VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƯƠNG KIỀU VÂN
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ NHA TRANG
TỈNH KHÁNH HÒA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƯƠNG KIỀU VÂN
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ NHA TRANG
TỈNH KHÁNH HÒA
Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã ngành: 08.38.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN
Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban giám hiệu Học
viện Khoa học xã hội, các giảng viên đã tham gia quản lý, giảng dạy và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập tại Học viện.
Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn đặc biệt đến PGS.TS.Hoàng Thị Minh Sơn –
giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ về kiến
thức, tài liệu và phương pháp để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo, và các đồng chí, anh chị em cán bộ
công nhân viên của Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang, Viện kiểm sát nhân
dân Thành phố Nha Trang, Công an Thành phố Nha Trang đã nhiệt tình hướng
dẫn, truyền đạt kinh nghiệm, tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tài liệu để tôi
thực hiện hoàn thành Luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt quá trình thực hiện luận văn, song có
thể còn có những mặt hạn chế, thiếu sót, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp và
sự chỉ dẫn của các thầy cô giáo nhằm bổ sung và hoàn thiện các kiến thức của
mình.
Học viên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM
TỘI TRỘM CẮP ....................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của nhân thân người phạm tội trộm cắp ........................ 6
1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp ................ 15
1.3. Cơ cấu và các yếu tố tác động đến việc hình thành nhân thân tiêu cực của
người phạm tội trộm cắp ....................................................................................... 18
Chương 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH
HÒA.......................................................................................................................... 27
2.1. Khái quát tình hình phạm tội trộm cắp ở thành phố Nha Trang giai đoạn
2014 – 2018 .......................................................................................................... 27
2.2. Thực trạng cơ cấu của tình hình tội phạm theo đặc điểm nhân thân của người
phạm tội trộm cắp ở thành phố Nha Trang ........................................................... 37
2.3. Thực trạng các yếu tố tác động đến việc hình thành nhân thân tiêu cực của
người phạm tội trộm cắp trên địa bàn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa .... 46
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI53
3.1. Dự báo tình hình tội phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Nha Trang .......... 53
3.2. Nội dung các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản từ
khía cạnh nhân thân người phạm tội ..................................................................... 55
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tình hình số vụ trộm cắp tài sản ở thành phố Nha Trang theo năm ........27
Bảng 2.2. Cơ số tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp ở Nha Trang giai đoạn
2014 – 2018 ...............................................................................................................29
Bảng 2.3. Cơ cấu tội phạm trộm cắp ở thành phố Nha Trang giai đoạn 2014 – 2018
...................................................................................................................................30
Bảng 2.4. Cơ cấu tội phạm trộm cắp ở Nha Trang năm 2018 theo từng đơn vị hành
chính dưới góc độ cơ số tội phạm và mật độ tội phạm .............................................32
Bảng 2.5. Cơ cấu tội phạm trộm cắp ở Nha Trang năm 2018 dưới góc độ mức độ
nguy hiểm xét theo đơn vị hành chính ......................................................................34
Bảng 2.6. Cơ cấu người phạm tội trộm cắp tài sản theo phương diện độ tuổi và giới
tính ở Nha Trang .......................................................................................................37
Bảng 2.7. Cơ cấu tội phạm trộm cắp ở Nha Trang theo phương diện nguồn gốc dân
tộc ..............................................................................................................................39
Bảng 2.8. Cơ cấu người phạm tội trộm cắp ở Nha Trang theo phương diện trình độ
học vấn ......................................................................................................................40
Bảng 2.9. Cơ cấu người phạm tội trộm cắp ở Nha Trang theo phương diện trình độ
nghề nghiệp ...............................................................................................................41
Bảng 2.10. Cơ cấu người phạm tội trộm cắp ở Nha Trang theo phương diện trình độ
học vấn ......................................................................................................................42
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Sơ đồ tình hình số vụ trộm cắp tài sản ở thành phố Nha Trang theo
năm ............................................................................................................................28
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Nha Trang nằm ở tỉnh Khánh Hòa, là một trong những thành phố
du lịch phát triển nhất Việt Nam. Năm 2018, Nha Trang đón gần 4,5 triệu lượt
khách du lịch trong và ngoài nước [40], bên cạnh việc mở ra nhiều cơ hội phát triển
hoạt động kinh doanh và dịch vụ, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ và điều
kiện cho hoạt động tội phạm, trong đó có tội phạm trộm cắp diễn ra. Trong những
năm qua, các ban ngành chức năng có liên quan đã có nhiều cố gắng trong công tác
đấu tranh chống tội phạm, cũng như quản lý nhân thân người phạm tội trộm cắp ở
thành phố. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu về tội phạm trộm cắp ở Nha
Trang, được tiếp xúc với các tài liệu, số liệu thực tế, cũng như ý thức được vai trò
của nghiên cứu khoa học tội phạm học về nhân thân người phạm tội trộm cắp trong
công tác đấu tranh và ngăn ngừa tội phạm này đối với thành phố, do đó tác giả đã
chọn đề tài: “Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố
Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa” làm đề tài nghiên cứu khoa học tội phạm học của
mình. Thông qua đề tài, tác giả hi vọng góp một phần nhỏ bé vào công tác nghiên
cứu khoa học về tội phạm học nói chung và nghiên cứu về nhân thân người phạm
tội nói riêng, nhằm thúc đẩy công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình
hình mới hiện nay. Do hiểu biết còn hạn chế, tác giả đề tài rất mong nhận được sự
đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô, các chuyên gia nhằm hoàn thiện tốt hơn đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, do sự phát triển của khoa học nghiên cứu về tội phạm
học, cùng với sự ra đời của Bộ Luật Hình sự năm 2015 và các văn bản pháp luật có
liên quan, và do yêu cầu thực tế từ công cuộc đấu tranh chống tội phạm trộm cắp,
mà đã có nhiều nghiên cứu, sách báo, bài viết học thuật về nghiên cứu nhân thân
người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội trộm cắp nói riêng. Trong
đó phải kể đến những công trình tiêu biểu sau:
1
- Nguyễn Thị Thanh Thủy (2005), với Luận văn Nhân thân người phạm tội
trong luật hình sự Việt Nam, thuộc Viện Nhà nước và Pháp luật. Đề tài đã tập trung
nghiên cứu các vấn đề lý thuyết về nhân thân người phạm tội trong pháp luật hình
sự Việt Nam [27].
- Chu Thị Quỳnh (2015), Luận văn Vai trò nhân thân người phạm tội, dấu
hiệu quy định trách nhiệm hình sự. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn
đã đi sâu vào phân tích vai trò nhân thân của người phạm tội trong vấn đề quy định
trách nhiệm hình sự, là vấn đề mấu chốt trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
- Hồ Thanh Lam (2016), Luận văn Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở
hữu trên địa bàn thành phố Nha Trang, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Luận văn đã tập nghiên cứu về nhân thân người phạm tội trong nhóm tội xâm phạm
sở hữu trên địa bàn thành phố Nha Trang [15].
- Nguyễn Thị Cẩm Nhung (2018), Luận văn Nhân thân người phạm tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt
Nam. Luận văn đã trình bày vấn đề nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn tỉnh Bình Dương trong những năm qua [20].
- Đỗ Tiến Dũng (2018), Luận án tiến sĩ Nhân thân người phạm tội sở hữu từ
thực tiễn các tỉnh, thành miền Đông Nam Bộ. Luận án đã nghiên cứu về nhân thân
người phạm tội sở hữu trên thực tiễn tất cả các tỉnh thành miền Đông Nam Bộ trong
những năm qua [9].
Các công trình nghiên cứu về tội phạm học kể trên đều đi sâu vào nghiên cứu
các khía cạnh của nhân thân người phạm tội trong khoa học về tội phạm học ở Việt
Nam, từ đó góp phần hoàn thiện ngành khoa học này, cũng như là tài liệu tham
khảo cho các nghiên cứu trong giai đoạn tiếp theo. Đặc biệt trong 5 năm trở lại đây,
số lượng các công trình nghiên cứu ngày càng nhiều cho thấy nhu cầu nghiên cứu,
hoàn thiện khoa học về tội phạm học và nhân thân người phạm tội càng trở nên cần
thiết. Tuy nhiên, tội phạm học nói chung và nhân thân người phạm tội nói riêng là
một nội dung có phạm vi rộng, đồng thời do diễn biến tội phạm trộm cắp đang ngày
càng phức tạp, từ đó đặt ra yêu cầu cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu này
2
nhằm góp phần hỗ trợ cho công tác đấu tranh chống tội phạm trong xã hội hiện nay.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên còn chưa đi sâu vào tất cả các khía
cạnh của nhân thân người phạm tội, hoặc mới chỉ nghiên cứu về một số tội tiêu biểu
như giết người, tham nhũng, hoặc tập trung vào 1 vài địa bàn như Bình Dương,
thành phố Hồ Chí Minh. Số lượng các nghiên cứu về tội phạm trộm cắp nói riêng
còn ít, đồng thời chưa có nghiên cứu nào về vấn đề nhân thân người phạm tội trộm
cắp trên một địa bàn phức tạp như thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xác định các đặc điểm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn thành phố Nha Trang, tác giả đề tài tiền hành phân tích nguyên nhân
hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của những người phạm tội trộm cắp tài sản.
Từ đó, đưa ra các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản trên địa bàn thành phố Nha Trang từ góc độ nhân thân người phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ dưới
đây:
- Khái quát những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội, từ đó hiểu rõ
về nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản ở thành phố Nha Trang;
- Tổng hợp và nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn thành phố Nha Trang trong giai đoạn 2014 - 2018;
- Dự báo tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Nha
Trang, tỉnh Khánh Hòa;
- Đề xuất các giải pháp tăng cường phòng, chống tình hình tội phạm trộm
cắp tài sản trên địa bàn thành phố Nha Trang, từ khía cạnh nhân thân người phạm
tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về nhân thân người
3
phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Nha Trang. Để hiểu rõ nhân thân
người phạm tội trộm cắp trên địa bàn thành phố Nha Trang, đề tài dựa trên các số
liệu thống kê chủ yếu từ Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thân nhân người phạm tội trộm cắp dưới khía cạnh tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm, từ những số liệu thực tế thông kê của Tòa án
nhân dân thành phố Nha Trang.
Về thời gian, số liệu nghiên cứu được dựa trên số liệu thống kê của các cơ
quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Nha Trang giai đoạn 2014 – 2018
cũng như kết quả nghiên cứu của một số bản án xét xử sơ thẩm tội trộm cắp tài sản
của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang giai đoạn 2014 – 2018. Luận văn sẽ
không nghiên cứu những vụ án xảy ra ở thành phố Nha Trang nhưng được tỉnh
Khánh Hòa, các huyện khác xét xử sơ thẩm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, những quan điểm chính
trị của Đảng Cộng sản Việt Nam để làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản cũng như
các quy định pháp luật về tội phạm trộm cắp trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm
2015 và các văn bản pháp luật có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Thông qua các phương pháp thống kê, tổng hợp, quy nạp, phân tích, so sánh,
đối chiếu, luận văn muốn làm rõ các vấn đề về nhân thân người phạm tội trộm cắp
cũng như đưa ra những đánh giá của tác giả đề tài trên cơ sở thông tin, dữ liệu thu
thập được về vấn đề nghiên cứu của Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. Yếu tố mới cần đạt được
Ý nghĩa về mặt lý luận: Việc nghiên cứu luận văn sẽ góp phần hoàn thiện lý
luận tội phạm học và lý luận phòng, chống tội phạm trộm cắp.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đưa ra những giải pháp để phân tích và vận dụng
4
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tội phạm trộm cắp trên địa bàn
thành phố Nha Trang.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn “Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành
phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa”, có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội trộm cắp tài
sản;
Chương 2: Thực trạng nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa;
Chương 3: Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản
ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa từ khía cạnh nhân thân
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản
Hiện nay, chưa có một tài liệu nào trình bày cụ thể khái niệm nhân thân
người phạm tội trộm cắp tài sản. Trước hết, “nhân thân” là một khái niệm được
nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực như triết học, xã hội học, tâm lý học, luật dân sự,
luật hình sự. Tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài, tác giả đề tài sẽ nghiên cứu khái
niệm nhân thân trên cơ sở các luận điểm của triết học Mác – Lênin cùng với lý
thuyết khoa học pháp lý của pháp luật hình sự hiện nay.
Theo tác giả Võ Khánh Vinh, bản chất của con người bao gồm những nội
dung về sinh học và xã hội. Nhân thân con người gồm các đặc tính xã hội và đặc
tính sinh học, trong đó đặc tính xã hội có vai trò quyết định, nhưng đặc tính sinh
học cũng có vai trò riêng. Chính quá trình đáp ứng được các nhu cầu sinh học chiếm
vị trí quan trọng trong ý thức và lợi ích cũng như khuynh hướng phát triển của con
người [46, tr.39].
Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật Hà Nội đã chỉ rõ, “nhân
thân con người là tất cả các đặc điểm sinh học, tâm lý và xã hội có liên quan đến
một con người, thể hiện bản chất riêng của họ”. Bên cạnh đó, nhân thân con người
còn là những biểu hiện bản chất của con người tham gia vào các mối quan hệ xã
hội. Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người phạm tội, là người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm.
Nhân thân người phạm tội là các đặc điểm của nhân thân con người và cả
những đặc điểm tiêu biểu của nhân thân người phạm tội, có tính nguy hiểm cho xã
hội. Đặc điểm nhận dạng trong nhân thân người phạm tội khác với nhân thân con
người bình thường là trong nhân thân người phạm tội đã gồm có tất cả các dấu hiệu
về chủ thể của tội phạm mà luật hình sự quy định. Tức là, tại thời điểm thực hiện tội
phạm họ có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định và đã thực hiện
6
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Ngoài ra, nhân thân người phạm tội còn có dấu hiệu,
đặc điểm liên quan đến sự việc phạm tội như tâm lí, tính cách, thói quen, sở thích,
quan điểm, thái độ đối với xã hội, ý thức pháp luật [41, tr.48]. Như vậy, kết hợp các
lý luận về nhân thân con người và người phạm tội, nhân thân người phạm tội bao
gồm hệ thống các đặc điểm tâm, sinh lý phụ thuộc vào những điều kiện sống, của sự
giáo dục, của những mối quan hệ nhất định. Tất cả những điều đó cùng với sự tác
động của các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài đã tạo thành động lực thúc đẩy việc
thực hiện tội phạm.
Tương đồng với quan điểm này là quan điểm của Giáo trình tội phạm học
của trường Đại học Huế. Giáo trình này đã chỉ ra nhân thân người phạm tội là
những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người và kết hợp với các
điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến con người đó thực hiện hành vi phạm tội
[45, tr.26].
Theo quy định của pháp luật, nhân thân người phạm tội tuy không phải là
một trong những yếu tố cấu thành tội phạm nhưng các đặc điểm của nhân thân
người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự,
quyết định hình phạt, yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt. Theo Giáo trình
Luật Hình sự Việt Nam phần chung thì nhân thân người phạm tội được hiểu là tổng
thể tất cả các đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội của người thực hiện tội phạm được
cân nhắc để giải quyết những vấn đề của trách nhiệm hình sự [44, tr.256].
Qua nghiên cứu các khái niệm nhân thân người phạm tội trên có thể thấy vẫn
còn có những vấn đề khác nhau về cách thể hiện và chưa có sự thống nhất với nhau
về nội hàm khái niệm. Tuy nhiên, theo tác giả thì nhân thân của người phạm tội là
tổng hợp các đặc điểm sau: i) Đặc điểm nhân chủng học xã hội; ii) Đặc điểm tâm lý
xã hội; iii) Đặc điểm pháp lý hình sự. Các đặc điểm này kết hợp với các điều kiện
khách quan dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội.
Do đó, nhân thân của người phạm tội là tập hợp các đặc điểm, dấu hiệu biểu
hiện bản chất của con người. Các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều kiện,
hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
7
Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người quản
lý do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm
phạm đến quan hệ sở hữu, quyền sở hữu tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức và
cá nhân. Hành vi trộm cắp tài sản của người khác được hiểu là hành vi lén lút chiếm
đoạt tài sản đang có người quản lý hay hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật
tài sản của người khác thành của mình một cách lén lút. Hành vi này khiến cho chủ
sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản không thể thực hiện được các quyền hợp
pháp đối với tài sản của họ hoặc tài sản được giao quản lý. Hành vi chiếm đoạt
được thực hiện một cách lén lút, bí mật. Việc lén lút, bí mật là nhằm che dấu hành
vi phạm tội để chủ sở hữ, người quản lý tài sản hoặc người khác không biết việc
chiếm đoạt đó [3, tr.223].
Trộm cắp tài sản là một tội trong nhóm tội phạm sở hữu, được quy định từ
điều 168 – 180 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 của Việt Nam.
Dựa trên lý luận về nhân thân người phạm tội đã trình bày ở trên, có thể đưa ra khái
niệm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản như sau:
Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản là tổng hợp những đặc điểm, dấu
hiệu thể hiện bản chất của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các
điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi lén lút chiếm
đoạt tài sản đang có người quản lý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu, quyền sở hữu
tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân.
1.1.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản
Ngoài những đặc điểm nhân thân người phạm tội nói chung, nhân thân người
phạm tội trộm cắp tài sản cũng có những đặc điểm riêng. Cụ thể là:
1.1.2.1. Các đặc điểm nhân chủng học - xã hội của người phạm tội trộm cắp
tài sản
Tác giả Võ Khánh Vinh đã đưa ra các đặc điểm về nhân chủng học - xã hội
của người phạm tội xâm phạm sở hữu, bao gồm: giới tính, lứa tuổi, nơi cư trú, dân
tộc, địa vị xã hội, nghề nghiệp, quốc tịch, hoàn cảnh gia đình, trình độ học vấn. Về
bản chất những đặc điểm này không đặc trưng cho con người phạm tội, bởi chúng
8
tồn tại trong bất kỳ nhân thân nào. Nhưng các đặc điểm nhân chủng học xã hội có
mối quan hệ với các điều kiện hình thành nhân cách con người. Bên cạnh đó, nhu
cầu và lợi ích, vị trí và mối quan hệ giao tiếp của người đó trong xã hội sẽ giúp
chúng ta hiểu trọn vẹn về nhân thân người phạm tội và có ý nghĩa quan trọng trong
việc đề ra và thực hiện các biện pháp quản lý, giáo dục, cải tạo người phạm tội nói
chung và tội trộm cắp nói riêng.
Đặc điểm lứa tuổi
Tìm hiểu về lứa tuổi của người phạm tội trộm cắp tài sản để xác định tính
chất, mức độ, đặc điểm tội phạm của từng lứa tuổi và ảnh hưởng của lứa tuổi đến
việc thực hiện tội phạm. Mỗi lứa tuổi có những đặc điểm riêng về sự phát triển thể
chất, tinh thần, tâm, sinh lý, hiểu biết xã hội… Từ đó, ta có người phạm tội trộm
cắp tài sản chia thành 03 nhóm: Dưới 18 tuổi, từ 18 đến 30 tuổi, từ trên 30 tuổi.
Những năm gần đây, người phạm nhóm tội trộm cắp đang có xu hướng trẻ hóa về
độ tuổi. Tìm hiểu đặc điểm lứa tuổi giúp ích cho việc sắp xếp thứ tự ưu tiên trong
đấu tranh phòng ngừa tội trộm cắp đối với từng lứa tuổi cho thích hơp.
Đặc điểm giới tính
Tìm hiểu đặc điểm giới tính của người phạm tội trộm cắp giúp chúng ta biết
được tỷ lệ người phạm tội trộm cắp tài sản giữa nam và nữ, ảnh hưởng của giới tính
đến việc thực hiện các tội trộm cắp. Trên thực tế, tỷ lệ nam giới phạm tội nói chung
và tội trộm cắp nói riêng đều cao hơn so với nữ giới. Bởi nam giới dễ bị tác động
bởi các yếu tố tiêu cực của môi trường sống như tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu, và dễ
phát sinh tâm lý tiêu cực hơn so với nữ giới. Tuy nhiên, theo Giáo trình Tội phạm
học của trường Đại học Luật Hà Nội, trong những năm gần đây số liệu về cơ cấu
giới tính của người phạm tội trộm cắp đang có sự thay đổi. Tỷ lệ nữ giới phạm tội
trộm cắp trong tổng số tội trộm cắp đang có khuynh hướng tăng lên và các loại tội
trộm cắp do họ thực hiện ngày càng đa dạng [41, tr.148].
Đặc điểm trình độ học vấn
Trình độ học vấn là yếu tố phản ánh trình độ nhận thức, hiểu biết về thế giới,
xã hội và môi trường sống xung quanh, ngoài ra còn có sự hiểu biết về các mối quan
9
hệ xã hội, khả năng tuân thủ pháp luật của con người. Bên cạnh đó, nó ảnh hưởng
rất lớn đến cách thức lựa chọn hành vi ứng xử của con người trong các mối quan hệ
xã hội và hành vi phạm tội. Không giống với một số nhóm tội đòi hỏi phải có học
vấn nhất định thì nhóm tội trộm cắp, trình độ học vấn không ảnh hưởng đến việc
một người có thể thực hiện được hành vi phạm tội. Dựa trên nghiên cứu của các nhà
tội phạm học cho thấy, trình độ học vấn của người phạm tội trộm cắp thường thấp
hơn so với những người không phạm tội cùng lứa tuổi và những người phạm tội ở
mỗi loại tội phạm trộm cắp khác nhau cũng có trình độ học vấn khác nhau. Dựa vào
đặc điểm trình độ học vấn, người phạm tội trộm cắp được chia thành 04 nhóm:
Người không biết chữ, người có trình độ tiểu học và trung học cơ sở, người có trình
độ trung học phổ thông, người có trình độ trung cấp trở lên.
Đặc điểm địa vị xã hội và nghề nghiệp
Nghiên cứu địa vị xã hội và nghề nghiệp cho biết được nhóm người làm việc
ở những ngành, lĩnh vực nào trong xã hội dễ thực hiện tội phạm và loại tội phạm họ
thường thực hiện. Phần lớn người phạm tội trộm cắp tài sản là người thất nghiệp
hoặc nghề nghiệp không ổn định, nên địa vị trong xã hội của họ rất thấp. Dựa vào
đặc điểm nghề nghiệp, người phạm tội trộm cắp được chia làm 03 nhóm: thất
nghiệp, nghề nghiệp không ổn định, nghề nghiệp ổn định. Dựa vào địa vị xã hội, có
thể chia thành 2 nhóm: địa vị xã hội cao và địa vị xã hội thấp.
Đặc điểm hoàn cảnh gia đình
Tác giả Võ Khánh Vinh (2014) đã chỉ ra, đặc điểm và những chuyển biến
trong hoàn cảnh gia đình thường có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách
của con người, ở một mức nhất định cũng sẽ tác động đến tính định hướng và tâm lý
kiên định thực hiện tội phạm. Tìm hiểu đặc điểm hoàn cảnh gia đình trong nhân
thân người phạm tội trộm cắp là tìm hiểu ở các gốc độ: Quan hệ gia đình và hoàn
cảnh kinh tế gia đình với những tác động của chúng tới người phạm tội trộm cắp tài
sản.
Quan hệ gia đình là tình trạng gia đình của người phạm tội (chưa kết hôn, đã
kết hôn, ly hôn) và số lượng, đặc điểm thành viên khác trong gia đình (ông, bà, cha,
10
mẹ, anh chị em, con). Kết quả nghiên cứu hiện nay đã chứng minh những người đã
kết hôn và sống trong gia đình êm ấm, hòa thuận, hạnh phúc thường khó thực hiện
hành vi phạm tội trộm cắp hơn những người chưa kết hôn hoặc có gia đình, có cơ
cấu không hoàn thiện (cha hoặc mẹ chết, ly hôn) hoặc không hạnh phúc. Mối quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến cách
thức xử sự của con người. Quan hệ gia đình có vai trò kiểm soát, định hướng hành
vi của con người đồng thời gia đình cũng hạn chế đến mức thấp nhất các hiện tượng
tiêu cực của họ. Đa số người phạm tội trộm cắp xuất thân từ những gia đình có cuộc
sống không hòa thuận, các thành viên sống không có trách nhiệm, thiếu sự quan tâm
chăm sóc lẫn nhau. Từ các đặc điểm quan hệ gia đình, người phạm tội trộm cắp
được chia thành: Chưa kết hôn và đã kết hôn; hoặc gia đình có cơ cấu hoàn thiện và
gia đình có cơ cấu không hoàn thiện.
Hoàn cảnh kinh tế gia đình là những điều kiện kinh tế gia đình của người
phạm tội bao gồm: thu nhập, chỗ ở, điều kiện sinh hoạt, phương tiện đi lại. Hoàn
cảnh kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với việc hình thành động cơ, mục đích phạm
tội trộm cắp và tác động trực tiếp đến phương thức xử sự của con người. Hoàn cảnh
kinh tế khó khăn là nguyên nhân khiến cho con người bức xúc và dao động, từ đó
dễ nảy sinh tâm lý phạm tội. Ở nhiều loại tội phạm trong đó có tội phạm trộm cắp
tài sản, hành vi phạm tội được thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất của người
phạm tội. Dựa vào đặc điểm hoàn cảnh kinh tế gia đình, người phạm tội trộm cắp tài
sản được chia thành hai nhóm: người sống trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế
thuận lợi, người sống trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
Ngoài các đặc điểm nhân chủng học xã hội của nhân thân người phạm tội
trộm cắp nói trên, còn có các đặc điểm khác như: dân tộc, quốc tịch, nơi cư trú, nơi
sinh, cũng có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Dựa
vào đặc điểm dân tộc và phân bố dân cư ở nước ta, người phạm tội trộm cắp được
chia thành 02 nhóm: người dân tộc kinh, người dân tộc thiểu số. Dựa vào các đặc
điểm quốc tịch, người phạm tội trộm cắp được chia thành các nhóm: người Việt
Nam, người nước ngoài và người không quốc tịch. Dựa vào đặc điểm nơi cư trú,
11
người phạm tội trộm cắp được chia thành các nhóm: nơi cư trú ổn định, nơi cư trú
không ổn định, không có nơi cư trú.
1.1.2.2. Các đặc điểm tâm lý, đạo đức của người phạm tội trộm cắp
Các đặc điểm tâm lý xã hội của người phạm tội trộm cắp gồm có: (i) thái độ,
nhận thức đối với pháp luật và đạo đức xã hội; (ii) nhu cầu, sở thích, thói quen cá
nhân hoặc cộng đồng; (iii) động cơ, mục đích phạm tội; (iv) quan điểm tôn giáo, tín
ngưỡng. Cụ thể là:
Các giá trị đạo đức xã hội và pháp luật
Nghiên cứu thái độ, nhận thức đối với pháp luật và xã hội của con người là
nghiên cứu các quan điểm, thái độ, nhận thức đối với tổ quốc, đối với nghĩa vụ công
dân, đối với các mối quan hệ trong xã hội và với chính bản thân. Nghiên cứu quan
điểm, thái độ, nhận thức đối với pháp luật và đạo đức xã hội của người phạm tội
trộm cắp tài sản là cách lý giải vì sao trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định
một con người lại thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp. Nghiên cứu về người phạm
tội trộm cắp cho thấy phần lớn quan niệm của họ về nhân sinh quan, thế giới quan
thường bị bóp méo, lệch lạc. Đối với người phạm tội thì lợi ích cá nhân là trên hết,
không quan tâm đến quyền lợi của cộng đồng hay của người khác. Do đó, họ chỉ lựa
chọn thực hiện những hành vi có thể đem lại lợi ích cho bản thân, nhất là các lợi ích
vật chất, kể cả điều đó có thể xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người khác [36,
tr.121].
Theo tài liệu của Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2000) thì đặc điểm
tâm lý - pháp luật của người phạm tội trộm cắp là quan điểm, thái độ, nhận thức của
người đó đối với pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật. Người phạm tội trộm cắp
có hiểu biết rất ít về pháp luật, có thái độ thờ ơ, coi thường pháp luật và các cơ quan
bảo vệ pháp luật, tâm lý hám lợi, đua đòi, lười lao động nhưng thích hưởng thụ,
mong muốn kiếm tiền bằng mọi giá. Một số người nghĩ rằng thông qua cách thức,
thủ đoạn phạm tội tinh vi họ có thể tránh né được sự trừng phạt của pháp luật hoặc
hy vọng rằng hành vi phạm tội của mình không bị phát hiện. Trong trường hợp đặc
biệt, người phạm tội trộm cắp còn có xu hướng chống đối xã hội và chống đối pháp
12
luật [38, tr.13].
Nhu cầu, sở thích, thói quen
Những đặc điểm nhu cầu, sở thích, thói quen ở mỗi người là khác nhau, nhưng
ở những người phạm tội trộm cắp tài sản thì đa số đều có nhu cầu, sở thích tiêu cực,
không lành mạnh. Họ sẵn sàng thực hiện mọi cách kể cả là phạm tội để thoả mãn
nhu cầu, sở thích đó. Nhu cầu, sở thích, thói quen ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình
thành động cơ, mục đích phạm tội. Đối với người phạm tội trộm cắp tài sản thường
có nhu cầu, sở thích vật chất không chính đáng, coi trọng vật chất, có thái độ lười
biếng, tư tưởng không làm mà hưởng, có thói quen tiêu tiền phóng túng vào những
sở thích không chính đáng, thói quen rượu chè, cờ bạc, sử dụng các chất kích thích.
Động cơ, mục đích phạm tội
Động cơ, mục đích phạm tội thường cho thấy trạng thái tâm lý của người
phạm tội đối với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Động cơ phạm
tội được quyết định bởi các nhu cầu và sở thích đã chuyển biến thành nhận thức
thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm. Mục đích phạm tội là mục tiêu được
đặt ra và quyết định ý chí chủ quan của người phạm tội, thúc đẩy họ đến việc thực
hiện tội phạm. Khi thực hiện hành vi phạm tội, nếu động cơ phạm tội càng mãnh
liệt, mục đích phạm tội càng rõ ràng thì tính chất của tội phạm càng manh động,
nguy hiểm và hậu quả của tội phạm càng nặng nề hơn. Do đó, nghiên cứu động cơ,
mục đích phạm tội trộm cắp không chỉ xác định nguyên nhân thực hiện tội phạm
trộm cắp, đồng thời là cơ sở cho việc đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, từ đó giúp cho việc tìm ra những biện pháp
tác động tích cực nhằm bài trừ động cơ và mục đích phạm tội, hạn chế đến mức
thấp nhất hậu quả mà người phạm tội trộm cắp có thể gây ra cho xã hội. Điều đó
giúp giảm bớt việc phạm tội, ngăn chặn người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội
ngay từ đầu.
Bên cạnh đó, những đặc điểm về tôn giáo, tín ngưỡng cũng có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình hình thành nhân cách con người. Dựa vào đặc điểm tôn giáo,
người phạm tội trộm cắp được chia thành: người theo tôn giáo, người không theo
13
- Xem thêm -