Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu ôn tập môn đường lối

.DOCX
10
115
76

Mô tả:

Họ tên :Đào Thị Vân Anh Lớp : DH4QM3 Môn : đường lối CM của ĐCSVN 1.Thế nào là kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Theo đại hội IX của đảng tháng 4 năm 2001 Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. 2. Những đặc trưng và hình thức chủ yếu của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hoá tập trung với những đặc điểm chủ yếu là: Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn; định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu. Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh. Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý. Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau: Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn nhiều lần so với giá trị thực với chúng trên thị trường. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực tích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động. Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế "xin - cho". Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học - công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học — công nghệ hiện tại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây; trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh, và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. 3. Làm rõ sự khác nhau giữa kinh tế thị trường với kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc và kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Kinh tế thị trường là nền kinh tế có tính mở cao tuân theo quy luậtbốn có của kinh tế thị trường là quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, giá cả ra thị trường quy định, các chủ thể kinh tế có tính độc lập có thể tự chủ sản xuất kinh doanh lỗ lai tự chịu Kinh tế kỹ thuật hóa tập trung là nền kinh tế khép kín, mục tiêu cạnh tranh, giá cả do nhà nước quy định, bộ máy quản lý Cồng kềnh nhiều cấp trung gian. 4. Quá trình đổi mới nhận thức của đảng về kinh tế thị trường ở Việt Nam diễn ra như thế nào Những nét đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế thị trường qua các kỳ Đại hội 1.Từ Đại hội VI đến Đại hội VIII Đại hội VI được họp vào ngày 18/12/1986. Trong lúc hoàn cảnh tình hình kinh tế diễn ra theo chiều hướng xấu, Đại hội đã thông qua những nghị quyết quan trọng ,đánh giá tình hình, những tồn tại yếu kém “Đại hội chủ trương đổi mới một cách toàn diện, trong đó đổi mới tư duy lý luận là cơ bản, đổi mới tư duy kinh tế là trọng tâm, đổi mới với các hình thức bước đi thích hợp. Đổi mới trên cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.”[2,55]. Đại hội nhấn mạnh, tập trung sức người sức của vào việc thực hiện 3 chương trình, mục tiêu : lương thực thực phẩm, hang tiêu dùng, hang xuất khẩu. Đây là đại hội được đánh giá là “trí tuệ - dân chủ - đoàn kết và đổi mới”. Trong 5 năm tiến hành đổi mới (1986-1991) nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế. Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thông qua chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, thông qua nội dung các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước 5 năm 1991-1996. Đại hội đã khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo “cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước”.Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện Thị trường có nhiệm vụ trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh hiệu quả. Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội. Sau 10 năm đổi mới (1986-1996) Đại hội VIII đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, chỉ rõ thời cơ trước mắt cùng những thách thức mới. Thông qua nội dung và những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1996-2000).Đại hội VIII diễn ra đánh dấu bước chuyển biến của nước ta sang thời kỳ đổi mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Như vậy so với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường trong các kỳ Đại hội này có sự thay đổi căn bản và sâu sắc “Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta ” [1,146-148149]. Đánh giá được đúng tầm quan trọng của kinh tế thị trường là bước đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.Tiếp tục kế thừa và phát triển nền kinh tế đất nước theo con đường đinh hướng xã hội chủ nghĩa lên mức cao nhất. 2.Từ Đại hội IX đến Đại hội XI Định hướng bước đi của nền kinh tế đất nước ta đã rõ ràng, nhưng việc thực hiện gặp nhiều khó khăn và thách thức vì đây là mô hình kinh tế mới, phải đảm bảo theo đúng con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX diễn ra từ ngày 19/4 đến 22/4/2001 với mục tiêu thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2010. Đại hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện như: Báo cáo chính trị; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010; phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Đánh giá những thành tựu đạt được trong 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000). Xác định nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là “mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” ,” một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội” [4] .Dùng kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm nâng cao đời sống nhân dân.Tính định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. “ Tính định hướng xã hội chủ nghĩa làm cho mô hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ” [1,152]. “Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đại hội "Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi mới", thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc Việt Nam vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”[4]. Kế thừa và phát huy theo con đường đó, Đại hội X đã diễn ra ngày 18/4 đến 25/4/2006 thông qua báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010. Trong bối cảnh đất nước ta tiếp tục chuyển dịch theo cơ cấu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu, kinh tế vĩ mô cơ bản được ổn định. Trong đó việc hội nhập quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến rất quan trọng như việc thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thực hiện các hiệp định hợp tác đa phương, song phương khác đã góp phần tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại, nhất là xuất khẩu. Đại hội X tiếp tục đề ra những giải pháp để khắc phục tình trạng còn yếu kém : Chất lượng phát triển kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Từ thực tiễn đó Đại hội đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn và những tư tưởng chỉ đạo để phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm tới là : “Bài học về phát triển nhanh và bền vững Bài học về huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nhất là nội lực Bài học về hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ Bài học về phát triển kinh tế thị trường đồng thời với chăm lo ngày càng tốt hơn phúc lợi xã hội Bài học về công tác tổ chức thực hiện và tuyển chọn đúng cán bộ” [4] Mới đây Đại hội XI đã diễn ra từ ngày 12/1 đến 19/1/2011 đã tổng kết 25 năm đổi mới của đất nước ta. Trong đó đã nêu ra một số vấn đề mới và nội dung quan trọng : Về đổi mới kinh tế và chính trị, mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp, yêu cầu phát triển bền vững kinh tế nước ta và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa kinh tế trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Trong đó để giữ vững mục tiêu này, Đại hội đã nêu ra những nội dung cơ bản sau: - Về mục đích, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. - Về mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, chủ thể kinh tế, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội; mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. - Về mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ, phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. - Về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận các cơ hội kinh doanh và phân phối kết quả làm ra. - Phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế của Nhà nước, chú trọng phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế … Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội VI đến đại hội VIII So với thời kì trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường trong giai đoạn này có sự thay đổi căn bản và sâu sắc: Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên CNXH. Có thể, cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng CNXH ở nước ta. Tóm lại: - Trước đổi mới: thị trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch, nên không cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng CNXH. - Trong thời kỳ đổi mới: dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỉ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém. 2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội X Đại hội IX: Xác định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ đi lên CNXH. + Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa chịu trên cơ sở và dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”. + Mục đích: “dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa ,có kỉ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc”. Đại hội X: Làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở các tiêu chí: Về mục đích phát triển: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Về phương hướng phát triển: phát triển tất cả các thành phần kinh tế. Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện nhiều hình thức phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội, mức đóng góp. Về quản lý: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. - Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần Kết luận Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thể hiện dưới một số hình thức dưới đây: Từ quan điểm chỉ có 1 hình thức sở hữu duy nhất “công hữu” sang thực hiện có 3 hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Từ quan điểm muốn xây dựng quan hệ sản xuất XHCN phải cải tạo kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể, tiểu chủ đến quan niệm rằng phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất còn cải tạo quan hệ sản xuất cũ xây dựng quan hệ sản xuất mới phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sx mới. Từ quan điểm chỉ có 2 thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể đến quan điểm rằng phải phát triển kinh tế nhiều thành phần đó là động lực cơ bản để phát triển kinh tế và lực lượng sản xuất. Từ quan điểm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ theo 1 kế hoạch chi tiết từ trên xuống dưới đến phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước tới kinh tế. Từ quan điểm chỉ có một hình thức phân phối duy nhất là phân phối theo kết quả lao động đến quan điểm rằng có nhiều hình thức phân phối. 5. Hãy chỉ rõ các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay + Thành phần kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt, có thể dựa trên sở hữu tập thể, cũng có thể quyền sở hữu hợp pháp vẫn thuộc về các thành viên, nhưng quyền sử dụng lại mang tính chất tập thể. Kinh tế tập thể là hình thức liên kết tự nguyện, rộng rãi của người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa không giới hạn về quy mô, lĩnh vực và địa bàn, có thể kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học, công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ phát triển hỗ trợ hợp tác, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến khích việc tích lũy, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. + Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ. Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nông thôn và thành thị hoạt động kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của người sở hữu là chủ yếu. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh có hiệu quả tiền vốn, sức lao động, tay nghề, sản phẩm truyền thống… vì thế nó có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển. Do những ưu thế đó, Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, công nghệ, tài chính, tiêu thụ sản phẩm… để nó phát triển. Khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. + Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh. Nét nổi bật của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp và lao động làm thuê, nó được tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty đối nhân, công ty đối vốn. Tính đến cuối năm 2001 nền kinh tế nước ta có 24.387 doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp kinh tế tư bản tư nhân không những đóng góp và huy động ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất, kinh doanh mà còn qua đó giữ vai trò quan trọng trong việc tạo thêm việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống và hoạt động nhân đạo. Với vị thế ấy, Đảng ta chủ trương khuyến khích phát triển rộng rãi kinh tế tư bản tư nhân trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh về chính sách, pháp lý để phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài. Khuyến khích tư bản tư nhân chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động. Đẩy mạnh liên doanh liên kết với các thành phần kinh tế khác. + Thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong nước cũng như nước ngoài, nhằm khai thác các nguồn lực cho phát triển và đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm từ sự can thiệp thông minh của Nhà nước vào hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản. Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy, kinh tế tư bản nhà nước thực sự là cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn, là “nhịp cầu trung gian” đi lên xã hội chủ nghĩa. Nó có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý của các nhà tư bản, vì lợi ích của bản thân họ cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước ta. Do đó, Đảng ta chủ trương phát triển đa dạng các hình thức tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước. + Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là thành phần kinh tế mới được bổ sung. Sở dĩ như vậy là vì thực tế trong những năm gần đây bộ phận đầu tư kinh doanh của nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong 10 năm (1991 – 2001) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh. Giá trị sản xuất bình quân tăng 22%/năm. Trong năm năm (1996 – 2000) vốn đầu tư nước ngoài thực hiện khoảng 10 tỷ USD chiếm 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GDP. Từ thực tiễn đó, Đảng ta chủ trương tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển thuận lợi, hướng mạnh vào khâu xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh doanh và pháp lý để thu hút ngày một nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn lại gần 20 năm cải cách, chúng ta đã có được nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu tương ứng. Các thành phần kinh tế tồn tại trong cùng một nền kinh tế quốc dân thống nhất, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để phát triển. Để huy động mọi nguồn lực tăng trưởng, trong những năm tới Đảng ta cho rằng cần chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, phát triển mạnh hình thức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông dân. Về sở hữu: Đây là vấn đề cơ bản và quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng. Sở hữu về tư liệu sản xuất là yếu tố hàng đầu quyết định các mối quan hệ sản xuất, quyết định chế độ quản lý và chế độ phân phối. Vì thế vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất từ xưa đến nay luôn là vấn đề cơ bản và sâu xa của mọi cuộc cải cách kinh tế cũng như của mọi cuộc cách mạng xã hội. Khi nói đến chế độ sở hữu là nói chung, với hàm nghĩa là cơ sở của chế độ kinh tế. Loài người đã trải qua nhiều chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, nhưng tựu trung chỉ có hai chế độ sở hữu cơ bản. Đó là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Mỗi chế độ sở hữu lại có nhiều trình độ và hình thức biểu hiện cụ thể khác nhau. chế độ công hữu có các trình độ và hình thức biểu hiện như: sở hữu công xã, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể…. Chế độ tư hữu cũng có nhiều trình độ và nhiều hình thức như: sở hữu của nông dân cá thể, sở hữu của người sản xuất hàng hóa nhỏ, sở hữu của địa chủ, sở hữu của nhà tư bản. Hiện nay, chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do đó tất yếu còn đan xen nhiều chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Tiếp tục phát triển những tư tưởng của Đại hội VII và Đại hội VIII về sở hữu, Đại hội IX khẳng định thêm một số tư tưởng: - Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất, chủ yếu từng bước được xác lập và chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế độ đó là một quá trình phát triển kinh tế – xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi vững chắc. - Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả sản xuất, quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. Về các thành phần kinh tế: Quy luật của sự phát triển là phát triển không đều. Chính quy luật phát triển không đều về kinh tế, xã hội và tự nhiên đã làm xuất hiện trong nền kinh tế nhiều “kiểu cách làm ăn” với quy mô trình độ khác nhau và phù hợp với nó là những hình thức sở hữu tương ứng. Thêm nữa, để phát triển kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống chính trị – xã hội, Nhà nước phải xây dựng hệ thống những cơ sở kinh tế mới, hình thành nên khu vực Kinh tế nhà nước. Trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế, thông qua hợp tác và đầu tư lại hình thành nên Kinh tế tư bản nhà nước. Đây là cơ sở kinh tế của việc hình thành các thành phần kinh tế khác nhau mà ngày nay nhiều khi gọi đó là khu vực kinh tế hay loại hình kinh tế. 6. Làm rõ sự khác nhau cơ bản nhất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, người làm chủ là giới chủ tư sản; trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì người làm chủ là đông đảo nhân dân lao động, do nhà nước của dân, do dân, vì dân đại diện quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây chính là sự khác biệt căn bản nhất giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các mặt kỹ thuật và tổ chức còn lại của nền kinh tế thị trường như nguyên tắc trao đổi hàng hóa, kỹ thuật kiểm soát nền kinh tế… hoạt động ở trạng thái hiệu quả đều là thành quả tiến hóa chung mang tính nhận thức và khoa học của loài người. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường định hướng XHCN khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là không dùng quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất để nô dịch, bóc lột đa số người lao động, đồng thời cũng không giống như mô hình kinh tế kế hoạch hóa quan liêu, bao cấp trước đây. Kinh tế thị trường định hướng XHCN lấy những nguyên tắc của kinh tế thị trường làm nền tảng cho cơ chế vận hành, sử dụng những nhân tố tích cực để thúc đẩy kinh tế phát triển. Kinh tế thị trường theo mô hình mà Đảng ta lựa chọn là phương thức phát triển kinh tế dựa trên những nguyên tắc của thị trường có sự điều tiết của Nhà nước pháp quyền XHCN. Kinh tế thị trường không thể tự nó quyết định bản chất và định hướng phát triển của một chế độ chính trị-xã hội. Bản chất của chế độ chính trị-xã hội quyết định bản chất của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường là bảo đảm cho việc thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan