Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nhân vật gái điếm trong làm đĩ của vũ trọng phụng và xóm rá của ngọc giao...

Tài liệu Nhân vật gái điếm trong làm đĩ của vũ trọng phụng và xóm rá của ngọc giao

.PDF
80
461
142

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO PHÚ NGHĨA NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG “LÀM ĐĨ” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG VÀ “XÓM RÁ” CỦA NGỌC GIAO Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. Vũ Thị Trang Hà Nội, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan các nội dung trong luận văn này hoàn toàn được hình thành và phát triển từ những quan điểm của chính cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Thị Trang. Các trích dẫn rõ ràng, các dữ liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Tác giả Đào Phú Nghĩa MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 NỘI DUNG ............................................................................................................ 7 Chương 1. TỪ HÌNH ẢNH KỸ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ĐẾN NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX .. 7 1.1. Hình ảnh kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam......................................... 7 1.2. Nhân vật gái điếm trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX .......................... 14 Chương 2. NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG LÀM ĐĨ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNGVÀ XÓM RÁ CỦA NGỌC GIAO NHÌN TỪ KHÔNG GIAN VĂN HÓA XÃ HỘI ĐƯƠNG THỜI ............................................................................ 21 2.1. Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng nhìn từ không gian văn hóa xã hội đương thời .................................................................................... 21 2.2. Nhân vật gái điếm trong Xóm Rá của Ngọc Giao nhìn từ không gian văn hóa xã hội đương thời ................................................................................................. 34 Chương 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬTGÁI ĐIẾM TRONG LÀM ĐĨ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNGVA XÓM RÁ CỦA NGỌC GIAO........................................................................................................ 52 3.1. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao ....................................................................... 52 3.2. Vấn đề giao thoa thể loại phóng sự - tiểu thuyết .......................................... 63 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 73 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ xưa, trong xã hội Việt Nam, người phụ nữ luôn là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi với quan niệm phong kiến: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Trong các tài liệu sử học, văn hóa học cũng như văn học, rất nhiều công trình, tác phẩm thể hiện rõ vấn đề này, thậm chí đến ngày hôm nay người phụ nữ cũng chưa thể có được một vị trí và sự bình đẳng với nam giới. Sự xuất hiện của thực dân Pháp ở nước ta cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, xã hội chuyển biến và phân hóa mạnh mẽ, “cũ mới tranh nhau, Á Âu xáo trộn”, dẫn đến sự xuất hiện của một bộ phận những cô gái bán dâm để tồn tại. Vào đầu thế kỉ XX, ở nước ta vấn đề đó thực sự là một vấn nạn được ghi lại trong nhiều tài liệu nói chung cũng như trong văn học nói riêng. Hai tác phẩm Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao đều nói về cuộc đời, số phận của những người phụ nữ không chỉ đớn đau về thân xác mà quan trọng hơn họ phải gánh chịu nỗi đau về tinh thần. Về thân xác họ bị hành hạ, bị hãm hiếp đến bầm dập. Về tinh thần, họ bị tha hóa, biến chất: từ chỗ là những cô gái ngây thơ, trong sáng để rồi phải ê chề, nhục nhã chịu cảnh gái điếm. Trong cảnh đời gái điếm, họ luôn luôn bị dày vò, muốn quẫy đạp, bứt phá khỏi hoàn cảnh nhưng dòng đời xô đẩy khiến họ rơi vào bi kịch không lối thoát. Điều đó khiến độc giả luôn trăn trở, day dứt, cảm thương. Hiện tượng gái điếm không chỉ có tính thời sự đối với xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX mà mãi là nỗi đau, sự nghiệt ngã trong xã hội hôm nay và có lẽ là cả mai sau. Tìm hiểu nhân vật gái điếm không những cho ta hiểu hơn về hiện thực xã hội cũ, hiểu hơn về giá trị nhân văn sâu sắc của văn học thời kỳ này mà còn giúp ta phải nhìn nhận lại, phải băn khoăn, day dứt, trăn trở. Cũng qua đó gióng lên hồi chuông khiến ta phải giật mình, thảng thốt, đó là sự méo mó về nhân cách con người, sự suy đồi, xuống cấp một cách trầm trọng về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ trong xã hội ngày nay. Nhân vật gái điếm thực ra đã xuất hiện trong văn học trung đại với tên gọi khác là kĩ nữ trong những tác phẩm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Long thành cầm gia 1 ca, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ... Tuy nhiên, trong văn học giai đoạn đó, người ta mới chỉ quan tâm đến những anh hùng liệt nữ chứ không mấy quan tâm đến những nhân vật được cho là “bên lề” như vậy. Đầu thế kỉ XX, cũng có những sáng tác về vấn đề này nhưng cũng không có nhiều những công trình nghiên cứu về nhân vật gái điếm. Thực ra, về bản chất triết học của cuộc sống, có lẽ hiện tượng/nhân vật này sẽ tồn tại muôn đời cùng với nhu cầu của con người. Xã hội càng hiện đại, con người dần có cái nhìn bớt khắc nghiệt hơn và càng ngày càng khẳng định sự tồn tại của ngành công nghiệp mại dâm với những cơ chế quản lý cụ thể. Vì vậy, cần có nhiều hơn nữa những công trình nghiên cứu về vấn đề này. Lựa chọn đề tài nghiên cứu Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao chúng tôi hi vọng hiểu hơn về nhóm nhân vật/con người này cũng như mong muốn tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã hội văn hóa đầu thế kỉ XX qua hai tác phẩm văn học nổi tiếng của hai nhà văn tài hoa. Từ đó có những nắm bắt về hiện tượng được miêu tả cũng như giá trị nhân văn và nghệ thuật của hai tác phẩm. Đồng thời góp phần nhìn nhận lại số phận của những con người chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, bước đầu lí giải hoàn cảnh dẫn đến bước đường bán thân của những cô gái từ góc nhìn văn học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu về đề tài kĩ nữ, gái đĩ, gái điếm không phải là đề tài mới. Trong công trình Bàn về Truyện Kiều trích trong cuốn sách Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997, do Đình Gia Khánh chủ biên, Đặng Thai Mai cũng nhấn mạnh số phận của nhân vật Thúy Kiều: “Qua tập truyện của Nguyễn Du, người ta thấy những cảnh đáng thương nhất trong xã hội phong kiến:… cô thiếu nữ bị mua về bán đi trên thị trường thương mại. Bị đày đọa trong chốn thanh lâu, hy sinh cho thú tính của một hạng người ích kỷ, đi làm nô tỳ dưới một chế độ bán nô lệ. Kiều chính là hiện thân của một giai nhân, một thiên tài bị đày đọa qua những cảnh sống éo le, đau đớn” [16, tr. 49]. Hay Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật trong thơ 2 chữ Hán Nguyễn Du, tác giả Lê Thu Yến cũng đã đề cập đến thân phận những người ca nữ tài sắc nhưng số phận thật nghiệt ngã, bi thương: “Hình tượng con người đau khổ còn là hình ảnh những người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh. Họ dù là hạng người nào: một bà phi, một cô hầu, một cô bé ngây thơ hay một kỹ nữ… đều được Nguyễn Du hết sức trân trọng” [56, tr. 68]. Cũng trong luận án này, tác giả Lê Thu Yến còn nhấn mạnh: “Nguyễn Du đặc biệt thương cảm đối với những người phụ nữ tài hoa nhưng bất hạnh. Tất cả họ đều là người có tài, có sắc, nức tiếng một thời. Đó là nàng Tiểu Thanh, người ca nữ đất La Thành, người hầu cũ của em, cô Cầm ở đất Long Thành… Thời tuổi trẻ các nàng tài sắc không thua kém ai… nhưng rồi người ca nữ đất La Thành chết trẻ, Tiểu Thanh oan thác, người hầu cũ của em tàn tạ, rách nát, cô Cầm tiều tụy, xác xơ… Hình ảnh ấy gây một mối thương tâm lớn lao trong Nguyễn Du. Những con người tài hoa không dễ dàng tồn tại một cách bình yên trong cuộc đời” [56, tr. 70]. Lâm Khang trong Những bi kịch của ả đào xưa đã viết thật xúc động: “Các cô đào, dù hát còn hay, dù còn thanh sắc cũng giấu kỹ phách, các kép hát thì gác đàn lên xà nhà, giấu đi cái hành trang một thời làm nghề hát xướng của mình để nhập vào cuộc sống mới. Không ai dám hát, không ai dám đàn, không ai dám nhận mình là cô đầu nữa. Con cái các đào kép một thời lừng lẫy bỗng đâm ra xa lánh, sợ sệt cha mẹ mình. Tiếng xấu sinh hoạt ả đào trùm lên cả xã hội. Nhắc đến cô đầu người ta sợ. Nhắc đến hát ả đào, người ta nghĩ đến một thú ăn chơi làm cho người ta khuynh gia bại sản, có hại cho phong hoá và luân lý. Người ta cho cô đầu là cái người: “Lấy khách - khách bỏ về Tàu, lấy nhà giàu - nhà giàu hết của”. Các ca nữ thưở trước đều tìm một nghề khác kiếm sống, giấu biệt cái nghề ca hát của mình đi. Có đào nương phải kiếm một gánh nước chè độ nhật cho đến tận lúc cuối đời. Nhiều đào nương lần hồi kiếm các công việc để độ nhật. Có đào nương trở về với công việc đồng áng, cố che lấp đi cái nghề ca hát của mình. Gặp lại các bà để hỏi về ca trù, các bà còn run sợ, có bà không dám nói hay nhận mình là cô đầu...”. Kỹ nữ sử (Lịch sử kỹ nữ) của Từ Quân và Dương Hải là một tác phẩm nghiên cứu về nghề kỹ nữ ở Trung Hoa. Mặc dù các dẫn chứng trong tác phẩm 3 chủ yếu lấy từ lịch sử Trung Hoa song tác phẩm vẫn có giá trị tổng kết chung nhất định. Tác phẩm nói về lịch sử kỹ nữ ở Trung Hoa, không phải ở Việt Nam. Nhưng với sự tương đồng về mặt văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa thời phong kiến, ta có thể tưởng tượng được phần nào cuộc sống của kỹ nữ Việt Nam ngày xưa. Số phận người phụ nữ nói chung và người kỹ nữ nói riêng ở nơi nào, giai đoạn nào cũng đều đáng thương như nhau. Điểm qua những ý kiến ở trên, có thể thấy rõ đề tài kỹ nữ trong văn học trung đại đã có nhiều người quan tâm tìm hiểu. Và đề tài ấy tiếp tục được nghiên cứu và đi vào trong các tác phẩm văn học đầu thế kỉ XX. Chẳng hạn, Khái Hưng và Nhất Linh đã xuất bản cuốn Đời mưa gió hay Nguyên Hồng với Bỉ vỏ. Các tác phẩm này, lâu nay vẫn được các nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm. Đã có biết bao công trình nghiên cứu, biết bao giấy mực đề cập đến những nội dung của những tác phẩm này. Và trong những năm gần đây, luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Thị Hoàng Yến với đề tài Hình ảnh người kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam đã để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc. Trong luận văn tác giả viết: “Người kỹ nữ vẫn bị xem là hạng người dưới đáy xã hội, bị toàn xã hội coi thường và tước đoạt quyền sống, quyền làm một con người bình thường, quyền hạnh phúc. Vậy mà, người kỹ nữ chưa bao giờ để cho khát vọng của mình bị dập tắt bởi bất cứ thế lực nào. Họ luôn tìm mọi con đường để giải thoát mình và hướng tới một cuộc sống hạnh phúc. Từ những người ca nữ chưa được thể hiện sâu sắc trong những tác phẩm thuộc thời kỳ đầu của văn học trung đại, cho đến những kỹ nữ được mô tả một cách sinh động với đầy đủ mọi cung bậc tâm trạng, tích cách, số phận ở giai đoạn sau, tất cả đều là những con người luôn khát khao hạnh phúc và có ý thức về bản thân rất cao trên con đường đi tìm hạnh phúc”[57, tr. 97]. Trong dòng chảy đó, người viết góp thêm một tiếng nói, một suy nghĩ, một cái nhìn qua luận văn Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao. Những công trình nghiên cứu đi trước chính là tiền đề để người viết tham khảo, lựa chọn và 4 thực hiện đề tài. Hy vọng luận văn sẽ góp thêm một tiếng nói về một vấn đề không kém phần nhạy cảm và có tính thời sự trong xã hội ngày nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Với đề tài Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao, luận văn nhằm phân tích hình ảnh nhân vật gái điếm được thể hiện trong hai tác phẩm. Luận văn sẽ đi sâu vào phân tích đặc điểm tính cách nhân vật và đặc biệt là số phận của những con người này. Trong quá trình phân tích, ta sẽ cảm nhận được những ngóc ngách tình cảm, nội tâm, những nỗi đau, tủi nhục, ê chề và những khát khao của những thân phận yếu đuối, mỏng manh, bất hạnh. Từ đó sẽ cho ta thấy rõ hơn về hiện thực xã hội, tình cảm, thái độ của nhà văn đối với lớp người này. Đó cũng là giá trị hiện thực và giá trị nhân văn cao cả mà các tác phẩm hướng tới. Bên cạnh đó, luận văn làm rõ nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật qua ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, giọng điệu; đặc biệt là vấn đề giao thoa thể loại tiểu thuyết - phóng sự với tính chân thực, tính thời sự, chất tiểu thuyết tâm lí - luận đề, thời gian và không gian nghệ thuật trong hai tác phẩm. Từ đó thấy được tài năng của hai nhà văn Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nhân vật gái điếm – từ đó để tìm ra cái hay trong cách xây dựng nhân vật của Vũ Trọng Phụng và Ngọc Giao. Phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là hai tác phẩm Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao trong tương quan mở rộng với các sáng tác khác của hai nhà văn này và các sáng tác khác của các nhà văn có cùng về chủ đề này. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu như sau: Phương pháp nghiên cứu loại hình, văn hóa – lịch sử, liên ngành, phê bình phân tâm học, lí thuyết thi pháp học và tự sự học... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 5 Về mặt lý luận, luận văn góp một cái nhìn về cách xây dựng nhân vật gái điếm trong hai tác phẩm Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao. Luận văn đã thể hiện nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình tiết; nghệ thuật xây dựng nhân vật... Từ đó giúp ta có thể khái quát về cách xây dựng loại hình nhân vật này nói chung. Về mặt thực tiễn, luận văn giúp bạn đọc hiểu hơn về lịch sử văn hóa giai đoạn này, hiểu hơn về thân phận người phụ nữ nói chung và nhân vật gái điếm nói riêng trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo về các chủ đề liên quan, làm tài liệu cho giảng dạy tác phẩm trong chương trình phổ thông… 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của luận văn chia làm ba chương: Chương 1: Từ hình ảnh kỹ nữ trong văn học trung đại đến nhân vật gái điếm trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX Chương 2: Nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao nhìn từ không gian văn hóa xã hội đương thời Chương 3: Một số vấn đề về nghệ thuật thể hiện nhân vật gái điếm trong Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng và Xóm Rá của Ngọc Giao 6 NỘI DUNG Chương 1 TỪ HÌNH ẢNH KỸ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI ĐẾN NHÂN VẬT GÁI ĐIẾM TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX 1.1. Hình ảnh kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam Văn học trung đại phản ánh chân thực xã hội phong kiến Việt Nam. Đây là một thời kì đầy biến động mà qua văn chương ta có thể thấy được bối cảnh lịch sử thời ấy. Từ vận mệnh đất nước, dân tộc đến những nỗi niềm của người dân trong cuộc sống hằng ngày đều được phản ánh trong văn học. Trong đó, có cả chất hào sảng của hào khí Đông A trong thời Lý Trần với tinh thần quyết chiến, quyết thắng chống lại kẻ thù của dân tộc, có cả tiếng nói đau thương, bi ai, thống thiết cho số kiếp của những con người “thấp cổ bé họng” trong xã hội thế kỉ XVIII – XIX. Hiện thực được phản ánh chủ yếu trong tác phẩm chính là những mặt trái của xã hội. Đó là Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ với bộ mặt xấu xa, vô nhân đạo của xã hội phong kiến dưới chế độ nam quyền, là sự rối ren, chiến tranh phong kiến phi nghĩa gây ra bao bất hạnh cho con người. Đó là Vũ trung tùy bút của Phạm Hổ phản ánh cuộc sống xa hoa của tầng lớp vua chúa, sự nhũng nhiễu của bọn quan lại Lê - Trịnh. Đó là Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái tái hiện sự hỗn loạn của xã hội phong kiến thông qua số phận bi thảm, bộ mặt hèn nhát của lũ vua quan bán nước, hại dân. Chất nhân văn luôn thấm đẫm từng trang viết trong các tác phẩm văn chương. Bởi vậy, cất tiếng nói để ca ngợi, để thông cảm với con người là nội dung ta dễ dàng nhận thấy trong văn học trung đại. Đặc biệt là số phận người phụ nữ - những con người luôn phải chịu thiệt thòi, bất hạnh. Đó là số phận oan trái, bi kịch của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Đó là số phận chìm nổi của Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du đã rất nhiều lần nói về sự bất hạnh của những con người tài sắc: “Rằng hồng nhan tự thuở xưa/ Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?”; “Phận sao bạc chẳng vừa thôi/ Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan”; 7 “Đầu xanh có tội tình gì/ Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi”. Đúng là “hồng nhan bạc phận”, “hồng nhan đa truân”. Người đẹp, đặc biệt là người tài sắc hay gánh chịu một số phận gian nan: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Đất nước ta phải chịu hàng ngàn năm Bắc thuộc, bởi vậy có sự giao thoa về văn hóa rất gần gũi với Trung Hoa. Nét văn hóa mà ta chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất đó là đạo Nho của Khổng Tử. Đạo Nho của Khổng Tử là một tôn giáo đã trói buộc con người vào khuôn mẫu, vào những phép tắc lễ nghĩa. Những trói buộc đó tác động rất lớn đến cuộc sống của những người phụ nữ. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Thân phận người phụ nữ phải chịu bao đắng cay, nhục nhã, ê chề. Họ hoàn toàn phụ thuộc, lệ thuộc vào người đàn ông. Ca dao đã từng cất lên lời than thân, trách phận ngậm ngùi, chua xót: “Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”; “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Với những người có tài sắc thì tài sắc càng là mối tai họa hơn. Họ thường bất hạnh vì chính tài sắc của mình. Họ trở thành nạn nhân của vua chúa, quan lại, địa chủ, cường hào. Họ hoàn toàn không chủ động được cuộc sống của mình, không có quyền lựa chọn riêng cho mình cách sống, cách ứng xử, thậm chí là làm chủ thân xác và tâm hồn mình. Họ bị tuyển mộ, dâng nạp, gả bán cho quan lại, vua chúa, cường hào, địa chủ để rồi trở thành công cụ thỏa mãn nhục dục của tầng lớp trên. Khi sắc đẹp phai tàn, số phận của họ trở nên thật bi đát. Bên cạnh là công cụ mua vui, người tài sắc còn là một phương tiện để tầng lớp thống trị thực hiện những mưu đồ chính trị. Đau đớn thay, khi cần thì tầng lớp thống trị dùng sắc đẹp của người phụ nữ vào việc tranh giành quyền lực, còn khi thực hiện thành công mưu đồ thì có thể họ sẽ kết thúc cuộc đời của các mỹ nhân một cách tàn ác, không thương tiếc. Rõ ràng, xã hội nam quyền với sự lạm dụng vô hạn quyền lực của nam giới đối với người phụ nữ đã gây ra bao thảm cảnh. Hiện thực ấy đã giúp rất nhiều tác giả tái hiện lại bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam trong những giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt làm nên giá trị hiện thực - một trong những phương diện tư tưởng quan trọng của tác phẩm. Thông qua hiện thực ấy, các tác giả đã lên 8 tiếng tố cáo đanh thép xã hội phong kiến, thể hiện sự bất bình cao độ, đặc biệt là cất lên tiếng nói đồng cảm, xót xa, bênh vực và bảo vệ con người. Điểm qua một vài nét về không gian văn hóa xã hội Việt Nam trung đại để có cái nhìn bao quát về sự xuất hiện và tồn tại của hình ảnh người kỹ nữ trong văn học giai đoạn này. Theo Từ điển Hán Việt của Nguyễn Tôn Nhan, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, 2003, thì từ kỹ nữ có các nét nghĩa sau: Chữ “kỹ” (nhân + chi): Có nghề, có tài năng; Nữ nhạc công, con hát Thời cổ [32, tr. 28]. Chữ “kỹ” (nữ + chi): Gái đẹp; Người phụ nữ làm nghề ca hát; Tục gọi gái đĩ [32, tr. 190]. Chữ “kỹ” (thủ + chi): Tài năng, có nghề; Thợ giỏi [32, tr. 325]. Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa Thể thao, 2005, trang 1095 thì kỹ nữ là người con gái đẹp, đào hát, gái làm nghề mại dâm. Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, trang 980 thì kỹ nữ là người con gái làm nghề ca hát và mại dâm trong chế độ cũ. Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 2002, trang 638 thì kỹ nữ là gái hành nghề tại các thanh lâu, kỹ viện. Như vậy, chúng ta thấy một điều rằng kỹ nữ ban đầu không phải là loại phụ nữ làm nghề bán thân mà vốn là những người hát, ca múa, mang tính chất nghệ thuật. Qua thời gian, càng về sau, cách hiểu về từ kỹ nữ càng xa so với ý nghĩa ban đầu của nó. So với ý nghĩa ban đầu thì càng về sau, khái niệm kỹ nữ càng gần với việc bán dâm. Thái Thuận đã diễn tả tâm trạng của kỹ nữ khi xế chiều: “Hao mòn niên thiếu thưở ăn chơi/ Trang điểm hồng nhan khó đẹp người/ Hoa rụng trước đình gương biếng ngắm/ Trăng soi hồ nhớ hái sen chơi/ Lầu son gái trẻ vui mà thẹn/ Gác tía thuyền quyên nhớ một thời/ Chiếc gối du tiên khơi trí tưởng/ Cùng ra ngủ giấc chia đôi. (Lão kỹ ngâm – Thái Thuận – Quách Tấn dịch). Bài thơ là sự nuối tiếc đến khắc khoải của 9 người ca kĩ khi đến tuổi xế chiều. Đây có thể coi là một trong những tác phẩm văn học đầu tiên có hình ảnh của người kỹ nữ của văn học trung đại. Đến thế kỉ XVI, giai cấp phong kiến suy tàn, đời sống nhân dân rơi vào cảnh lầm than, cơ cực. Thơ văn đã cất lên tiếng nói phê phán bè lũ thống trị, cảm thông với những số phận “thấp cổ bé họng” trong xã hội. Hình ảnh những con người với cuộc sống cùng cực đã trở thành hình tượng trung tâm trong những sáng tác. Đặc biệt, một trong những hình ảnh gợi lên nhiều nỗi thương tâm, suy nghĩ, trăn trở nhất là số phận của những người phụ nữ. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm tạo tiền đề cho việc xuất hiện phổ biến hơn hình ảnh người kỹ nữ trong thơ văn trung đại. Các truyện Chuyện nghiệp oan của Đào Thị và Chuyện nàng Túy Tiêu là những truyện có xuất hiện hình ảnh nhân vật nữ có những biểu hiện đặc trưng của người làm nghề kỹ nữ. Thế kỷ XVIII, người kỹ nữ đã xuất hiện hàng loạt trong những sáng tác mà tiêu biểu hơn cả là những sáng tác của Nguyễn Du như Long Thành cầm giả ca (trích trong Bắc hành tạp lục), La Thành mại ca giả (trích trong Thanh Hiên thi tập), Ngộ gia đệ cựu ca cơ (trích trong Bắc hành tạp lục), Văn chiêu hồn, Truyện Kiều... Với những tác phẩm trên, những nhân vật kỹ nữ tiêu biểu đó là Thúy Kiều trong Truyện Kiều, cô Cầm trong Long Thành cầm giả ca, người ca nữ đất La Thành trong La Thành mại ca giả. Tất cả những người kỹ nữ trên đều có chung một điểm, đó là “hồng nhan bạc mệnh”. Khi nghệ thuật hát ca trù ra đời, người kỹ nữ xuất hiện với tên gọi khác là cô đầu. Một số tác phẩm của các tác giả giai đoạn này có sự xuất hiện hình ảnh cô đầu: Dương Khuê có các tác phẩm: Gặp đào Hồng đào Tuyết, Gặp cô đầu cũ, Tặng cô đầu Hai, Tặng cô đầu Cúc, Thăm cô đầu ốm; Nguyễn Công Trứ có các tác phẩm: Một ngày là nghĩa, Cảnh biệt ly, Yêu hoa, Bỡn cô đầu già; Trần Tế Xương có các tác phẩm: Hát cô đầu, Thú cô đầu, Tết cô đầu, Chơi ả đào, Hỏi ông trời; Nguyễn Khuyến có các tác phẩm: Đĩ cầu Nôm, Bóng đè cô đầu. Cô đầu trong văn học trung đại được miêu tả theo hai chiều hướng: cô đầu là truyền nhân của nghệ thuật và cô đầu đã bị biến tướng cùng thời gian. 10 Như vậy, ở mỗi giai đoạn, hình ảnh người kỹ nữ mang những nét màu sắc khác nhau. Giai đoạn đầu của thời trung đại, người kỹ nữ được nhắc đến với tư cách là tên gọi của một hạng người trong xã hội. Đến khi xã hội suy tàn, người kỹ nữ tiêu biểu cho tiếng nói thống thiết của thân phận con người. Khi nghệ thuật hát ca trù ra đời, người kỹ nữ xuất hiện với tên gọi là cô đầu. Dù ở giai đoạn nào thì họ đều là những “thân sâu, cánh kiến”, bé nhỏ, tội nghiệp, đáng thương; nhưng trong họ ngời lên nét đẹp về ngoại hình và tâm hồn rất đáng ngợi ca, trân trọng. Sắc đẹp là điều đầu tiên khi nói về người kỹ nữ. Truyện Đào Nương trích trong Dư công tiệp ký của Vũ Phương Đề hình ảnh kỹ nữ đã được nói tới là Đào Nương. Nàng đã lập công giết giặc nhờ vào sắc đẹp và tài ca hát của mình. Chuyện nàng Túy Tiêu trích trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Nguyễn Dữ đã xây dựng hình ảnh Túy Tiêu với sắc đẹp dịu dàng, duyên dáng khiến Dư Nhuận Chi - chàng thư sinh nổi tiếng hay thơ nhất kinh thành phải đắm say, mê mệt. Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị trích trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ cũng là một giai nhân tuyệt sắc. Nguyễn Du sẽ cho ta thấy rõ hơn về điều này. Ông miêu tả Thúy Kiều trong Truyện Kiều, cô Cầm trong Long Thành cầm giả ca, người hầu cũ của em trong Ngộ gia đệ cựu ca cơ... đều là những bậc “tuyệt sắc giai nhân”. Chẳng hạn, khi miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du viết: “Làn thu thủy, nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh/ Một hai nghiêng nước nghiêng thành”. Như vậy, vẻ đẹp mỗi người một vẻ. Người thì duyên dáng, dịu dàng, người thì tuyệt sắc giai nhân, có người sắc sảo, mặn mà đến cả thiên nhiên cũng phải ghen hờn. Nhan sắc chính là công cụ kiếm tiền, là vũ khí mê hoặc khách làng chơi. Bên cạnh sắc đẹp là tài hoa. Tài hoa của kỹ nữ ở đây là tài cầm, kì, thi, họa, ca, múa, hát. Chuyện nàng Túy Tiêu trích từ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Túy Tiêu được miêu tả “vốn có khiếu thông tuệ”, mỗi khi Sinh đọc sách, nàng cũng học thầm mà rồi thuộc được. Sinh dạy nàng thơ từ, chưa đầy một năm, nàng đã làm được thơ từ ngang với Sinh. Đặc biệt là Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: “Thông 11 minh vốn sẵn tính trời/ Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm/ Cung thương làu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Hay Cô Cầm trong Long Thành cầm giả ca có tài năng đặc biệt với ngón đàn cầm. Tiếng đàn của nàng thật tuyệt vời trong chốn nhân gian: “Khoan như gió nhẹ lướt qua rừng thông/ Trong như tiếng hạc kêu nơi xa xăm/ Mạnh như tiếng sét đánh vào bia Tiến Phúc vỡ tan/ Buồn như tiếng rên của Trang Tích, ốm nhưng giọng quê vẫn không quên”. Người hầu cũ của em trong Ngộ gia đệ cựu ca cơ lưu lại trong trí nhớ của Nguyễn Du một ấn tượng về sự trẻ trung, duyên dáng cùng giọng ca lôi cuốn, chinh phục hết thảy người nghe: “Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển” (Từng nghe giọng ca uyển chuyển khi mặc áo hồng). Bên cạnh tài năng hơn người, người kỹ nữ cũng có những nét đẹp trong tâm hồn. Trước hết, đó là khát vọng về tình yêu và hạnh phúc. Mặc dù bị xã hội coi thường, xem là hạng đàn bà lẳng lơ, nhưng người kỹ nữ vẫn dám sống vì tình yêu và cháy hết mình vì tình yêu. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Kiều đến với Kim Trọng khi còn là một thiếu nữ ngây thơ, trong sáng: “Êm đềm trướng rủ màn che/ Tường đông ong bướm đi về mặc ai”. Bởi vậy, mối tình Kim - Kiều thật đẹp, thật thánh thiện. Và sau này, ta chứng kiến mối tình giữa Kiều và Thúc Sinh cũng thật lưu luyến, mặn nồng; mối tình giữa Kiều và Từ Hải không chỉ là tình yêu mà còn là ân tình, ân nghĩa. Rõ ràng, khát vọng về một tình yêu chân thành, khát vọng về một hạnh phúc đong đầy luôn luôn nồng nàn, rực cháy trong những người kỹ nữ. Người kỹ nữ đẹp là thế, tài năng hơn người là thế, nhưng “hồng nhan bạc mệnh”, “tài sắc tương đố”. Họ phải chịu số phận đau thương, bi đát. Trước hết, Thái Thuận đã diễn tả tâm trạng của người kỹ nữ khi xế chiều: “Hao mòn niên thiếu thủơ ăn chơi/ Trang điểm hồng nhan khó đẹp người/ Hoa rụng trước đình gương biếng ngắm/ Trăng soi hồ nhớ hái sen chơi/ Lầu son gái trẻ vui mà thẹn/ Gác tía thuyền quyên nhớ một thời/ Chiếc gối du tiên khơi trí tưởng/ Cùng ra ngủ giấc chia đôi. (Lão kỹ ngâm – Thái Thuận – Quách Tấn dịch). Bài thơ là nỗi đau nhói lòng của người ca kĩ khi đến tuổi xế chiều. Khi nhan sắc đã tàn phai theo tháng năm, khi không còn sự mê hoặc đối 12 với khách làng chơi, người kỹ nữ phải sống một cuộc đời cô đơn, buồn tủi. Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị là một trong những nhân vật có số phận bi kịch mà Nguyễn Dữ dày công xây dựng. Nàng đã phải trải qua bao kiếp nạn. Mỗi lần nỗi khát khao hạnh phúc trỗi dậy là mỗi lần nàng bị xã hội vùi dập, đọa đày không thương tiếc. Khi vua Dụ Tôn băng hà, nàng bị vất ra ngoài phố. Từ một người tài giỏi thơ văn, được vua sủng ái, nàng trở thành vật thừa thãi, bỏ đi, không giá trị. Trong Truyện Kiều của nguyễn Du, mặc dù Đạm Tiên chỉ là hồn ma thoáng qua nhưng ta cũng đủ cảm nhận số phận của những người kỹ nữ nói chung và Đạm Tiên nói riêng: “Sống làm vợ khắp người ta/ Hại thay thác xuống làm ma không chồng”. Khi còn sống nàng xinh đẹp là thế, tài năng là thế mà khi chết đi, nấm mồ của nàng chơ vơ, đơn côi, không hương khói giữa chốn người qua kẻ lại. Hay cũng trong Truyện Kiều, nàng Kiều từ một thiếu nữ “Êm đềm trướng rủ màn che” phải trở thành kỹ nữ. Nàng bị xã hội nam quyền vầy vò, mua đi bán lại, lưu lạc suốt mười lăm năm trời. Với một ngoại hình “Một hai nghiêng nước nghiêng thành”, với tài hoa hơn người cả cầm, kì, thi, họa, đáng ra nàng phải có được hạnh phúc, nhưng “hồng nhan bạc mệnh”. Cuộc đời Thúy Kiều là một chuỗi những đau đớn, tủi hờn: “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”. Đúng là: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Lời than của Kiều trước hết là lời than cho cuộc đời của Đạm Tiên, lời than cho số phận những người kỹ nữ trong đó có nàng, nhưng cũng là lời than chung cho “phận đàn bà”. Thực dân Pháp sau khi xâm lược được đất nước ta, với chiêu bài “bảo hộ” và “khai hóa”, chúng ra sức đầu độc nhân dân ta bằng thuốc phiện, rượu cồn và văn hóa đồi trụy. Bởi vậy, văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ. Ca trù trở nên suy bại. Người nghe toàn những kẻ mê sắc dục. Cô đầu trở thành kẻ buôn phấn bán hương, trở thành gái lầu xanh. Trần Tế Xương đã viết những vần thơ thật chua chát: “Cái thú cô đầu nghĩ cũng hay/ Cùng nhau dan díu mấy đêm ngày/ Năm canh to nhỏ tình dơi chuột/ Sáu khắc mơ màng chuyện nước mây (Thú cô đầu – Tú Xương). Nguyễn 13 Khuyến cũng với giọng châm biếm nhẹ nhàng nhưng lại sâu sắc và có phần đau đớn: “Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ/ Trời sinh ra cũng để mà chơi/ Dễ mấy khi làm đĩ một thời/ Chơi thủng trống, long dùi âu mới thích/ Đĩ bao tử càng chơi càng lịch/ Tha hồ cho khúc khích chị em cười/ Người ba đấng của ba loài/ Nếu những như ai thì đĩ mốc/ Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc/ Khá khen thay làm đĩ có tông!/ Khắp giang hồ chẳng chốn nào không/ Suốt Nam, Bắc, Tây, Đông đều biết tiếng/ Đĩ mười phương chơi cho đủ chín/ Còn một phương để nhịn lấy chồng/ Chém cha cái kiếp đào hồng/ Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số/ Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó/ Mai sau ngày giỗ có văn nôm/ Cha đời con đĩ cầu Nôm. (Đĩ cầu Nôm – Nguyễn Khuyến). Tuy giọng thơ của Tú Xương và Nguyễn Khuyến có vẻ châm biếm, đả kích, nhưng cái chính vẫn là tấm lòng nhà thơ trước cảnh “cũ mới tranh nhau, Á Âu xáo trộn” của đất nước. Đó là sự xót xa cho những số phận cô đầu lắm truân chuyên. 1.2. Nhân vật gái điếm trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thiết lập sự thống trị Việt Nam và thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ; đàn áp, khủng bố mọi sự chống đối với chính sách “chia để trị” - chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau. Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân dân ta mất nước trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vô cùng khổ cực với hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân, thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi. Kết quả là nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp với chính sách nô dịch văn hoá, xoá bỏ hệ thống giáo dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân, mở nhà tù, trại giam nhiều hơn trường học, khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâm, hạn chế xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc. Kết quả là hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thông tin tiến bộ từ bên ngoài. 14 Văn học là tấm gương phản ánh đời sống. Các nhà văn đã phô bày hiện thực xã hội Việt Nam thật phũ phàng, cay đắng. Phạm Duy Tốn đã viết truyện ngắn Sống chết mặc bay, chỉ vì ham mê cờ bạc mà quan phụ mẫu sẵn sàng bỏ mặc dân. Trước cơn vỡ đê vì nạn mưa lũ, quan phụ mẫu đã vô trách nhiệm tới táng tận lương tâm đối với tính mạng và tài sản của nhân dân. Hậu quả của điều đó là “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu”. Quan phụ mẫu không thiệt hại nhưng những người dân “chân lấm tay bùn”, “thấp cổ bé họng”, “thân sâu cánh kiến” lâm vào cảnh “màn trời chiếu đất”, dở sống dở chết. Thạch Lam trong truyện Nhà mẹ Lê thể hiện nỗi xót xa của ông về hình ảnh một bà mẹ nông dân nghèo phải vật lộn với “miếng cơm manh áo” từng ngày, từng giờ để nuôi đàn con hơn chục đứa. Những đêm đông trời lạnh như cắt da cắt thịt, mẹ Lê cùng các con “rải ổ rơm đầy nhà” để ngủ. Số phận của con người không khác gì con vật. Nhà văn Thạch Lam nức nở, thốt lên trong trang truyện: “mẹ con cùng ngủ trên đó trông như một cái ổ chó, chó mẹ, chó con lúc nhúc”. Khi mẹ Lê phải đi vay gạo thì ông Bá - một người giàu có nhất trong làng - không những không cho vay mà còn thả chó cắn. Người mẹ tội nghiệp, khốn khổ ấy buồn bã bước về nhà với nhiều vết thương đẫm máu. Mẹ Lê sốt cao rồi chết một cách tức tưởi. Lũ con sẽ ra sao khi người mẹ qua đời? Câu chuyện khiến người đọc không khỏi xót xa, day dứt. Ngô Tất Tố với tác phẩm Tắt đèn đã phản ánh được nỗi thống khổ của người dân trong nạn sưu cao thuế nặng. Chỉ vì sưu thuế mà cả gia đình chị Dậu phải tan nát, chia lìa. Chị Dậu đau như đứt từng khúc ruột, đành phải đem con đi bán cho nhà Nghị Quế. Ta xúc động, nghẹn ngào bao nhiêu thì cảm thấy bất bình, phẫn nộ bấy nhiêu khi chứng kiến cảnh cái Tí ngoan hiền, hiểu chuyện, bị gia đình Nghị Quế đối xử không bằng con vật. Đó là cảnh gia đình Nghị Quế bắt em phải ăn cơm thừa của chó. Nguyễn Công Hoan với Bước đường cùng đã vẽ lên bức tranh thối nát của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đó là bè lũ quan lại thật tham lam, độc ác. Nghị Lại đã bày đủ trăm mưu ngàn kế để cướp ruộng đất của nông dân. Anh Pha là một trong số những nạn nhân của xã hội. Khi anh đứng lên chống Nghị Lại thì bị bọn chúng bắt trói khiêng đi như con vật trong đau đớn, căm 15 thù. Nam Cao trong Lão Hạc đã miêu tả cuộc sống nghèo nàn, khốn khổ, thương tâm của Lão Hạc. Lão Hạc chọn cái chết thê lương để giữ mảnh vườn nhỏ cho đứa con trai cũng như bảo toàn nhân phẩm và danh dự cho mình mãi mãi là hình ảnh ám ảnh trong tâm trí mọi người. “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”, các phong trào yêu nước diễn ra theo khuynh hướng phong kiến và tư sản. Các cuộc khởi nghĩa đó khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất chống xâm lược của dân tộc ta và làm cho thực dân Pháp tổn thất nặng nề. Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX là lịch sử của các phong trào yêu nước và lịch sử chuyển dịch cơ cấu xã hội theo hướng hiện đại hóa. Văn học cũng được hiện đại hóa. Bối cảnh ấy đã mở ra hai khả năng lựa chọn cơ bản cho hoạt động tiếp thu các tư tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam. Đó là tiếp thu tư tưởng văn nghệ hiện đại Tây Âu, chủ yếu từ Pháp và tiếp thu tư tưởng mĩ học Mác – Lênin từ Liên Xô và Trung Quốc. Ở nửa đầu thế kỉ XX, các tư tưởng văn nghệ Tây Âu được tiếp thu vào Việt Nam như quan niệm về đặc trưng của nghệ thuật, đặc trưng thể loại của tác phẩm, quan niệm về nghiên cứu, phê bình văn nghệ... Như đã nói ở trên, thực dân Pháp đầu độc nhân dân ta bằng con đường ma túy, cờ bạc, rượu chè, mại dâm để ru ngủ đồng bào, để làm mất tinh thần dân tộc. Xã hội Việt Nam lúc đó thật nhầy nhụa, nhơ nhớp. Và một trong những vấn nạn nhơ nhớp đó là cảnh gái điếm. Hiện tượng gái điếm thủ phạm chính do thực dân Pháp gây nên. Theo Bách khoa toàn thư mở thì gái điếm hay còn gọi là gái mại dâm, gái đĩ... là những người phụ nữ phục vụ đàn ông thỏa mãn hành vi tình dục để được trả tiền hoặc được hưởng các lợi ích vật chất khác. Nhân vật gái điếm xuất hiện khá nhiều trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, đặc biệt là trong tiểu thuyết và phóng sự. Đời mưa gió của Khái Hưng và Nhất Linh bắt đầu từ câu chuyện của Chương một người đàn ông bị người yêu phản bội. Anh đã mang nặng một vết thương lòng và nỗi oán hận đến mức tận cùng. Anh không thể mở lòng với bất kỳ người đàn bà nào. Đối với Chương, phụ nữ tất thảy đều giả dối, lọc lừa. Thế nhưng, như một trò đùa quái 16 ác của cuộc sống, định mệnh đã sắp đặt cho một ông giáo đạo mạo với “bầu trời tư cách” gặp phải một cô gái giang hồ chai sạn, từng trải giữa sóng gió cuộc đời. Chương yêu Tuyết không phải là tình yêu sét đánh, không phải là tình yêu lóe lên rồi vụt tắt. Anh yêu Tuyết bằng cả trái tim, tâm hồn mình. Trong mắt anh, Tuyết “như một cô gái thượng lưu và tử tế”. Thế nhưng, người đàn bà mà Chương yêu tha thiết, yêu mãnh liệt, yêu đến dại khờ lại là một cô gái giang hồ chai sạn trước cuộc đời, trước tình người. Đời đã khiến cô có một phương châm sống thật ghê gớm: “Không tình, không cảm, chỉ coi lạc thú ở đời như một vị thuốc trường sinh”… Hoàn toàn vô cảm, luôn muốn “nổi loạn” để vượt thoát sự gò bó, khuôn phép, Tuyết đã hai lần phản bội lại Chương - một lần ra đi cùng người tình cũ và một lần dan díu, tằng tịu cùng Giang. Rồi một ngày Tuyết rời bỏ Chương và đi trong mưa phùn lặng lẽ. Tại sao Tuyết bỏ Chương? Có phải nàng là con đàn bà gian trá, phản trắc, đa dâm? Không! Đối với nàng, thà liều thân với một đời mưa gió, khổ sở, đê tiện, còn hơn là sống lừa dối mình, lừa dối người. Nàng luôn luôn ý thức được địa vị của nàng: một con đĩ. “Trời ơi, anh yêu được em ư? Anh chưa biết em là ai đấy, em chỉ là một đứa giả dối, man trá, em là một con đĩ khốn nạn, đê hèn. Em sẽ lừa dối người yêu, vì em đã trở thành một đứa vứt đi, tiêm nhiễm hết mọi thứ xấu xa của xã hội này”. Đó là những câu nói của một người tự ý thức về bản thân để từ đó mà bẽ bàng, chua xót. Tuyết đã chọn con đường đi riêng của nàng: lang thang, thất thểu, không nhà, không cửa, không tình thân. Nàng dấn thân vào cuộc đời ô trọc, nhục nhã, ê chề, cay đắng. Bỉ vỏ của Nguyên Hồng xoay quanh số phận nhân vật Tám Bính. Tám Bính là một cô gái nghèo xinh đẹp, khỏe mạnh làng Sòi. Vì nhẹ dạ cả tin, ngây thơ trong sáng, Bính đã yêu một gã Tham đạc điền và bị hắn bỏ rơi giữa lúc bụng mang dạ chửa. Cô bị chính cha mẹ đẻ hắt hủi, đay nghiến, chửi bới, nhiếc móc. Và đứa bé sinh ra phải đem bán đi vì sợ làng bắt vạ. Đau đớn, bần cùng không lối thoát, Bính trốn nhà đi Hải Phòng với một hy vọng mong tìm được người tình. Sau những ngày đêm lang thang đói khát, Bính gặp một gã công tử trẻ tuổi, nhà giàu nhưng đểu cáng. Gã lừa Bính vào 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan