƣời phụ nữ bất hạnh (Cô hàng xén, Hai lần chết, Một đời người, Tối ba mươi)” (2, 24) . Cô hàng xén, Nhà mẹ Lê, Trong bóng tối buổi chiều là vẻ đẹp muôn đời của ngƣời phụ nữ Việt Nam: tần tảo, chịu thƣơng chịu khó và luôn biết hy sinh bản thân mình vì ngƣời khác. Vũ Ngọc Phan có nhận xét riêng về Cô hàng xén: “Truyện Cô hàng xén còn cho chúng ta thấy cái cảnh nghèo nàn và cuộc đời vất vả của ngƣời gái quê nữa. Hết nuôi em, đến nuôi chồng, và đến khi đã có chồng thì không còn tƣởng gì đến sự trang điểm nữa...Cô hàng xén của Thạch Lam tức là ngƣời 8 tiêu biểu cho hạng đàn bà thôn quê hy sinh cho nhà mình và nhà chồng, suốt cuộc đời ở trong cảnh tối tăm và cùng khổ, không biết có ngày vui. Hãy đọc đoạn kết, đoạn mà Tâm (cô hàng xén) sau khi trao cho em mƣời đồng bạc là tiền lấy họ cho chồng rồi trở về...” (2, 51). Cũng nói về Cô hàng xén, Hà Văn Đức cho rằng “Cô hàng xén của Thạch Lam là hình ảnh khá tiêu biểu của ngƣời phụ nữ Việt Nam truyền thống: đảm đang, tần tảo, giàu đức hy sinh. Bên trong cái vẻ âm thầm chịu đựng và có phần nhẫn nhục ấy, tác giả đã có ít nhiều thấy đƣợc vẻ đẹp bình dị và cao quý của họ”. (6, 592) Nguyễn Công Thắng ở Thạch Lam trong Gió lạnh đầu mùa viết “qua lăng kính nhân bản của Thạch Lam, những mẹ Lê, cô Tâm, Lan, Nga,… hiện ra trong dáng vẻ buồn rầu, lặng lẽ nhƣng dịu dàng, tha thiết đến kỳ lạ.” (2, 338) Bùi Việt Thắng trong Người chắt chiu cái đẹp khẳng định: “Nhân vật nữ trong truyện ngắn của Thạch Lam thƣờng mang vẻ đẹp của sự kín đáo, tế nhị. Có vẻ họ hơi cũ một tí nhƣng thật ra đó là nữ tính đậm đà của phụ nữ Việt Nam. Cô gái đẹp trong Cuốn sách bỏ quên trƣớc anh mắt quá chăm chú của ngƣời đàn ông không quen đã “đƣa mắt nhìn Thanh, một tay để trên va-ly, một tay vén lại tà áo cho gọn ghẽ”. Quan tâm và hy sinh vì ngƣời khác là một nét đẹp của ngƣời Việt Nam”. (2, 172) Góp tiếng nói vào vấn đề này, Bùi Tuấn Ninh trong Vài nét về hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam nhận xét: “ Thạch Lam là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Văn ông giàu chất hiện thực và thể hiện một tấm lòng nhân ái, một sự cảm thông sâu sắc đối với những cuộc đời bất hạnh, bị đè nén, áp bức, nhất là số phận ngƣời phụ nữ. Điều đáng ghi nhận ở Thạch Lam là ông không chỉ khám phá, thể hiện một cách chân thực cuộc đời nhục nhã, cơ cực của những ngƣời phụ nữ suốt đời tần tảo vì gia đình, chồng con với bao khổ đau mà còn phát hiện ra ở những số phận bất hạnh ấy những vẻ đẹp tâm hồn thật thánh thiện, cao 9 quý”. “Với trái tim nhân hậu và tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, Thạch Lam mong muốn mỗi cá nhân phải sống sao cho xứng đáng với hai chữ Con ngƣời - nhất là với những nhân vật phụ nữ - một đối tƣợng ông đã dành biết bao sự trân trọng, yêu thƣơng.” (32) Luận án của Phạm Thị Thu Hƣơng khi đánh giá về ba phong cách truyện ngắn trữ tình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 THẠCH LAM – THANH TỊNH – HỒ DZẾNH cũng đã viết “ông thầm lặng thán phục sự nhẫn nại, âm thầm của những mẹ Lê, cô hàng xén, Liên (Một đời người), Mai (Đói),...bởi không hề kêu ca, oán trách số phận. Những con ngƣời ấy đã lặng lẽ cất gánh nặng gia đình trên vai, quên cả mình đi, cầu mong cho những ngƣời thân đƣợc no ấm, yên ổn. Trong sự hy sinh thầm lặng ấy, Thạch Lam tìm thấy những nét đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam “từ tuổi nhỏ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ ngày kia nhƣ tấm vải thô sơ” (Cô hàng xén), những ngƣời “đã phải đau khổ từ lúc lọt lòng), với những “bổn phận hàng ngày, tầm thƣờng và nhỏ mọn” (Chân trời cũ – Hồ Dzếnh)” (15, 50) Lê Minh Truyên trong luận án Thạch Lam với Tự lực văn đoàn cũng chỉ ra “Về ngƣời phụ nữ, bằng bút pháp nghiên về hiện thực, trong nhiều truyện ngắn, Thạch lam còn tiếp tục phát hiện, phản ánh những nét đặc sắc của bức tranh cuộc sống nhiều màu, nhiều vẻ, nhiều góc độ với một cái nhìn tinh tế, trân trọng, hƣớng vào nét đẹp truyền thống trong tâm hồn con ngƣời” (43, 88) Rõ ràng, vấn đề ngƣời phụ nữ trong văn Thạch Lam đã đƣợc quan tâm, tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, nói về ngƣời phụ nữ, vẫn còn nhiều vấn đề còn cần đƣợc tiếp tục khai thác (đáng chú ý là góc nhìn của lý thuyết giới). Chính vì vậy, luận văn sẽ khai thác những khoảng trống về ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam để có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề. Trên cơ sở kế thừa, tổng hợp những thành quả của các công trình nghiên cứu trƣớc đó, chúng tôi hy vọng đề tài này mang đến cho ngƣời đọc 10 một cái nhìn khoa học, khách quan và toàn diện hơn về “Người phụ nữ trong truyện ngắn của Thạch Lam”. 3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu: Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi quan tâm đến đối tƣợng ngƣời phụ nữ trong mới quan hệ với đời sống gia đình, xã hội trong truyện ngắn Thạch Lam. 3.2 Phạm vi nghiên cứu: Luận văn sẽ khái quát về ngƣời phụ nữ trong một số truyện ngắn của Thạch Lam nhƣ Hai đứa trẻ, Nhà mẹ Lê, Đứa con đầu lòng, Trở về, Cuốn sách bỏ quên, Dưới bóng Hoàng Lan, Cô hàng xén, Gió lạnh đầu mùa, người Đầm, Đứa con, Tình xưa...in trong Thạch Lam truyện ngắn, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2006. 3.3 Mục đích nghiên cứu: Thông qua việc tiếp cận hình ảnh ngƣời phụ nữ trong các truyện ngắn kể trên, chúng tôi hƣớng tới một số sự khái quát về đặc điểm thi pháp thể loại và khái quát đặc trƣng phong cách truyện ngắn độc đáo của Thạch Lam. 4. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài, Luận văn chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chính sau đây: Phương pháp loại hình: Loại hình là “tập hợp sự vật, hiện tƣợng có cùng chung những đặc trƣng cơ bản nào đó”. Còn loại hình học là “khoa học nghiên cứu về các loại hình nhằm giúp cho việc phân tích và phân loại một thực tại phức tạp”. Trong luận văn, chúng tôi hƣớng đến sự tổng hợp những truyện ngắn trong Thạch Lam truyện ngắn (chọn lọc), tìm ra điểm chung giữa những ngƣời phụ nữ trong thế giới nhân vật truyện ngắn Thạch Lam, từ đó đi đến kết luận khái quát. 11 Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp là tổ hợp những đặc tính thẩm mỹ - nghệ thuật và phong cách của một hiện tƣợng văn học, là cấu trúc bên trong của nó, là hệ thống đặc trƣng của các thành tố nghệ thuật và mối quan hệ giữa chúng. Nghiên cứu thi pháp văn học là nhấn mạnh bản chất nghệ thuật của tác phẩm, là xem xét tác phẩm văn học nhƣ là một chỉnh thể thống nhất giữa các thành tố, các cấp độ nghệ thuật. Mục đích của nghiên cứu thi pháp là chỉ ra bản chất nghệ thuật của tác phẩm, chỉ ra cái lý do tồn tại của hình thức nghệ thuật. Phương pháp tiểu sử: Trong khi phƣơng pháp xã hội học sáng tác nghiên cứu nhà văn chỉ từ góc độ xã hội và trên bình diện xã hội, chẳng hạn tập trung chú ý đến thành phần xã hội, nghề nghiệp, nơi sinh, môi trƣờng sống và làm việc của nhà văn thì phƣơng pháp tiểu sử lại quan tâm đến cuộc sống và những mối quan hệ riêng tƣ của nhà văn. Nguyên tắc của phƣơng pháp này là dùng các yếu tố tiểu sử của nhà văn để lý giải tác phẩm văn học của nhà văn. Phương pháp so sánh: So sánh để xác định sự vặt về mặt định tính, định lƣợng hoặc ngôi thứ. Trong nghiên cứu văn học, ta có thể so sánh một hiện tƣợng văn học với các hiện tƣợng văn học cùng loại, nhƣng cũng có thể so sánh với các hiện tƣợng văn học đối lập để làm nổi bật bản chất của hiện tƣợng đƣợc đem ra so sánh. Việc so sánh còn giúp ta xác định đƣợc vị trí của hiện tƣợng trong một hệ thống và đánh giá đƣợc ý nghĩa của nó trong hệ thống đó. Phương pháp nghiên cứu nhân vật văn học: Nhân vật là phƣơng tiện đắc dụng để nhà văn khái quát cuộc sống một cách hình tƣợng đồng thời thể hiện sinh động những ý đồ tƣ tƣởng – nghệ thuật của mình. Phƣơng pháp nghiên cứu nhân vật phải chú ý tới cả quan hệ nội tại và quan hệ ngoại sinh của nó. Ta cần nghiên cứu nhân vật ở góc độ nhận thức nội dung đời sống, đặt nhân vật trong một chỉnh thể thống nhất và nghiên cứu nó trên quan điểm lịch sử phát sinh. 12 5. Cấu trúc luận văn: Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, thƣ mực tài liệu tham khảo, luận văn chúng tôi gồm có ba chƣơng với các nội dung chính sau: CHƢƠNG 1: NHÂN VẬT NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN XUÔI 1930 – 1945 VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA THẠCH LAM CHƢƠNG 2: ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM CHƢƠNG 3: NHÂN VẬT NGƢỜI PHỤ NỮ NHÌN TỪ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN Và cuối cùng là phần mục lục. 13 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Nhân vật người phụ nữ và truyện ngắn Thạch Lam trong bối cảnh văn xuôi 1930 – 1945 1. 1. Nhân vật người phụ nữ trong văn xuôi giai đoạn 1930 – 1945: Ngƣời phụ nữ luôn là đối tƣợng đƣợc quan tâm hơn cả trong sáng tác của các tác giả tự cổ chí kim. Trong văn học dân gian, ngƣời phụ nữ luôn là tâm điểm của sự sáng tạo, với tiếng nói đồng cảm, ngợi ca. Trong văn học viết, đặc biệt với Đoạn trường tân thanh – Truyện Kiều của Nguyễn Du, ngƣời phụ nữ đã đƣợc ca ngợi, khẳng định. Ngƣời phụ nữ dù tài sắc vẹn toàn nhƣng số phận vẫn long đong lận đận, gặp nhiều bất hạnh, éo le trong cuộc đời. Tiếp nối và phát huy truyền thống trong văn học dân gian và văn học Trung đại, văn học giai đoạn 1930 – 1945, mà cụ thể là văn xuôi 1930 – 1945 tiếp tục dành cho ngƣời phụ nữ những ƣu ái qua từng trang viết. Trong văn đàn 1930 – 1945, nổi lên hai trào lƣu: văn chƣơng lãng mạn (Văn chƣơng Tự lực văn đoàn) và văn chƣơng hiện thực phê phán. Tự Lực văn đoàn là nhóm viết đƣợc thành lập vào năm 1933, gồm mấy anh em dòng họ Nguyễn Tƣờng nhƣ Nguyễn Tƣờng Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tƣờng Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Tƣờng Lân (Thạch Lam), Trần Khánh Giƣ (Khái Hƣng, Nhị Linh) và một số văn nghệ sĩ khác nhƣ Hồ Trọng Hiếu (Tú Mỡ), Nguyễn Thứ Lễ (Thế Lữ), Ngô Xuân Diệu (Xuân Diệu). Cơ quan ngôn luận của Tự Lực văn đoàn là tuần báo Phong hóa và từ 1936 là tuần báo Ngày nay (khi Phong hóa bị đóng cửa). Phong hóa và Ngày nay đã trở thành những trung tâm tập hợp phong trào văn nghệ lãng mạn, là nơi tuyên truyền cho một cuộc cách tân trong văn học, cho “phong trào Âu hóa” chống lại lễ giáo phong kiến và quan trƣờng phong kiến, là nơi đề xƣớng những hoạt động cải lƣơng tƣ sản (hội Ánh sáng). Phong hóa, Số 101 (8 – 6 – 14 1934) đăng tôn chỉ Tự Lực văn đoàn gồm 9 điểm, trong đó có 5 điểm quan trọng: Dùng lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam; Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nƣớc mà có tính cách bình dân, khiến cho ngƣời khác đem lòng yêu nƣớc một cách bình dân. Không có tính cách trƣởng giả quý phái; Trọng tự do cá nhân; Làm cho ngƣời ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa; Đem phƣơng pháp khoa học Thái tây ứng dụng vào văn chƣơng An Nam. Tự Lực văn đoàn ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỷ. Vì vậy khi đánh giá hiện tƣợng văn học này chúng ta phải có quan điểm lịch sử. Mặt khác, tuy là một văn đoàn có tôn chỉ, mục đich, xuất hiện chỉ trên dƣới mƣời năm những nó vẫn không kém phần phức tạp do bao gồm những khuynh hƣớng, sắc thái khác nhau, phát triển trong những thời kì lịch sử khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi không có mục đích đánh giá, nhìn nhận về Tự Lực văn đoàn và các tác giả trong nhóm dƣới cái nhìn lịch sử, chính trị, chúng tôi chỉ nhìn nhận Tự Lực văn đoàn trên phƣơng diện văn chƣơng. Con đƣờng suy thoái chính trị của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hƣng thì đã quá rõ, cho nên, sự nghiệp văn chƣơng của nhóm Tự Lực văn đoàn phải tính từ những năm 40 trở về trƣớc. Những ngƣời tham gia Tự Lực văn đoàn cùng chung tôn chỉ, mục đích nhƣng cũng cần phân biệt giữa những ngƣời đầu soái (Nhất Linh, Khái Hƣng, Hoàng Đạo) với những thành viên của nhóm nhƣ Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ, Thạch Lam,... và các cộng tác viên nhƣ Huy Cận, Thanh Tịnh, Vũ Đình Liên,...Thạch Lam và Trần Tiêu xuất hiện trong thời kì mặt trận dân chủ nên tác phẩm cũng có những màu sắc khác với Nhất Linh, Khái Hƣng, tuy họ là những cặp anh em ruột trong nhóm Tự Lực văn đoàn. Nhất Linh, Khái Hƣng là hai tác giả tiêu biểu trong nhóm có những điểm tƣơng đồng trong sáng tác mà chúng tôi muốn đề cập đến ở mảng truyện ngắn, và cụ thể là những truyện ngắn về ngƣời phụ nữ. 15 Nhất Linh (1906 – 1963) tên thật là Nguyễn Tƣờng Tam, quê quán Quảng Nam, nhƣng sinh ở Cẩm Giàng, Hải Dƣơng. Năm 1932, cùng Khái Hƣng ra báo Phong Hóa, làm giám đốc và viết bài cho đến 1935. Năm 1933, cùng một số nhà văn khác thành lập Tự lực văn đoàn. Sau khi Phong Hóa bị đóng cửa, ông ra tiếp báo Ngày Nay. Sau 1951, thành lập Nhà xuất bản Phƣợng Giang, ra tạp chí Văn Hóa ngày nay ở Sài Gòn. Năm 1963, ông đã tự tử trong cuộc dấu tranh chống chế độ ông Ngô Đình Diệm. Nhất Linh viết khá nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn. Riêng truyện ngắn, đã in Người quay tơ (Đời nay, 1927), Anh phải sống (Đời nay, 1934), Hai vẻ đẹp (Đời nay, 1934), Hai buổi chiều vàng (Đời nay, 1937), Mối tình câm (Sài Gòn,1961), Thương chồng (Sài Gòn, 1961). Khái Hƣng (1896 – 1947) tên thật là Trần Khánh Giƣ, sinh ra ở làng Cổ Am, Vĩnh Bảo, Hải Dƣơng. Lúc nhỏ, Khái Hƣng theo học chữ Hán nhƣng ông không thích làm quan, thích cuộc sống tự lập, vì vậy vừa đi dạy vừa viết báo để tạo dựng cuộc sống. Từ tác phẩm Hồn bướm mơ tiên đến Khúc tiêu ai oán, Khái Hƣng đóng góp trong kho tàng Văn học Việt Nam khoảng hai mƣơi lăm tác phẩm (truyện dài, truyện ngắn, kịch...) qua 15 năm sáng tác. Về truyện ngắn, Khái Hƣng sáng tác rất phong phú, xuất hiện thƣờng xuyên trên báo Phong hóa và Ngày nay; Anh phải sống (1934), Gánh hàng hoa (1934), Đời mưa gió (1936). Khái Hƣng và Nhất Linh có điểm tƣơng đồng trong sáng tác viết về ngƣời phụ nữ. Ngƣời phụ nữ trong những hình ảnh chân thực về tình yêu, hạnh phúc đích thực trong cuộc sống trong gia đình. Khái Hƣng, Nhất Linh đã phác họa bức tranh sống và thực trong giai đoạn thực dân và phong kiến nhằm phơi bầy cái xấu xa, lạc hậu, lên án đầu óc ích kỷ, vụ lợi, cậy quyền cậy thế... đã hãm hại chà đạp tình yêu, nhân phẩm, cuộc sống của tha nhân và ngay chính ngƣời thân thuộc. Ca ngợi tinh thần tự chủ, tự lập, đề cao phẩm cách 16 của ngƣời phụ nữ trong sinh hoạt gia đình và xã hội; tôn trọng đời sống riêng tƣ, tình cảm cá nhân, lòng vị tha và nhân ái. Quan tâm hơn cả đền ngƣời phụ nữ, hai tác giả trên đã từng đƣa ra vấn nạn, hình ảnh “ngƣời con gái đẹp” trong thảm cảnh “gia đình”. Làm sao dung hòa, giải thoát cuộc sống, tình yêu... cho thích nghi, phải đạo, có tình có lý. Sự thận trọng, cân nhắc, đắn đo, suy ngẫm đó cho thấy tinh thần trách nhiệm và ý thức sáng tạo của ngƣời cầm bút. Tuy nhiên, những ngƣời phụ nữ mà Nhất Linh, Khái Hƣng đề cập đến thƣờng là những phụ nữ trong xã hội tƣ sản thành thị. Họ không bị ám ảnh bởi nỗi lo cơm áo gạo tiền nhƣ những ngƣời phụ nữ nông dân trong văn học hiện thực phê phán. Ngƣời phụ nữ trong văn học lãng mạn của hai tác giá trên có điểm chung là những ngƣời đẹp, sống trong thời điểm khi mà những quan điểm tƣ tƣởng phong kiến kìm nén ngƣời phụ nữ đã trở thành lỗi thời, lạc hậu. Ngƣời phụ nữ bắt đầu vƣơn lên với khái niệm “tự do”, “bình đẳng”, “công bằng”. Họ đấu tranh trong tình yêu, cố gắng sống cuộc sống của riêng mình. Viết theo xu hƣớng lãng mạn, những ngƣời phụ nữ ấy dù là gái quê hay gái thành thị đều rất đẹp. Họ sẵn sàng hy sinh, từ bỏ tất cả để chọn lấy tình yêu. Họ coi tình yêu là cái đích hƣớng tới. Do đó, kết thúc mỗi câu chuyện thƣờng là cái chết cho sự giải thoát, hoặc là cái kết thúc có hậu (nhƣng lại không có thực). Nói nhƣ Hồ Sĩ Hiệp trong Khái Hưng và Thạch Lam “Nhất Linh chủ trƣơng giải phóng ngƣời phụ nữ khỏi chế độ đại gia đình, tránh cho phụ nữ nỗi tình duyên ép buộc, cảnh mẹ chồng nàng dâu” (11, 88) “Nhất Linh giải phóng cho ngƣời phụ nữ góa bụa khỏi cảnh đạo đức giả của chế độ phong kiến”. (11, 89) Song song với trào lƣu lãng mạn Tự Lực văn đoàn là trào lƣu văn học hiện thực phê phán. Những tiền đề xã hội giai đoạn 1930 – 1945 đã làm xuất hiện trên đàn văn học công khai một dòng văn học hiện thực phê phán, nhằm đáp ứng một 17 phần những yêu cầu cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc lúc bấy giờ. Các nhà văn tiến bộ, bạn đƣờng của giai cấp công nhân, nhƣ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao và cả Nhƣ Phong, Học Phi, Lê Văn Hiến,...đã sử dụng chủ nghĩa hiện thực phê phán nhƣ vũ khí chiến đấu. Văn học hiện thực phê phán không chỉ đáp ứng những yêu cầu của cuộc đấu tranh xã hội trong một thời kỳ lịch sử sôi động mà còn phản ảnh quá trình vận động của các hệ tƣ tƣởng, sự tác động qua của các hình thái ý thức kiến trúc thƣợng tầng. Văn học hiện thực phê phán vừa kế thừa và phát triển truyền thống văn học hiện thực chủ nghĩa trong các thế kỷ trƣớc, đặc biệt là thời kỳ cận đại, vừa khắc phục những nhƣợc điểm còn tồn tại trong thế giới quan và phƣơng pháp biểu hiện của các nhà văn trong quá khứ. Những năm 30 của thế kỷ 20 là thời kì hình thành và phát triển mạnh mẽ của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Nhìn chung có thể tạm chia nhỏ thành ba thời kì nhỏ: 1930 – 1935, 1936 – 1939, 1940 – 1945. Thời kì đầu, khủng hoảng khinh tế và phong trào cách mạng tạm lắng xuống, khuynh hƣớng lãng mạn tiêu cực xuất hiện và chiếm ƣu thế trên đàn văn học công khai. Tuy nhiên, tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang vẫn lần lƣợt ra đời khẳng định vị trí của văn học hiện thực phê phán. Tuy nhiên, văn học hiện thực phê phán thời kì này, trong một số trƣờng hợp, chỉ phản ánh những nét cục bộ, những hện tƣợng nổi lên trên bề mặt của xã hội mà chƣa nêu lên đƣợc những vấn đề cơ bản, những vấn đề có tầm khái quát của thời đại, chƣa tập trung vào những vấn đề có tầm khái quát của thời đại. Bƣớc sang thời kì mặt trận dân chủ, văn học hiện thực phê phán phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết. Lực lƣợng sáng tác đông đảo hơn bao giờ hết. Ngoài các tác giả đã sáng tác từ trƣớc đó, còn có thêm Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Lạp, Bùi Huy Phồn, Mạnh Phú Tƣ,...Một số nhà văn Cách mạng cũng 18 sử dụng chủ nghĩa hiện thực phê phán nhƣ một vũ khí trên đàn văn học công khai. Thời kì mặt trận dân chủ, các cây bút hiện thực có điều kiện tung hoành thoải mái hơn trƣớc và dƣờng nhƣ các tài năng đều gặp mùa nở rộ. Nếu Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố là những nhà văn tiêu biểu cho văn xuôi hiện thực phê phán 1930 – 1939 thì Nam cao lại là lá cờ đầu của văn xuôi đầu những năm 40. Văn học hiện thực phê phán 1940 – 1945 đã có sự phân hóa. Trƣớc sự khủng bố của địch, đã có những tác giả đi chệch hƣớng ( Nguyễn Công Hoan với Thanh đạm, Danh tiết) nhƣng một số nhà văn hiện thực lại tiếp thu đƣợc ảnh hƣởng của Đảng qua nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật, đặc biệt là ảnh hƣởng của Đề cương văn hóa 1943. Tuy không trực tiếp bóc trần những mâu thuẫn giai cấp đối kháng trong xã hội và ca ngợi tinh thần đấu tranh của quần chúng nhƣng tác tác phẩm của Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài,...cũng duy trì đƣợc một thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật, thấy đƣợc cái không khí oi bức, dông bão của một xã hội đang ngột thở, đang quằn quại lột xác để chuyển mình, để đổi thay. Trong khuôn hình chung đó, những sáng tác của các tác giả hiện thực phê phán viết về ngƣời phụ nữ đã đóng góp một vị trí không nhỏ trên văn đàn. Nguyên Hồng (1918 – 1982), nhà văn có tuổi thơ đói khổ, lam lũ, bị hắt hủi, bị đày đọa trong xã hội cũ mà bƣớc vào làng văn. Ông vƣơn lên mạnh mẽ nhƣ một mầm cây căng nhựa sống, cứ xuyên qua lớp lớp bùn nâu sẫm, xòe ngọn lá tƣơi xanh đón ánh sáng mặt trời rực rỡ. Những dấu ấn về cuộc đời đã in đậm trong trang văn Nguyên Hồng. Đặc biệt, những sáng tác về ngƣời phụ nữ trong tác phẩm của Nguyên Hồng mang một cái nhìn nhân đạo sâu sắc. Nguồn suối tình cảm yêu thƣơng của Nguyên Hồng bắt nguồn từ cuộc đời thực của ông và của những ngƣời đàn bà nghèo khổ ở các ngõ hẻm, ngoại ô thành phố. Truyện ngắn đầu tay của ông (Linh hồn) đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy năm 1936 kể chuyện ngƣời vợ trẻ đi tù thay chồng vì tội làm muối lậu, 19 gọi là tù án muối. Chị bị lão cai tù khốn nạn hiếp sẩy thai... Hình ảnh đau thƣơng của ngƣời đàn bà trẻ bị ném vào giữa cái chuồng súc vật, cuộc đời oan khổ của chị cứ ám ảnh mãi ngòi bút Nguyên Hồng từ tác phẩm này qua tác phẩm khác. Có thể nói tác phẩm của Nguyên Hồng (Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, Quán Nải, Vực thẳm, Người con gái, Tết của tù đàn bà,...) đã ghi lại đƣợc những nỗi khổ điển hình của ngƣời đàn bà Việt Nam trong những năm dài tăm tối trƣớc Cách mạng tháng Tám. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng ngày càng mài sắc tính chiến đấu. Ông phản đối thái dộ quỳ mọp trƣớc tôn giáo để cầu xin sự thƣởng phạt công bằng của chúa trong Cái tết của người đàn bà. Nguyên Hồng ca ngợi ngƣời mẹ Việt Nam, ngƣời đàn bà chịu thƣơng chịu khó, tần tảo, đảm đang, giàu đức hy sinh, nhƣng ông không lý tƣởng hóa “đức tính” cam phận, nhẫn nhục, không ca ngợi sự phục tùng nhƣ một số nhà văn lãng mạn; ông chủ trƣơng đánh thức ở họ tinh thần đấu tranh tự giải phóng thoát ra khỏi những áp chế (Hai mẹ con). Tiếng nói của họ phải là “những tiếng kêu lên sự thống thiết của sự đau đớn chua xót, đòi gọi sự thay đổi cho cuộc đời đƣợc ấm no, yên vui, rất xứng đáng phần cho những ngƣời mẹ hiền từ, chịu khó” (Vực thẳm). Hành động phản kháng của họ phải là “một sự chùm dậy, hất tung và san bằng những cái đè nén và ràng buộc cái đời ngƣời đàn bà nhà quê cằn cỗi” (Cô gái quê), một sự “phá bỏ rồi thay đổi hẳn lại thì mới đƣợc thở một bầu không khí trong lành, một nguồn ánh sáng rực rõ bên một cuộc đời mới, không đói rét, không đầu tắt mặt tối” (Hàng cơm đêm). Hình ảnh ngƣời phụ nữ trong văn Nguyên Hồng bắt đầu từ ngƣời phụ nữ đáng thƣơng tội nghiệp chấp nhận số phận (Mợ Du) đến những ngƣời phụ nữ dám vùng lên, hất tung tất cả (Cô gái quê) mong thoát khỏi chuỗi ngày đầu tắt mặt tối, không lối thoát (Hàng cơm đêm). Đó là những tiếng nói kêu gọi ngƣời phụ nữ của tác giả. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan