Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Pháp luật về kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh đăk lăk...

Tài liệu Pháp luật về kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh đăk lăk

.PDF
93
562
101

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRẦN THỊ NHÂN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỀN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC ĐẮK LẮK – NĂM 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRẦN THỊ NHÂN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỀN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 60 38 01 02 Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Minh Sản ĐẮK LẮK – NĂM 2017 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn với tiêu đề “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” hoàn toàn là kết quả nghiên cứu của chính bản thân tôi và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào của người khác. Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã thực hiện nghiêm túc các quy tắc đạo đức nghiên cứu; các kết quả trình bày trong luận văn là sản phẩm nghiên cứu, khảo sát của riêng cá nhân tôi; tất cả các tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn tường minh, theo đúng quy định. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu và các nội dung khác trong luận văn của mình. Đắk Lắk, ngày 20 tháng 3 năm 2017 Tác giả Luận văn Trần Thị Nhân 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU……………………………………… ...................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn…… ………… ................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn……… ................. 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................... 5 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................. 5 7. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 6 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân.............................................. 7 1.1.1. Khái niệm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân .......................... 7 1.1.2. Đặc điểm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ............................ 9 1.1.3. Vị trí, vai trò của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ................ 11 1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân.......................... 12 1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ...... 12 1.2.2. Nội dung pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ....... 13 1.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ..... 14 1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ..................................................................................................... 17 4 1.3.1. Yếu tố thể chế pháp lý .................................................................... 17 1.3.2. Yếu tố tổ chức, bộ máy ................................................................... 20 1.3.3. Yếu tố cán bộ, công chức ................................................................ 23 1.3.4. Yếu tố cơ sở, vật chất và nguồn lực tài chính ................................. 23 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân ..................................................................................................... 26 2.1.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên ................................................................................................................... 26 2.1.2. Các quy định về tiêu chuẩn Kiểm sát viên...................................... 28 2.1.3. Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và thuyên chuyển Kiểm sát viên .......................................................................... 31 2.1.4. Quy định về mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và các cơ quan tố tụng khác ......................................................................................................... 34 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay ........................................................................... 38 2.2.1. Hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên............................................................................................................. 38 2.2.2. Về tiêu chuẩn, trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân........................................... 49 2.2.3. Về mối quan hệ giữa kiểm sát viên và các cơ quan tố tụng khác ................................................................................................................... 51 5 2.3. Đánh giá chung việc thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay ............................................................. 53 2.3.1. Những kết quả đạt được .................................................................. 53 2.3.2. Những hạn chế, bất cập ................................................................... 55 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập....................................... 59 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HIỆN NAY 3.1. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân .................................................................................. 63 3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân .......................................................................................................... 63 3.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân ................................................................................................................... 67 3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân hiện nay ...................................................................................... 74 3.2.1. Tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ........................................................................... 74 3.2.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân...................................................................... 75 KẾT LUẬN ............................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 79 6 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT NNPQ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Đất nước đang bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, là một trong những cơ quan của chuyên chính vô sản, trách nhiệ m của ngành kiểm sát, người cán bộ kiểm sát là hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), "Người cán bộ Kiểm sát viên phải thấy hết trách nhiệm cao cả và nặng nề của mình, luôn luôn tôn trọng sự thật, phân rõ đúng sai, hết sức giữ thái độ khách quan, thận trọng, công minh, chính trực" (Lê Duẩn). Ngay từ khi nước nhà giành độc lập, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã chú ý tới những cán bộ làm nhiệm vụ công tố, những vấn đề pháp lý về chức danh này bước đầu được điều chỉnh trong những văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Sự ra đời của VKSND năm 1960 đánh dấu sự hình thành chức danh Kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát sự tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên VKSND trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy nhà nước nói chung đã và đang được khẳng định. Với cơ quan Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là người trực tiếp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong bộ máy nhà nước, Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, có nhiệm vụ thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng. Là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên, có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng của cả nước, Đắk Lắk có diện tích hơn 13.000 km2; dân số gần 02 triệu người; có 47 dân tộc anh em ở khắp các vùng, miền trong cả nước cùng về đây sinh sống; có 73 km đường biên giới giáp tỉnh Munđunkiri thuộc nước bạn Campu-chia; tỉnh Đắk Lắk tiếp giáp với 05 tỉnh bạn là Gia Lai, Đắk Nông, Lâm Đồng, Khánh Hoà và Phú Yên; có 03 quốc lộ 14, 26 và 27 chạy qua; có 15 8 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 01 thành phố cấp 01 Buôn Ma Thuột, 01 thị xã Buôn Hồ và 13 huyện, với 184 xã, 2.445 thôn, buôn, bản. Trong những năm qua, tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh luôn diễn biến và tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, nhất là các hoạt động của bọn phản động Fulrô lưu vong liên quan đến tình hình an ninh nông thôn và tội phạm hình sự (lượng án ở Đắk Lắk giải quyết đứng thứ 5 trên toàn quốc). Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND tỉnh Đắk Lắk đã góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh. VKSND tỉnh Đắk Lắk không thể đảm nhận được vai trò, nếu thiếu nhân tố có ý nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên của hai cấp. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên hai cấp có đủ phẩm chất và năng lực là nhiệm vụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhất là yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, pháp luật về Kiểm sát viên đã bộc lộ những những yếu kém, bất cập: thiếu tính đồng bộ, tính thống nhất; nhiều quy định về Kiểm sát viên còn chung chung, chưa hoàn toàn phù hợp; số lượng định biên và cơ cấu chức danh Kiểm sát viên còn gò bó, cứng nhắc, có nơi thiếu, nơi thừa, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị; các quy định về quản lý còn phân tán, chống chéo, thiếu thống nhất, chưa có sự phân công rõ ràng, rành mạch; tiêu chuẩn đối với Kiểm sát viên còn nhiều mâu thuẫn, chưa ăn khớp; công tác đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên chậm được đổi mới; tiền lương, phụ cấp và các đãi ngộ khác đối với Kiểm sát viên chưa được giải quyết một cách cơ bản, còn nhiều bất hợp lý; một số chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng về Kiểm sát viên chưa được thể chế hóa thành pháp luật; chính sách thu hút và trọng dụng tài năng chưa được quan tâm; tình trạng cục bộ địa phương chậm được 9 khắc phục; nhiều vấn đề mới phát sinh trong quản lý và xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên chưa được pháp luật điều chỉnh, bổ sung kịp thời, vv... Những thiếu sót đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến trình độ, chất lượng của đội ngũ Kiểm sát viên tỉnh Đắk Lắk còn thấp; năng lực của một bộ phận không nhỏ Kiểm sát viên còn yếu kém, chưa toàn tâm toàn ý với công vụ, thiếu công tâm, khách quan, còn có những biểu hiện tiêu cực, chưa được nhân dân tín nhiệm. Để tạo được một hệ thống văn bản pháp luật về Kiểm sát viên có được sự đổi mới cơ bản, có hệ thống quy phạm, nguyên tắc, định hướng và mục đích pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, thống nhất và có tính khả thi cao đã đặt ra nhiều vấn đề lý luận, pháp lý cần phải được giải đáp thấu đáo, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Vì vậy, việc chọn và nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk” là yêu cầu khách quan và tất yếu, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk” cho thấy, các nhà khoa học tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau, trong đó đáng chú ý như: Tô Tử Hạ (2003), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; TS. Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật; Lê Hữu Thể (chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Lê Tài Triển (1970), Nhiệm vụ của Công tố viên, Nxb Sài Gòn; Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án 10 tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Thị Thu Hà (2015), “Tranh tụng trong tố tụng dân sự - một số vấn đề lý luận cơ bản”, đăng trên trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ; Nguyễn Thị Thu Hà (2009), Về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS nhân dân, Tạp chí Luật học tháng 11/2009; Phạm Hồng Hải (2006), "Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật… Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên biệt về pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên biệt về: “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk” dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Với kết quả nghiên cứu của luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần khắc phục tình trạng nêu trên. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk để đưa ra các quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thời gian tới. Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn có nhiệm vụ: Thứ nhất, luận văn xây dựng cơ sở lý luận của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND thông qua việc phân tích, làm rõ khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; đặc điểm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nội dung pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; vai trò pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; các yếu tố bảo đảm thực hiện hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND tỉnh Đắk Lắk, luận văn đánh giá khách quan về những kết quả 11 đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập này. Thứ ba, luận văn hình thành các quan điểm, đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản, có tính hệ thống và bảo đảm cơ sở khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật hiện hành của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Dưới góc độ tiếp cận của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định là pháp luật về Kiểm sát viên VKSND ở Việt Nam, được đánh giá thông qua thực tiễn thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND tỉnh Đắk Lắk, thời gian từ năm 2012 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2016; về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp. Để phù hợp với nội dung và mục đích nghiên cứu, luận văn đã sử dụng hợp lý, có hiệu quả từng từng phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó luận văn chú trọng các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu sâu, toàn diện và có hệ thống về pháp luật Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào hệ thống lý luận về Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng, Nhà 12 nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020; về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp. Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu này còn góp phần nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong đời sống dân sự. Luận văn có thể được tham khảo trong xây dựng chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, trong đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp; tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành pháp luật, tư pháp và các khóa bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành kiểm sát nhân dân. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương sau: Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; Chương 2: Thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn thi hành ở tỉnh Đắk Lắk; Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân và bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân hiện nay. 13 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân 1.1.1. Khái niệm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Để có quan niệm xác thực về Kiểm sát viên VKSND, trước hết cần phải tiếp cận nó như một bộ phận cấu thành của hệ thống cán bộ, công chức nhà nước và là một thuật ngữ có tính tập hợp. Cán bộ, theo quan niệm thông thường được hiểu là những người thoát ly khỏi sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp… để làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, những người là sĩ quan trong lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, những người giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế… Theo các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta hiện nay, sử dụng đồng thời ba thuật ngữ: cán bộ, công chức, viên chức. Hiến pháp năm 2013 ở Điều 8 "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân…". Theo quy định của Hiến 14 pháp thì những người phục vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước bao gồm cán bộ, công chức và viên chức. Căn cứ tại khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008 thì “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ. Công chức là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là khái niệm mang tính lịch sử, đồng thời phản ánh đặc sắc riêng của nền công vụ và tổ chức bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia. Tùy thuộc vào đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội và chế độ chính sách của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà nội dung của khái niệm công chức được hiểu theo những cách khác nhau. Theo Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật tổ chức VKSND năm 2002 và đến nay là Luật Tổ chức VKSND năm 2014 qui định thì tại Điều 74 quy định: Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp [38]. Đồng thời, căn cứ Nghị định 60/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy định những người là công chức thì xác định “Công chức là công dân Việt Nam, 15 được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định này” [4]. Theo đó, công chức trong hệ thống VKSND gồm: Phó Viện trưởng VKSND tối cao; kiểm sát viên, điều tra viên; người làm việc trong văn phòng, vụ, cục, ban và Viện nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện VKSND cấp tỉnh; kiểm sát viên, điều tra viên; người làm việc trong văn phòng, phòng thuộc VKSND cấp tỉnh; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện; kiểm sát viên, điều tra viên và người làm việc trong VKSND cấp huyện. Qua phân tích các quy định trên đây, dưới góc độ luật học có thể khái quát về Kiểm sát viên VKSND như sau: Kiểm sát viên VKSND là công dân Việt Nam được bổ nhiệm vào vào ngạch Kiểm sát viên theo nhiệm kỳ để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 1.1.2. Đặc điểm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân VKSND là một bộ phận trong bộ máy chính quyền nhà nước. Kiểm sát viên VKSND là những người hoạt động theo thẩm quyền được pháp luật quy định, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên. Là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, hoạt động của Kiểm sát viên đều hướng theo mục tiêu nhiệm vụ chung. Về vị trí: Là cơ quan trong bộ máy nhà nước ta được quy định bởi nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác lập trong Hiến pháp. Về chức năng, nhiệm vụ: Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. 16 Về tổ chức, quyền hạn: Hệ thống VKSND là một hệ thống thống nhất, bao gồm VKSND tối cao, các VKSND cấp cao, các VKSND địa phương, các VKS quân sự và được phân cấp đảm nhiệm những chức năng. Do đó, Kiểm sát viên VKSND gồm hai bộ phận, một là, chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo bổ nhiệm ngạch Kiểm sát viên; hai là, vừa thực hiện chức năng trên vừa giữ chức danh quản lý theo sự bỏ phiếu tín nhiệm của từng nhiệm kỳ. Về hoạt động: Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội; kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp. Đặc điểm của Kiểm sát viên VKSND được thể hiện cụ thể sau đây: Kiểm sát viên là người thực thi pháp luật và thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật. Kiểm sát viên có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật; kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”; nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, nguyên tắc tổ chức hoạt động của VKSND. Chính vì vậy, Kiểm sát viên là những người gần dân, sát dân, biết dân, vì nhân dân phục vụ nên dễ làm dân 17 tin và dân mến, có điều kiện thuận lợi trong việc thuyết phục, vận động nhân dân tuân thủ pháp luật, thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn không ít Kiểm sát viên chưa toàn tâm, toàn ý với công việc được giao, trong giải quyết công việc còn thiếu trách nhiệm mà coi nhẹ kỷ cương, pháp luật. Kiểm sát viên là người có trình độ chuyên môn và có năng lực công tác. Theo tiêu chuẩn thì Kiểm sát viên có trình độ cử nhân luật trở lên, đã hoàn thành đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát. Kiểm sát viên hiểu biết, nắm vững và áp dụng đúng các quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế, các quy chế nghiệp vụ của ngành, nhất là các quy định của pháp luật trong lĩnh vực công tác được giao để giải quyết công việc được chính xác, có chất lượng, hiệu quả; vận dụng linh hoạt, nhạy bén các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn hoạt động nghiệp vụ, đồng thời biết gắn nhiệm vụ công tác được giao với yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng; có khả năng tham mưu, hướng dẫn pháp luật trong công tác. Ngoài ra, với tính chất công việc và yêu cầu nhiệm vụ, Kiểm sát viên có mối quan hệ công tác và tiếp xúc với nhiều người khác nhau như: Điều tra viên, Thẩm phán, Luật sư và viên chức các ban ngành có liên quan đến công việc, quần chúng hay bị can, bị cáo, đương sự … nên Kiểm sát viên còn có các kĩ năng giải quyết vấn đề, phân tích thông tin và kỹ năng báo cáo, kĩ năng tranh tụng trước tòa, hùng biện và nói trước đám đông, thuyết phục. Khi thực thi pháp luật, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và Viện trưởng Viện kiểm sát về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây cũng là những đặc điểm khác biệt của Kiểm sát viên so với các đối tượng công chức nhà nước khác. Kiểm sát viên không có tính ổn định, là công chức trong biên chế, làm việc suốt đời (60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ), nhưng chức danh 18 được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, nếu không được bổ nhiệm thì không còn giữ chức danh Kiểm sát viên nữa; thường có sự điều động, luân chuyển. Về nghĩa vụ, trách nhiệm có tính đặc thù, chuyên trách với trách nhiệm cao, thường xuyên làm việc với đối tượng phạm tội, nhưng thực chất chế độ của Kiểm sát viên chưa được hưởng tương xứng và đầy đủ. Bên cạnh đó, có những Kiểm sát viên còn hạn chế về năng lực, trình độ, chưa nắm vững các quy định pháp luật và các quy định có liên quan nên chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. 1.1.3. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Trong bộ máy nhà nước, VKSND có một vị trí đặc biệt. Luật tổ chức VKSND năm 2014 khẳng định rõ địa vị pháp lý của VKSND là thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước, có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hệ thống cơ quan VKSND gồm VKSND tối cao, các VKSND cấp cao, các VKSND địa phương và các Viện kiểm sát quân sự. VKSND tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. VKSND cấp cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao. VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quân đội. 1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân 1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là lĩnh vực pháp luật có tính chất liên ngành, các quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định trong nhiều văn bản pháp luật như Hiến pháp, các luật, bộ luật, pháp lệnh, các 19 nghị định trong đó Luật cán bộ, công chức; các nghị định của Chính phủ về cán bộ, công chức, Luật tổ chức VKSND có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với vị trí là những văn bản chung. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở để làm hình thành pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Hiến pháp quy định các nguyên tắc mang tính chính trị - xã hội cốt yếu của nền hành chính, thông qua quy định nghĩa vụ của công chức nhà nước trong hoạt động công vụ; quyền tự do của công dân trên các lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực hành chính - chính trị; quy định trình tự pháp lý của việc thiết lập các chức vụ chính trị trong bộ máy nhà nước; quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chức vụ trong bộ máy đó. Các quy định này là cơ sở định hướng cho việc xây dựng chế độ pháp lý về cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng. Luật cán bộ, công chức là văn bản qui định liên quan tới mọi mặt đời sống công vụ; xác định phạm vi, các quyền, nghĩa vụ công vụ ; các quy tắc chung về tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật v.v...của cán bộ, công chức nói chung, trong đó có Kiểm sát viên VKSND. Luật tổ chức VKSND năm 2014 là văn bản hợp nhất Luật tổ chức VKSND năm 2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2011, là văn bản trực tiếp và quan trọng nhất liên quan tới Kiểm sát viên, qui định các mặt cụ thể của chế độ công vụ của Kiểm sát viên VKSND, quy định về: tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật, trách nhiệm bồi thường vật chất, .... của Kiểm sát viên VKSND. Như vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một lĩnh vực pháp luật, bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới mọi mặt của Kiểm sát viên VKSND và chế độ công vụ đối với họ. Những văn bản lập pháp và lập quy này do cơ quan nhà nước ở Trung ương, địa phương ban hành. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thiết lập đội ngũ Kiểm sát viên. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan