Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Những tư tưởng cơ bản trong học thuyết kiêm át của mặc tử và ý nghĩa của chúng t...

Tài liệu Những tư tưởng cơ bản trong học thuyết kiêm át của mặc tử và ý nghĩa của chúng trong xây dựng đạo đức mới của người việt nam hiện nay

.PDF
89
463
115

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ PHẠM LAN ANH NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN TRONG HỌC THUYẾT “KIÊM ÁI” CỦA MẶC TỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA CHÚNG TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC MỚI CỦA NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2011 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 Chƣơng 1. MẶC TỬ VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT “KIÊM ÁI” ..... 7 1.1. Thân thế, sự nghiệp của Mặc Tử .................................................................... 7 1.1.1. Giải nghĩa chữ “Mặc” trong Triết học Trung Hoa cổ đại ................... 7 1.1.2. Thân thế sự nghiệp của Mặc Tử .......................................................... 8 1.2. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết “Kiêm ái” ................................................ 21 Chƣơng 2. NHỮNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN TRONG HỌC THUYẾT “KIÊM ÁI” - GIÁ TRỊ , HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA CỦA CHÚNG ................................ 31 2.1. Nội dung chủ yếu của học thuyết “kiêm ái” ................................................ 31 2.1.1. Kiêm ái là yêu thương tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp, sang hèn ........................................................................................ 31 2.1.2. Mối quan hệ giữa “kiêm” với “lợi” ................................................... 33 2.1.3. Sự thể hiện của “kiêm ái” trong đời sống chính trị và sinh hoạt thường ngày ......................................................................................... 37 2.2. Những mặt tích cực và hạn chế của học thuyết “kiêm ái” ........................... 54 2.2.1. Mặt tích cực ....................................................................................... 54 2.2.2. Mặt hạn chế ....................................................................................... 57 2.3. Ý nghĩa của học thuyết “kiêm ái” trong việc xây dựng đạo đức mới của con người Việt Nam hiện nay .............................................................. 61 2.3.1. Một vài nét về thực trạng đạo đức Việt Nam hiện nay ..................... 61 2.3.2. Ý nghĩa của “kiêm ái” trong việc xây dựng đạo đức mới của người Việt Nam hiện nay..................................................................... 70 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 84 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Loài người ngày càng nhận thức rõ sự phát triển của một đất nước không chỉ là phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ. Sự giàu có vật chất, phương tiện tiêu dùng, kỹ thuật chỉ mới là những điều kiện quan trọng, thực hiện lý tưởng sống cao đẹp nhất của con người là cuộc sống văn minh, hạnh phúc. Đáp ứng cuộc sống văn minh, hạnh phúc gồm nhiều yếu tố trong đó văn hóa đạo đức chiếm một vị trí quan trọng. Người ta cũng thấy được rằng, văn hóa không chỉ là yếu tố phát sinh, song song tồn tại với cuộc sống, mà nó nằm ngay trong cuộc sống, là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Lịch sử cho thấy, không một nền văn hóa nào phát triển được nếu nó đứng cô lập, tách rời với các nền văn hóa khác. Như chúng ta đã thấy vào thời cổ đại, nhiều tộc người da đỏ châu Mỹ và da đen Nam Phi đã đạt được trình độ phát triển cao nhưng do bị ngăn cách bởi các đại dương và sa mạc cho nên các nền văn minh ấy bị suy thoái dần dần. Trong thời cận đại thì Trung Hoa thi hành “chính sách bế quan tỏa cảng” tự ru ngủ mình bằng hào quang của quá khứ và đã dẫn đến tình trạng trì trệ. Còn Nhật Bản thì chủ trương mở của, tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến của phương Tây với nền tảng văn hóa, đạo lý truyền thống dân tộc, nên đã phát triển nhanh. Việt Nam là một trong những quốc gia trên thế giới, vì vậy chúng ta đã nhận thức ra được việc phát triển kinh tế như thế nào cho phù hợp với xu hướng của thế giới trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời đánh giá về kết quả thu được cho nền văn hóa nước nhà, nhất là về văn hóa đạo đức khi gia nhập vào nền kinh tế thị trường toàn cầu. Thêm vào đó, thấy được sự giao lưu, hòa trộn giữa các nền văn hóa khác nhau của nhân loại. Hiện nay, khi mà đất nước chúng ta đang tiến hành mở cửa hội nhập với các quốc gia trên thế giới, ngoài việc tiếp thu được các thành tựu khoa học 1 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi tiên tiến cùng với những trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, thì chúng ta còn chịu ảnh hưởng lớn về mặt đời sống xã hội, mà cụ thể là mặt đạo đức. Nền đạo đức Việt Nam chịu sự tác động của kinh tế thị trường có nhiều điểm tích cực nhưng đồng thời nó cũng làm nảy sinh một số hiện tượng tiêu cực, gây mất ổn định trong đời sống đạo đức của người dân trong các tỉnh thành khắp cả nước. Nền kinh tế mở mang tới cho con người cách sống năng động, linh hoạt trong việc xử lý mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng đồng thời nó đã làm cho con người sống thực dụng hơn, mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa người với người giờ đây bị chi phối bởi tiền bạc, địa vị, lợi ích cá nhân, những giá trị truyền thống của cha ông giờ đây đã bị phai nhạt đi trong lối sống của tầng lớp trẻ. Những biểu hiện này chính là mầm mống cho một quan niệm sống thực dụng nếu chúng ta không có biện pháp kịp thời ngăn chặn thì có thể dẫn tới việc mất cân bằng xã hội, mất đi niềm tin của giới trẻ vào xã hội tương lai, làm cho họ không có được nền tảng vững chắc để chuẩn bị cho công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Chính vì thế, trong khi Việt Nam đang nổ lực hết mình để vươn lên sánh vai cùng bạn bè năm châu về mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa, thì vấn đề đạo đức mới được rất nhiều người quan tâm. Đảng và nhà nước ta trong các chính sách của mình cũng thể hiện sự quan tâm sâu sắc tới vấn đề này. Việc xây dựng đời sống đạo đức mới cho người dân phải lấy những tư tưởng truyền thống làm nền tảng như tư tưởng Nho gia, Mặc gia, đạo Phật, đạo Thiên Chúa v.v… Ở mỗi học thuyết, tôn giáo chúng ta đều chọn lọc lấy những giá trị đạo đức tốt đẹp, phù hợp với cuộc sống của con người trong giai đoạn hiện nay, sau khi đã gạt bỏ đi tính chất duy tâm thần bí của những tư tưởng ấy và có sự cải biến phù hợp. Nghiên cứu tư tưởng của Mặc Tử ở nhiều khía cạnh khác nhau như “Phi công”, “Thượng đồng”, “Thượng hiền”, “Tiết dụng”, “Phi nhạc”, “Tiết 2 táng” với những nội dung có thể vận dụng vào việc xây dựng đời sống đạo đức mới của người Việt Nam hiện nay, đặc biệt là học thuyết “kiêm ái”. Đây là một tư tưởng về việc xây dựng khối đại đoàn kết nhằm đưa xã hội đi lên xuất phát từ tình yêu thương giữa con người với con người, không phân biệt sang hèn. “kiêm ái là yêu thương con người”, là sự gắn bó lợi ích giữa con người với nhau trong xã hội. Để đi tới xây dựng một xã hội đại đồng, con người sống với nhau chan hòa, tình cảm. Hiện nay, chúng ta đang phải chứng kiến sự suy đồi về đạo đức của một bộ phận người trong xã hội, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. Đạo đức suy thoái làm cho mối quan hệ giữa người với người bị cách biệt, sự thương cảm giữa những con người với nhau bị phai nhạt đi ngay cả trong gia đình nơi mà tình cảm con người gắn bó nhất. Thế nên cần phải có biện pháp tích cực để khắc phục những hạn chế, tiêu cực trên. Với lý do này tôi đi đến việc lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Những tư tưởng cơ bản trong học thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử và ý nghĩa của chúng trong xây dựng đạo đức của người Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Tư tưởng của Mặc Tử đã được nhiều nhà khoa học quan tâm và đi sâu vào nghiên cứu với nhiều công trình và khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể nêu lên một số công trình tiêu biểu như: PGS. TS. Đoàn Đức Hiếu, "Lịch sử triết học phương Đông" (Huế, 2002); Phùng Hữu Lan, "Đại cương triết học sử Trung Quốc" (Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1968, Bản dịch của Nguyễn Văn Dương); Hồ Thích, "Trung Quốc triết học sử" (Khai Trí, Sài Gòn, 1969, Bản dịch của Huỳnh Minh Đức). Các tác phẩm này, nêu lên một cách tóm tắt thân thế sự nghiệp và những nội dung cơ bản nhất trong tư tưởng triết học của Mặc Tử. PTS. Vũ Tình, "Đạo đức học phương Đông cổ đại" (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998). Tác phẩm này tác giả đã trình bày đạo đức 3 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi của xã hội và đạo đức trong sinh hoạt đời thường xuất phát từ luận điểm “kiêm ái” của Mặc Tử. Cao Xuân Huy, "Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu" (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1995). Thảo đường cư sĩ Trần Văn Hải Minh, "Bách gia chư tử" (Hội Nghiên cứu và Giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh, 1991). Trần Đình Hượu, "Các bài giảng về tư tưởng phương Đông" (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). GS. La Quốc Việt, "Tu dưỡng đạo đức tư tưởng" (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003). Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý, "Lịch sử Trung Quốc" (Nhà xuất bản Giáo dục, 2001). PGS. TS. Doãn Chính (chủ biên), "Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc" (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002). GS. TS Nguyễn Hữu Vui (chủ biên), "Lịch sử triết học" (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002). Các tác giả trên trình bày khái quát các phạm trù trong tư tưởng triết học của Mặc Tử một cách sơ lược. Vũ Văn Gầu, "Kiêm ái nhân sinh - triết lý độc đáo của Mặc Tử" (Tạp chí Triết học, số 5, tháng 5 - 2003, tr.36-41). Trong bài báo này tác giả nghiên cứu rút ra cái hay trong tư tưởng của Mặc Tử ở học thuyết “kiêm ái”, cụ thể ở đây là tình yêu thương giữa những con người trong xã hội với nhau. Tác giả còn chỉ ra hoàn cảnh ra đời của học thuyết. Các công trình nghiên cứu trên đi sâu vào tìm hiểu tư tưởng của Mặc Tử ở một số phương diện như các phạm trù cơ bản: “phi công”, “thượng đồng”, “thượng hiền”... Tuy nhiên các tác giả trên chưa đi vào nghiên cứu phạm trù "kiêm ái" với tư cách là một học thuyết quan trọng về đạo đức trong xã hội. Tác giả luận văn kế thừa các công trình nghiên cứu trước, đồng thời vận dụng những giá trị tích cực của học thuyết "kiêm ái" vào thực tiễn xây dựng đạo đức mới của người Việt Nam hiện nay. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích của đề tài: Phân tích những tư tưởng cơ bản trong học thuyết “kiêm ái” của Mặc Tử. Từ đó nêu lên được những nội dung cơ bản của học thuyết ý nghĩa của chúng đối với việc xây dựng đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay. * Nhiệm vụ của đề tài: + Phân tích thân thế và sự nghiệp của Mặc Tử, cũng như hoàn cảnh ra đời của học thuyết “kiêm ái”. + Phân tích những tư tưởng cơ bản trong học thuyết “kiêm ái” của Mặc Tử cùng với sự đóng góp và hạn chế của nó. + Ý nghĩa của tư tưởng “kiêm ái” đối với việc xây dựng đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Học thuyết “kiêm ái” và sự thể hiện của nó qua các phạm trù khác nhau trong tư tưởng của Mặc Tử. * Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các tài liệu bàn về Mặc Tử và học thuyết “kiêm ái”. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là phương pháp biện chứng duy vật, với tính cách là phương pháp luận chung nhất. Trên cơ sở đó tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp thống nhất giữa lịch sử và lôgic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu để thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ của luận văn. 6. Dự kiến đóng góp của đề tài - Nêu lên những giá trị và hạn chế của Mặc Tử, nhất là học thuyết “kiêm ái”. 5 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi - Chỉ ra ý nghĩa của học thuyết “kiêm ái” đối với việc xây dựng lối sống đạo đức của người Việt Nam hiện nay. - Làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tới vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết: Chƣơng 1: Mặc Tử và hoàn cảnh ra đời của học thuyết “kiêm ái”. Chƣơng 2: Những tư tưởng cơ bản trong học thuyết “kiêm ái” - giá trị, hạn chế và ý nghĩa của chúng. 6 Chƣơng 1 MẶC TỬ VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT “KIÊM ÁI” 1.1. Thân thế, sự nghiệp của Mặc Tử 1.1.1. Giải nghĩa chữ “Mặc” trong Triết học Trung Hoa cổ đại Trong lịch sử tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại vào cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã xuất hiện một trường phái triết học lớn, cùng với Nho gia, Đạo gia chia nhau thống trị đời sống tinh thần ở Trung Hoa thời kỳ này, đó là trường phái triết học Mặc gia. Sự ảnh hưởng to lớn của triết học Mặc gia đã khiến Mạnh Tử phải lo lắng thốt lên rằng: “Lời của Dương Chu, Mặc Địch tràn lan thiên hạ... Những kẻ nói đạo trong thiên hạ thời nay không theo họ Dương thì theo họ Mặc” [4, tr.262]. Người sáng lập ra trường phái triết học Mặc gia với học thuyết “Kiêm ái” nổi tiếng là kẻ thù của Khổng giáo, đó là Mặc Địch. Sau khi Mặc Tử mất học thuyết này được bảo vệ và phát triển bởi các triết gia hậu Mặc vào thế kỷ thứ IV - III trước công nguyên, với tư tưởng nổi bật nhất về lôgic và nhận thức luận trên cơ sở duy vật của họ. Khi nghiên cứu về Mặc Tử chúng ta phải hiểu được nghĩa của từ “Mặc” trong triết học Trung Hoa cổ đại là gì? Hiểu được nó, sẽ giúp chúng ta có được một cách nhìn toàn diện hơn về trường phái Mặc gia. Theo rất nhiều sách viết về trường phái này thì họ nhìn chung đều cho rằng Mặc Tử họ Mặc, tên là Địch. Đến cuối đời nhà Thanh, Giang Tuyền có giải thích đại khái như sau: “đời xưa các học phái của Chu Tử gồm có chín dòng ai truyền lại học thống của mình thì đều xưng là nhà, là gia. Vậy chữ gia là trỏ vào học phái, chứ không phải trỏ vào dòng họ. Cho nên về thời trước nhà Tần, chữ Mặc gia là trỏ vào học phái, không phải trỏ vào dòng họ của tác giả. Đây là lệ chung của chín nhà, theo Hán Chí có nói rõ, như Nho gia, Đạo gia, Danh gia, Âm dương gia, Tung Hoành gia, Nông gia, Tạp gia” [38, tr.305]. Bởi vậy Giang Tuyền đi đến kết luận: “Cổ chi sở vị Mặc gia, phi tính 7 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi thị chi xưng, nãi học thuật chi xưng giả” [38, tr.305], có nghĩa là xưa kia người ta gọi “Mặc”, không phải gọi họ tên người, mà là nói về mặt học thuật của trường phái đó mà thôi. “Mặc” còn có nghĩa là đen, như Mạnh Tử nói “diện thâm mặc”, tức là mặt đen xì. Vậy “Mặc” có nghĩa là mặc đồ đen. Mặc Tử lấy sự cực khổ làm đức hạnh, cho nên mệnh danh học thuật của mình là Mặc. Hơn nữa, chữ Mặc còn là để gọi một tội hình khắc vào mặt và thoa mực đen đi. Và theo Chu Lễ thì kẻ phạm tội khinh hình thường bị sa vào hạng nô lệ làm công việc khổ nhục. Như vậy, mới biết được rằng “Mặc” là hình đồ biến thành, là nô dịch. Mặc gia sinh hoạt kham khổ, lấy sự khổ hạnh để thi hành điều nhân nghĩa, xác lập đạo đức cho bản thân, từ đó đề ra đạo đức cho xã hội. Để chứng minh cho quan điểm của mình Giang Tuyền có đưa ra rất nhiều bằng chứng rãi rác ở các sách của chư tử. Như trong sách Mặc Tử thiên Bị Thê: “Cầm Hoạt Ly sự Mặc Tử tam niên, thủ thúc biền đê, diện mục lê hoắc, dịch thân cấp sử, bất cảm vấn dục” [38, tr.306], có nghĩa là Cầm Hoạt Ly hầu Mặc Tử trong suốt ba năm chân tay bị chai rộp, mặt mũi đen sì, nhìn người ngợm khổ sở và không hề nghĩ tới những thèm muốn của mình. Như vậy, theo Giang Tuyền, chữ “Mặc” không phải là tên là dòng họ mà nó là tên gọi một học thuật. Qua thuật ngữ này chúng ta thấy được phần nào cái tinh thần của Mặc học, đó là thứ tinh thần đại diện cho nguyện vọng của tầng lớp nhân dân cần lao bị nô dịch chống lại chủ trương phục hưng chế độ phong kiến, bênh vực quyền lợi quý tộc đề đòi về xã hội nguyên thủy sơ khai với mọi thứ đều là của công, mọi người phải làm lụng, ai làm nhiều ăn nhiều, ai làm ít ăn ít của thời vua Vũ nhà Hạ. 1.1.2. Thân thế sự nghiệp của Mặc Tử Mặc Tử là người sáng lập ra Mặc gia và ông đã được một học giả nhận xét “là một nhân vật kỳ dị nhất của Trung Hoa, kỳ dị từ tên gọi đến tư tưởng 8 và đời sống, kỳ dị đến nỗi gần đây người Trung Hoa ngờ rằng ông có dòng máu Ấn Độ hoặc Ả Rập chứ không thể là con cháu của Phục Hy và Thần Nông được” [21, tr.7]. Lời nhận xét này dựa trên cơ sở nghiên cứu về Mặc Tử, nghiên cứu này cho thấy họ Mặc là một họ cực kỳ hiếm hoi ở Trung Quốc và đồng thời tư tưởng mà Mặc gia đề xuất rất mới lạ, khác biệt rất nhiều so với các luồng tư tưởng đang tồn tại trong xã hội thời bấy giờ. Về cuộc đời và sự nghiệp của Mặc Tử người ta có nhiều cách lý giải khác nhau. Một số học giả căn cứ vào “Hán Thư”, “Nghệ Văn Chí” của Ban Cố (32 - 95) cho rằng, Mặc Tử là người nước Tống, ở miền Đông, tỉnh Hà Nam và miền Tây tỉnh Sơn Đông bây giờ. Một số khác như Tôn Di Nhượng (Đời Thanh) và Hồ Thích lại cho rằng ông là người nước Lỗ, cùng quê với Khổng Tử, quan điểm này dựa vào Hoài Nam Tử trong sách “Hoài Nam yếu lược”. Lại có người cho rằng Mặc Tử là người nước Sở. Để trả lời xem luận điểm nào là phù hợp thì trong sách “Mặc Tử”, chương “Công - Thâu” có chép: “thầy Mặc Tử ra về, qua nước Tống”; chương “Quý - Nghĩa” có chép: “thầy Mặc Tử đi phương Nam, chơi ở nước Sở”. Sách “Lã Thị Xuân Thu”, chương “Ái Loại” có chép: “Công Thâu Ban muốn đánh nước Tống cho nước Sở, Mặc Tử biết chuyện đó, từ nước Lỗ ra đi”. Gần đây viện hàn lâm khoa học Trung Quốc đã xác định có thể nói Mặc Tử là người nước Lỗ. Về vấn đề niên đại của Mặc Tử cũng là một vấn đề tốn khá nhiều giấy mực của các nhà nghiên cứu mà đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Theo Hồ Thích: Mặc Tử “sinh vào khoảng giữa những năm 20 và 30 đời Chu Kính Vương (Tức là từ năm 500 đến năm 490 trước công nguyên), chết vào khoảng giữa những năm nguyên niên và năm thứ 10 đời Chu Uy - Liệt Vương (Tức là những năm 425 đến năm 416 trước công nguyên). Mặc Tử ra đời vào khi Khổng Tử 50, 60 tuổi” [35, tr.167]. Theo công trình khảo cứu của Lương Hán Siêu thì: “Mặc sinh vào khoảng những năm 468 đến 459 trước công nguyên. Đại thể vào khoảng hơn 9 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi 10 năm sau khi Khổng Tử chết ( Khổng Tử chết năm 479 trước công nguyên). Mặc Tử chết vào khoảng đời Chu An Vương (Tức là vào khoảng những năm 390 đến 382 trước công nguyên) tức độ hơn 10 năm trước ngày sinh của Mạnh Tử (Mạnh Tử sinh năm 372 trước công nguyên). Tiền Mục lại cho rằng, Mặc Tử sinh năm 479 trước công nguyên, chậm lắm cũng không ngoài 10 năm; chết năm 394, chậm lắm cũng không ngoài 10 năm. Trương Quý Đồng lại cho rằng, Mặc Tử sinh năm 480 và chết năm 400 trước công nguyên. Mỗi luận thuyết trên đây cũng có những dẫn chứng riêng để chứng minh tính đúng đắn của mình. Nhưng ở các luận thuyết ấy đều có một điểm chung đó là cùng cho rằng Mặc Tử sinh vào khoảng giữa thời Khổng Tử và Mạnh Tử, nói một cách khác tức là vào khoảng giữa thời Xuân Thu - Chiến Quốc giao nhau. Điều đó có căn cứ để biết được năm sinh, năm mất của Mặc Tử. Về tính giai cấp của Mặc Tử, thì trong các sách cổ chép rất ít về lúc sinh thời của ông, cho nên cũng có phần không tìm ra được rõ ràng. Tư Mã Thiên cho rằng Mặc Tử làm đại phu nước Tống, Lương Khải Siêu lại cho rằng: “xem trong sách gốc, thì không có vết tích gì là Mặc Tử đã làm quan nước Tống”. Thuyết này có thể đúng. Sách “Trang Tử”, chương “Thiên hạ” cho rằng “Mặc Tử lấy việc giữ thân khổ hạnh là điều quan trọng nhất”. Chuyện Mặc Tử không hề làm quan có lẽ đúng sự thật. Chính Mặc Tử cũng thường nói: “không thi hành được đạo thì không hưởng lộc nhà vua; không nghe thấy điều nghĩa thì không ở với triều đình nhà vua”. Khác với Trang Tử, Mặc Tử không chủ trương tuyệt đối không tham gia chính trị, mà lấy việc có thể hay không thể thực hành tư tưởng của mình làm điều kiện có hay không tham gia chính trị. Tinh thần này của Mặc Tử khác rất nhiều so với giai cấp thống trị đương thời. Chính “việc sang chơi nước Sở”, “đi sứ sang nước Vệ”, “đi cứu nước Tống” là quá trình Mặc Tử tiến hành thực thi các chủ thuyết của mình. Tư tưởng của ông khác hẳn với với tư tưởng của tầng lớp lãnh chúa 10 phong kiến và bọn địa chủ mới lên và dường như một phần nào đó nó phản ánh tình hình tư tưởng và yêu cầu của nông dân thời đó. Tuy nhiên có một điều chúng ta phải hiểu rõ đó là Mặc Tử có thể không phải xuất thân từ tầng lớp nông dân. Mặc dù, thời kỳ này đã có những nông dân tự cày lấy ruộng của mình, họ cũng đã có cơ hội để học hành, nhưng chưa lấy việc học hành coi như là một việc làm thường xuyên. Theo sách “Hoài Nam Tử yếu lược” chép thì: “Hồi nhỏ Mặc Tử có học lấy nghiệp của nhà Nho, chịu nhận học thuật của Khổng Tử, nhưng lại cho rằng cái lễ của đạo Nho quá phiền nhiễu mà không vui lòng, việc tống táng phiền phức quá chỉ tốn của và làm nghèo dân, việc tang phục lâu quá chỉ kéo dài sự đau buồn của người sống và có hại cho công việc”. Sách “Hoài Nam Tử yếu lược” tuy có thể là do người đời Tây Hán làm ra, những lời trong ấy cũng không thể hoàn toàn căn cứ được. Nhưng chúng ta đọc sách Mặc Tử thì lại thấy rõ ràng là Mặc Tử có một công trình học tập và tu dưỡng rất sâu rộng và có một lập luận rất chặt chẽ. Điều đó, tuy không thể tách rời đời sống thực tế mà có được, nhưng cũng không thể không đưa vào một công phu tu dưỡng lý luận. Theo Lã Trấn Vũ việc xuất thân của Mặc Tử có thể dính líu với gia thế của tầng lớp địa chủ mới đã bị sa sút hoặc gia thế của một nhà đời trước là nông dân tự do đã chuyển thành một nhà sản xuất nhỏ độc lập, nhất là thuyết sau có vẻ đúng hơn cho nên trong hệ thống tư tưởng của Mặc Tử có phản ánh đôi chút ý thức tư tưởng của bọn địa chủ mới. Hồi đó bọn địa chủ mới mà bị sa sút thì rất có thể bị giáng xuống hàng nông dân. Học thuyết của Mặc Tử có thể phản ánh một số những yêu cầu của nông dân có lẽ cũng vì thế. Mặc Tử rất giỏi biện luận, “tài biện luận này là một trong những nguyên nhân làm cho học trò của ông rất đông. Tuy họ thuộc hạ tầng xã hội nhưng họ có tổ chức rất chặt chẽ” [19, tr.446]. Mặc Tử đã đào tạo được một đội ngũ học trò có đức hạnh và lòng quả cảm cao độ. Sách “Hoài Nam Tử” chép rằng: “Mặc Tử có một trăm tám mươi người phục dịch, đều có thể khiến 11 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi nhảy vào lửa, đạp chân lên lưỡi dao, chết mà không quay gót”. Chính từ tư tưởng và hành động nghĩa hiệp cao cả của Mặc Tử, nên người công kích Mặc gia nhiều nhất như Mạnh Tử cũng phải thốt lên rằng: “họ Mặc kiêm ái đến mòn trán lỏng gót, cái gì lợi cho thiên hạ thì làm” [5, tr.86]. Trong cuộc đời của mình Mặc Tử đã dắt học trò của mình bôn ba nhiều nước. Ông đã từng ở Tống, Vệ, Sở, Tề và cũng đã tiếp kiến với vua các nước này. Ông cũng đã đề cử rất nhiều học trò ra làm quan để cùng ông thực thi học thuyết của mình mà một trong những nội dung của nó là chống chiến tranh xâm lược. Điều này làm cho cuộc đời của Mặc Tử là cuộc đời của con người lo việc cho thiên hạ. Hễ nghe nói một nước nào chuẩn bị tấn công nước khác thì dù xa xôi tới đâu ông cũng gấp rút đi tới khuyên ngăn. Có lần ông đã đi suốt mười ngày đêm không nghỉ để từ Lỗ tới Sở khi biết tin Sở chuẩn bị đánh Tống; đi đến nỗi quần rách, giày lòi cả chân ra ngoài mà vẫn cố đi cho kịp. Tương truyền rằng Công Thâu Ban chế giúp nước Sở một cái thang máy để đánh thành đã xong định đem đi đánh nước Tống. Trước mặt vua Tống, Mặc Tử cùng Công Thâu Ban biểu diễn khí giới công thủ của đôi bên. Mặc Tử cởi thắt lưng đánh thành, lấy đũa nhỏ làm khí giới. Công Thâu Ban chín lần đặt máy phá thành, Mặc Tử chín lần đều cự được. Máy phá thành Công Thấu Ban đã dùng hết, sức giữ thành của Mặc Tử còn thừa. Công Thâu Ban bèn nói: “Ta biết cách đánh ngươi. Ta không nói”. Mặc Tử cũng nói: “Ta biết cách ngươi đánh làm sao. Ta không nói”. Vua Sở nghe xong câu nói này, hiểu hết ý nghĩa của nó bèn từ bỏ ý định đánh Tống. Sau đó, Công Thâu Ban cũng bị tài trí của Mặc Tử thuyết phục mà thốt lên rằng: “Khi tôi chưa được tiếp ông, tôi muốn chiếm nước Tống. Sau khi gặp ông thì dù có người mang nước Tống đến tặng tôi mà có ẩn một chút gì bất nghĩa tôi cũng không thèm” [5, tr.85]. Mặc Tử cũng đáp lại: “Nói như thế, dường như là tôi đã mang cả nước Tống mà tặng cho ông rồi vậy. Nếu như ông cố gắng thi hành điều nghĩa, tôi sẽ mang cả thiên hạ mà tặng cho ông nữa kia” [5, tr.85]. Đây là một câu chuyện hay về việc hòa giải 12 giữa hai nước trong thế giới hiện tại. Ngày nay, nếu có chiến tranh thì trước tiên hai nước đem vũ khí ra đối chọi với nhau, bên nào có thực lực hơn sẽ được phân định rõ ràng không cần sự đổ máu. Với lòng bác ái vị tha, Mặc Tử đã bôn ba giữa các nước, khẩn thiết kêu gọi “kiêm ái phi công”. Nhưng vì chủ trương “kiêm ái phi công” của ông nghịch lại với chính sách “Binh nông” (nuôi quân ở dân) của vua chúa các nước đương thời, cho nên đã gặp nhiều trở ngại, khó thực hiện được. Chẳng hạn khi Mặc Tử sang nước Sở, dâng tác phẩm của mình cho Sở Huệ Vương. Vua Sở tuy khen sách viết rất hay, nhưng chẳng thực hành theo lời khuyên của Mặc Tử mà chỉ ngỏ ý “vinh dưỡng hiền nhân” (trọng đãi kẻ hiền sĩ). Thấy vậy, Mặc Tử liền tạ từ rằng: “Địch văn hiền nhân tiến, đạo bất hành, bất thụ kỳ thưởng; nghĩa bất thính, bất xử kỳ triều, khất kim thư vị dụng, thỉnh toại hành dĩ” (nghĩa là: Địch này nghe nói, khi hiền sĩ đã đem lời tiến dâng mà đạo chẳng hành, thì nào dám nhận phần thưởng; khi nghĩa chẳng được nghe theo, thì không thể cộng sự tại triều đình, mãi đến nay, sách của tôi chưa được áp dụng, thì xin lui thôi). Khổng Tử cùng Mạnh Tử, trước sau đều có dẫn nhóm học trò đi chu du liệt quốc, nghiễm nhiên thành một tập đoàn sĩ nhân, dựa vào lớp người quyền thế trên thượng tầng xã hội, để hoạt động chính trị, không làm cũng có ăn. Trái lại, Mặc Tử cùng môn đệ nhà Mặc, vẫn sống tự túc với nghề lao động thợ thuyền, bằng tinh thần khắc khổ, trong khi phải đi tuyên truyền, vận động thuyết “kiêm ái phi công”. Cho nên Mặc Tử rất ác cảm với hàng Nho sĩ. Có lần Mặc Tử đến nước Vệ, mục kích người Vệ sống theo lối xa sỉ, rất cảm khái mà nói với quan Đại phu nước Vệ rằng: “Vệ là một nước nhỏ, lại nằm giữa hai nước lớn Tề và Tấn, chẳng khác nào nhà nghèo sống trong xóm nhà giàu, rồi học theo thói xa hoa, ngoài khả năng của mình, thì tránh sao cho khỏi sẽ mất nước sớm”. 13 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Biết rằng vua quan các nước đều vì quyền lợi riêng tư, chẳng ai chịu thi hành chính sách “phi công” của mình nên Mặc Tử và những tín đồ theo Mặc học, tự tổ chức lấy đoàn thể xã hội để tuyên truyền giáo lý của mình. Những lời khuyên ngăn và truyền giáo của Mặc Tử có khi được chấp nhận nhưng nhiều khi bị người đời bỏ ngoài tai, nhưng chưa bao giờ Mặc Tử tỏ ý chán nản hay nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, mà ông bôn ba thực hiện ý tưởng của mình cho đến khi chết. Thật khó có thể tưởng tượng nỗi thời đại đó lại có một người chịu khổ như thế vì thiên hạ. Ngay cả người Trung Quốc cũng phải kêu lên rằng: “Thử hỏi trong lịch sử Trung Hoa còn có người thứ hai nào ma đỉnh phỏng chủng lợi thiên hạ vi chi như Mặc Tử nữa hay không?” [35, tr.306]. Bàn tới Mặc Tử và các học trò của ông, chúng ta nhận thấy rằng họ khác với những người du hiệp trong xã hội thời ấy (Du hiệp: là những chuyên gia về việc binh nhưng bị mất địa vị chức tước để phân tán trong dân gian và mưu sinh bằng cách giúp việc cho những ai có điều kiện dùng đến họ). Ở hai điểm sau: trước hết, nếu các du hiệp thường đều sẵn sàng nhận bất kỳ cuộc chiến đấu nào, miễn là họ được trả công, họ được các vua chư hầu trọng dụng, thì trái lại, Mặc Tử và các môn nhân đều triệt để chống lại các cuộc chiến tranh xâm lăng và do đó họ chỉ chịu đánh nhau trong trường hợp phòng vệ chính đáng. Điều thứ hai là, nếu bọn du hiệp thường chỉ biết có luật lệ luân lý của nghề họ, thì Mặc Tử cố đào sâu luân lý ấy và cố biện giải cho luân lý ấy. Cho nên, mặc dầu cơ sở khởi phát của Mặc Tử là cơ sở của du hiệp, nhưng Mặc Tử đã trở thành người sáng lập một học phái triết học mới. Phái Mặc học có tổ chức hết sức chặt chẽ, dưới sự chỉ huy của người đứng đầu gọi là “cự tử”. Đoàn thể Mặc giả do Mặc Tử lãnh đạo lúc đó, được chứng minh là hội đủ các điều kiện sau: - Đang lúc Mặc Tử là “cự tử”, chỉ trong một thời gian ngắn, đã động viên được 300 tín đồ, sang giúp Tống, sẵn sàng chống quân Sở. 14 - Sau ngày Mặc Tử mất, “cự tử” kế nhiệm là Mạnh Thắng, cũng đã từng chỉ huy một nhóm tín đồ, giúp Dương Thành Quân bảo vệ phong ấp, trong một trận kịch liệt đã hi sinh đến 183 người. - Cao Thạch Tử là môn sinh của Mặc Tử, làm quan tại nước Vệ, hưởng lộc rất hậu, nhưng vì chính kiến nêu ra không được vua Vệ chấp nhận nên từ quan trở về với đời sống cơ hàn. - Mặc Tử từng cử học trò là Thắng Trác, làm việc dưới quyền của Hạn Tử Ngưu. Sau đó vì Ngưu đã ba lần xuất quân đánh Lỗ, Thắng Trác đều tham dự, đó là hành động trái ngược với chủ trương “kiêm ái phi công”, nên bị Mặc Tử đuổi ra khỏi hội đoàn Mặc giả. Tính kiên định đối với những tín điều của mình, tính kỷ luật nghiêm khắc đối với đoàn thể, tinh thần thực thế khắc khổ bản thân, không tiếc hi sinh thân mình, tất cả cho đấu tranh cách mạng, về sau đều vẫn được lưu truyền mãi trong dòng máu nông dân Trung Quốc và dân tộc Trung Hoa, đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Trung Hoa. Về vấn đề trước tác của Mặc Tử: về tập sách “Mặc Tử”, xưa nay tranh luận đã nhiều. Có người cho rằng những phần “Kinh thượng, hạ”; “Kinh thuyết thượng, hạ”; “Đại Tiểu Thủ” là không phải của Mặc Tử, phần còn lại do chính tay Mặc Tử viết. Có người cho rằng những phần sáu chương “Kinh thượng, hạ”; “Kinh thuyết thượng, hạ”; “Đại Tiểu Thủ” đều là “Kinh Mặc Tử”, phần còn lại là những “Lời bàn về Mặc Tử”. Lại có người cho rằng kể từ chương “Thân sĩ” trở xuống bảy chương là do người đời sau viết thêm vào. Hai chương “Thân sĩ”, “Tu thân” thì văn chương bay bướm gần như văn Tuân Tử, đều là lời lẽ của các nhà Nho. Năm chương: “Sở nhiễm”, “Pháp nghi”, “Thất hoạn”, “Từ quá”, “Tam biện” đều là do người sau học “Mặc Tử” mà viết ra: chương “Sở nhiễm” thì lấy tinh thần của chương “Thượng hiền”; chương “Pháp nghi” thì lấy tinh thần của chương “Thiên chí”, “Thượng đồng”; hai chương “Thất hoạn”, “Từ quá” thì lấy tinh thần ở chương “Tiết 15 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi dụng”, “Tiết táng”; chương “Tam biện” thì lấy tinh thần ở chương “Phi nhạc”. Cũng có người cho rằng chương “Sở nhiễm” là do những người bỏ đạo Mặc về với đạo Nho làm ra. Gần đây lại có người cho rằng chương “Thiên chí” cũng không phải là ý tứ của Mặc Tử. Tất cả những điều đó đều không phải xuất phát từ một lập trường khoa học nghiêm chỉnh, từ một ý thức giai cấp đã biểu hiện qua tài liệu nhận định, và chỉ là biện luận trên hình thức cấu tạo của văn, cho nên trước sau họ vẫn không thể có được một kết cấu rõ rệt nào. Các chương trong tập sách “Mặc Tử” ngày nay có thể biểu hiện là một dòng phái triết học đồng nhất, đồng thời biểu hiện thành một hình thái ý thức giai cấp xã hội đồng nhất. Tuy nhiên các chương trong tập sách “Mặc Tử” không phải do một tay Mặc Tử viết ra, đó là sự thực. Tác phẩm ấy, một mặt có chỗ có thể do học trò của Mặc Tử ghi chép lại và cũng có thể toàn trước tác của Mặc Tử đều do sự ghi chép như vậy tập hợp. Về phần này cũng có thể là do những người đời sau theo phái Mặc Tử sưu tầm lại. Một mặt có thể do phái Mặc học đời sau biên tập vào, bởi vì giữa tác phẩm, những câu văn ở các chương không những có cách viết, lối hành văn khác nhau mà còn có sự khác nhau về phần ý thức giai cấp xã hội, thấy rõ sự khác nhau về thời gian. Song về điểm này đối với chúng ta không quan trọng lắm, vì chúng ta nghiên cứu học thuyết của Mặc Tử như là một hình thái ý thức giai cấp của thời đó. Theo tác phẩm “Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc” do PGS. TS Doãn Chính chủ biên thì các nhà nghiên cứu cho rằng cuốn “Mặc Tử” gồm 53 thiên. Đây là cuốn sách ghi lại những lời dạy và trước tác của Mặc Địch cũng như của các học trò ông. Trong đó, các thiên như “Thiên chí” (ba thiên), “Minh quỷ” (một thiên), “Thượng đồng” (ba thiên), “Thượng hiền” (ba thiên), “Kiêm ái” (ba thiên), “Phi nho” (một thiên), “Phi công” (ba thiên), “Phi nhạc” (một thiên), “Phi mệnh” (ba thiên), “Tiết táng” (một thiên), “Tiết dụng” (hai thiên) đều là những thiên diễn đạt chính tư tưởng của Mặc Tử. Năm thiên khác như “Canh quế”, “Quý nghĩa”, “Công mệnh”, “Lỗ vấn”, “Công Thâu 16 Ban” là do những người của phái Mặc gia ghi lại những lời nói và hành động của Mặc Tử mà làm ra. Các thiên “Kinh thượng và hạ”, “Kinh thuyết thượng và hạ”, “Đại thủ”, “Tiểu thủ” với nội dung lý luận học và lôgic học đặc sắc là của hậu Mặc còn các thiên khác không quan trọng lắm và đều do người đời sau thêm vào. Với những tư tưởng trong học thuyết của Mặc Tử nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng Trung Quốc đã so sánh học thuyết của ông với tư tưởng từ bi, bác ái của Phật giáo và Kitô giáo. Thậm chí với học thuyết “kiêm ái” và chủ nghĩa công lợi, người ta còn cho rằng Mặc Tử là người đầu tiên có ý tưởng về thế giới đại đồng. Cùng với Nho gia và Đạo gia, học thuyết của Mặc Tử đã thịnh hành và ảnh hưởng một thời ở Trung Quốc. Khi nghiên cứu thân thế, sự nghiệp của Mặc Tử chúng ta không thể bỏ qua việc tìm hiểu thế giới quan của ông. Vì đó là cơ sở nền tảng để xây dựng lên toàn bộ hệ thống triết học Mặc gia. Thế giới quan của Mặc Tử cơ bản là duy tâm và hữu thần. Trong quan điểm về thế giới, cả ông và Khổng Tử đều tin có một lực lượng với quyền năng tối cao chi phối vũ trụ vạn vật, đó là Trời. Theo Khổng Tử “đạo trời”, “thiên lý” là lẽ tự nhiên, lưu hành khắp vũ trụ, định phép sống cho vạn vật như là sức mạnh tuyệt đối. Con người là kết tinh của trời đất nên luôn chịu sự chi phối của “đạo trời” không ai cưỡng lại được. Vì vậy, Khổng Tử cho rằng con người ta phải biết mệnh, sợ mệnh, thuận mệnh và đợi mệnh. Mặc Tử đã bài bác lại học thuyết “thiên mệnh” đó của Khổng Tử. Nhưng ông lại đưa ra một thế giới quan mang tính chất tôn giáo, thần bí, coi ý chí của trời là nguyên tắc tối cao của hành vi con người, đồng thời cho rằng sự biến hóa của hiện tượng tự nhiên cũng bị ý chí của trời chi phối. Trời tạo ra muôn vật, nuôi dưỡng muôn loài. Trời xoay vần bốn mùa, sinh ra các tiết, tạo ra hoa lá cỏ cây, động vật và con người. Trời là một đấng linh thiêng tối cao có ý chí, có nhân cách, quyền uy như gia trưởng trong nhà, như quốc quân một nước. Do 17 Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi vây, ý chí của trời là khuôn phép cho tất cả mọi người noi theo, là phép tắc cho kẻ thống trị thực hiện việc chính trị của mình. Không những thế, ý chí của trời còn là nguyên tắc, chuẩn mực để nhận biết mọi sự đúng sai, thiện ác, tốt xấu của con người và thể chế xã hội. Nếu thuận theo ý trời, làm điều thiện, điều tốt sẽ được trời khen thưởng. Ngược lại, nếu làm sai ý trời gây ra điều ác sẽ bị trời trừng phạt. Bởi vậy, trời mới khiến cho sang thì làm đến thiên tử, giàu thì có cả thiên hạ, cơ nghiệp để lại cho con cháu muôn đời. Ông cho rằng “ý trời quy định là muốn người ta cùng thương yêu nhau, làm lợi cho nhau mà chẳng muốn người ta cùng ghét nhau, làm hại nhau” và trời đem cái ý muốn ấy giao cho thánh nhân trị thiên hạ, đặt tên là “thượng đồng” (trên dưới đồng lòng). Tin vào trời, coi trời có ý chí và là vị chúa tể tối cao trong vũ trụ, nên Mặc Tử cũng tin có quỷ thần. Quỷ thần cũng là một thế lực đầy quyền uy, linh thiêng, công minh chính trực, luôn giám sát mọi việc làm của con người. Ông nhân cách hóa quỷ thần, quỷ thần “có thể thưởng kẻ hiền mà phạt kẻ dữ”. Đây là cơ sở cho thuyết “kiêm ái” (thương yêu lẫn nhau) của ông. Mặc Tử cũng cho rằng, mọi người đều có quyền lợi như nhau đối với việc thờ cúng quỷ thần, bình đẳng trước quyền lợi về tín ngưỡng tôn giáo, đó là sự phản ánh nhu cầu đòi quyền bình đẳng xã hội của giai tầng mà ông đại biểu. Tuy Mặc Tử sùng bái trời và quỷ thần, nhưng ông lại chống lại thuyết định mệnh. Ông cho rằng, mọi thành bại, họa phúc của con người đều là kết quả do hành vi của con người gây nên, là tại sức người chưa đủ, lực người chưa mạnh, tuyệt nhiên không phải là do số mệnh như Nho gia quan niệm. Theo ông, nếu con người ta cố gắng hết sức làm những điều ích lợi cho người khác thì có thể làm cho đời sống của mình được đầy đủ, ấm no, ngược lại nếu không ra sức làm việc sẽ bị nghèo đói. Đây là một bước tiến bộ trong triết học của Mặc Tử, nó đề cao sự nỗ lực của con người trong đời sống. nhưng khi đem nguyện vọng thoát khỏi nghèo khổ của muôn dân gửi gắm vào ý chí của trời và quỷ thần, dùng quyền uy của trời và quỷ thần tác động đến bọn thống 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan