Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Pháp luật việt nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển tt...

Tài liệu Pháp luật việt nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển tt

.PDF
23
216
96

Mô tả:

Pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển Nguyễn Thị Hồng Nhung Khoa Luật Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật quốc tế; Mã số: 60 38 60 Người hướng dẫn: TS. Vũ Đức Long Năm bảo vệ: 2013 Abstract: Tìm hiểu và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển, tình hình tham gia và thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam. Tìm ra những điểm bất cập và hạn chế trong quy định của pháp luật trong nước cũng như các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển. Làm nổi bật các nguyên nhân dẫn đến tình trạng pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường và việc thực thi kém hiệu quả các công ước quốc tế, đặc biệt là các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển. Đưa ra được những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia; định hướng cho vấn đề kí kết, đàm phán, gia nhập, thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia. Keywords: Luật Quốc tế; Pháp luật Việt Nam; Công ước quốc tế; Bảo vệ môi trường Biển Content MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Là một đất nước có hơn 3260 km bờ biển, với một vị trí địa lý thuận lợi nên Việt Nam được coi là quốc gia có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế biển như hàng hải, du lịch, dịch vụ, công nghiệp đóng tàu, khai thác hải sản, dầu khí… Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ra "Nghị quyết về Chiến lược biển đến năm 2020" là "Phấn đấu đưa kinh tế biển đóng góp khoảng 53% - 55% GDP và 55% - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước". Những tiêu chí trên thể hiện rõ tầm quan trọng của biển Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Thế nhưng dưới sức ép của phát triển kinh tế, của sự gia tăng dân số… nên biển đang bị suy thoái và ô nhiễm nghiêm trọng từ những hoạt động ngày càng gia tăng của con người. Theo thống kê, mỗi ngày có hàng nghìn tấn rác từ các hoạt động khai thác, nuôi trồng thủy sản, du lịch, công nghiệp, nước thải sinh hoạt…đổ trực tiếp ra biển không qua xử lý, sự cố tràn dầu…đang khiến môi trường nước biển bị ô nhiễm nặng, khiến cho các nguồn thủy sản đang cạn kiệt dần, nhiều loài hải sản đã được đưa vào sách đỏ, các hệ san hô, hệ động thực vật biển và nguồn lợi hải sản, dầu khí đang có xu hướng giảm dần về trữ lượng, sản lượng, thiếu nước ngọt, xói lở, sa bồi bờ biển với mức độ ngày càng trầm trọng, nhiều bãi biển đẹp đang mất dần… Môi trường biển Việt Nam đang kêu cứu! Đến một lúc nào đó khi biển quá tải vì ô nhiễm môi trường nó sẽ quay lại hủy hoại chính chúng ta. Xuất phát từ những trăn trở của cá nhân tác giả khi môi trường, đặc biệt là môi trường biển đang ngày càng bị hủy hoại nghiêm trọng, xuất phát từ nhận thức muốn phát triển bền vững nhất thiết phải gìn giữ, bảo vệ tốt môi trường, trong đó có môi trường biển, đây là vấn đề sống còn và cấp bách vì môi trường ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đến đời sống, sản xuất, sự phát triển tồn tại của từng quốc gia, dân tộc. Vì thế, tác giả cũng muốn góp tiếng nói nhỏ bé của mình vào tiếng chuông cảnh tỉnh chung về bảo vệ môi trường biển; với mong muốn làm sáng tỏ các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như luật quốc tế về vấn đề bảo vệ môi trường biển để từ đó có cái nhìn sâu sắc hơn về các quy định của pháp luật quốc gia cũng như quốc tế về vấn đề bảo vệ môi trường; đồng thời, tìm ra những điểm thiếu sót, bất cập, còn hạn chế của pháp luật, có những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật quốc gia cho phù hợp với luật pháp quốc tế. Vì những lý do đó, tác giả quyết định chọn đề tài: "Pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển" làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Công ước quốc tế hay vấn đề bảo vệ môi trường biển là những vấn đề không mới. Thực tế đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, khóa luận, luận văn… đề cập đến vấn đề này như cuốn sách Bảo vệ môi trường biển Việt Nam- Vấn đề và giải pháp của tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao năm 2004; khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Hồng Ly năm 2009 về Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường biển trong hoạt động dầu khí; bài viết "Ô nhiễm môi trường biển và vấn đề thực thi các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển tại Việt Nam", của Đỗ Văn Sen trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật năm 2008…Tuy nhiên, những bài viết, khóa luận chỉ đề cập đến một số khía cạnh về việc thực hiện các điều ước quốc tế hay đề cập đến vấn đề bảo vệ môi trường biển ở một số lĩnh vực, chủ yếu là ô nhiễm do dầu. Riêng cuốn sách của TS. Nguyễn Hồng Thao đã phân tích khá đầy đủ, toàn diện về vấn đề bảo vệ môi trường biển Việt Nam cũng như đưa ra giải pháp để cải thiện và bảo vệ môi trường biển. Trong đó, cuốn sách cũng dành một phần riêng để phân tích về vấn đề Việt Nam và các công ước quốc tế về môi trường biển. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đóng góp một phần vào việc bảo vệ môi trường biển, tạo ưu thế cho sự phát triển của các ngành kinh tế biển. Tuy vậy, do giới hạn của từng công trình, chúng đã không đề cập hoặc có đề cập đến vấn đề pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển nhưng ít nghiên cứu chuyên sâu về mặt khoa học pháp lý. Có thể khẳng định đây là công trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống các vấn đề lí luận và thực tiễn về pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển với cấp độ luận án thạc sĩ luật học. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Luận văn xác định mục đích, nhiệm vụ chính là: - Tìm hiểu và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển, tình hình tham gia và thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam. - Tìm ra những điểm bất cập và hạn chế trong quy định của pháp luật trong nước cũng như các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển. - Làm nổi bật các nguyên nhân dẫn đến tình trạng pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường và việc thực thi kém hiệu quả các công ước quốc tế, đặc biệt là các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển. - Đưa ra được những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia; định hướng cho vấn đề kí kết, đàm phán, gia nhập, thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia. 4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Luận văn có đối tượng nghiên cứu như sau: - Luận văn tập trung nghiên cứu và phân tích các quy định của pháp luật trong nước và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển mà Việt Nam đã tham gia để từ đó tìm ra những điểm còn bất cập, hạn chế và đưa ra giải pháp hoàn thiện. - Nghiên cứu các quy định trong các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển mà Việt Nam đang xem xét để tham gia để từ đó đưa ra các định hướng và đề xuất cụ thể. - Nghiên cứu thực tiễn thực thi pháp luật và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển tại Việt Nam, đưa ra kết luận và tìm ra giải pháp thực thi có hiệu quả. - Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ môi trường biển và thực tiễn tham gia các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở một số nước để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam… 5. Phương pháp tiếp cận vấn đề - Về phương pháp luận: Luận văn vận dụng cách tiếp cận truyền thống để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật lịch sử; chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. - Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê số liệu… 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển Chương 2: Thực tiễn pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển và việc tham gia, thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị về hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường biển Việt Nam và về việc Việt Nam tiếp tục tham gia các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG BIỂN 1.1. Khái niệm môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển và bảo vệ môi trường biển Môi trường biển được định nghĩa trên nhiều phương diện khác nhau, nếu xét về phương diện phạm vi địa lý, môi trường biển là toàn bộ vùng nước biển của trái đất với tất cả những gì có trong đó. Theo Điều 1, khoản 4 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, môi trường biển được hiểu bao gồm các tài nguyên sinh vật, các hệ sinh thái biển và chất lượng nước biển, cảnh quan biển. Tại chương 17 trong Chương trình hành động 21 định nghĩa: "Môi trường biển là vùng bao gồm các đại dương và các biển và các vùng ven biển tạo thành một tổng thể, một thành phần cơ bản của hệ thống duy trì cuộc sống toàn cầu và là tài sản hữu ích tạo cơ hội cho sự phát triển bền vững". Pháp luật Việt Nam không có một định nghĩa riêng về từng thành phần của môi trường mà Luật bảo vệ môi trường năm 2005 chỉ đưa ra định nghĩa: "Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật". Căn cứ vào định nghĩa ô nhiễm môi trường của Luật bảo vệ môi trường thì, ô nhiễm môi trường biển là sự biến đổi trạng thái lý - hóa - sinh học của môi trường biển khi thải vào môi trường biển những chất độc hại, vi phạm tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu tới con người và sinh vật. Theo tác giả, nên định nghĩa: Ô nhiễm môi trường biển việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm từ các cửa sông, đất liền, trên không trung, đáy biển hoặc do những biến đổi bất thường của tự nhiên, từ đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây nguy hiểm cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương tiện sử dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển. Bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm đang trở thành một nhiệm vụ bức thiết. Dựa trên quan điểm bảo vệ và phát triển bền vững môi trường, bảo vệ môi trường biển là ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của các hoạt động của con người và của tự nhiên đến môi trường biển, làm ô nhiễm và suy thoái môi trường biển. 1.2. Nguồn gây ô nhiễm môi trường biển Theo Công ước Luật biển 1982, ô nhiễm môi trường biển bao gồm 6 nguồn chính sau: - Ô nhiễm bắt nguồn từ đất liền kể cả các ô nhiễm xuất phát từ các dòng sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải đổ công nghiệp. - Ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia ven biển, hay xuất phát từ các đảo nhân tạo, các công trình thiết bị thuộc quyền tài phán của họ. - Ô nhiễm do các hoạt động trong vùng (tức vùng đáy biển di sản chung của loài người) lan truyền tới. - Ô nhiễm do sự nhấn chìm và trút bỏ chất thải. - Ô nhiễm do hoạt động của các loại tàu thuyền và tai nạn tàu thuyền trên biển. - Ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí quyển. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển luôn gắn liền với các lĩnh vực hoạt động của con người. Việc xác định nguồn gây ô nhiễm môi trường biển là cần thiết trong quá trình đấu tranh và bảo vệ môi trường biển. Tuy nhiên, mỗi nguồn gây ô nhiễm môi trường biển nêu trên lại có mức độ ảnh hưởng khác nhau đến môi trường biển. Đánh giá, phân loại nguồn gây ô nhiễm môi trường biển sẽ giúp bảo vệ môi trường biển hiệu quả hơn, tốt hơn. 1.3. Các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển Hiện nay, có khoảng 300 công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, trong đó, có các công ước sau về bảo vệ môi trường biển: - Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS). - Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78). - Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng con người trên biển 1974 (SOLAS). - Công ước quốc tế sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với việc xử lý ô nhiễm dầu năm 1990 (OPRC). - Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển do chất thải và những vật liệu khác (London 1972). - Công ước về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải nguy hại và việc tiêu hủy chúng (Basel 1989). - Công ước về can thiệp ngoài biển cả trong các trường hợp sự cố ô nhiễm dầu năm 1969 và Nghị định thư liên quan đến việc can thiệp ngoài biển cả trong các trường hợp ô nhiễm do các chất khác không phải dầu năm 1973 (Công ước can thiệp). - Công ước về cứu hộ năm 1989 - Công ước về trách nhiệm dân sự đối với các tổn thất ô nhiễm biển do dầu năm 1969 (CLC 1969), Công ước quốc tế về thiết lập quỹ quốc tế đền bù các tổn thất ô nhiễm biển do dầu năm 1971 (FUND 1971), các Công ước sửa đổi CLC 1992 và FC 1992. - Công ước về trách nhiệm và bồi thường thiệt hại gắn liền với việc vận chuyển bằng đường biển các chất nguy hiểm và độc hại 1996 (HNS). - Công ước quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu, 1969. - Công ước quốc tế liên quan tới can thiệp vào các biểu vĩ độ cao trong trường hợp thiệt hại do ô nhiễm dầu, 1969. - Công ước quốc tế về các hệ thống chống hà của tàu năm 2001 (AFS 2001) - Công ước quốc tế về kiểm soát và quản lý nước dằn và cặn nước dằn tàu năm 2004 (BWM 2004) - Công ước quốc tế Hồng Kông về tái sinh tàu an toàn, thân thiện môi trường năm 2009 (SR 2009)… Tóm lại, cùng với quá trình phát triển các quốc gia đã nhận thức rõ được sự cần thiết của việc hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường biển- tài sản chung của nhân loại. Do đó, các công ước quốc tế về môi trường biển được xây dựng ngày càng nhiều và được các quốc gia trên thế giới gia nhập, ký kết tạo nên một khung pháp lý cơ bản về bảo vệ môi trường biển. Tuy vậy, việc thực thi, nội luật hóa các công ước quốc tế này là vấn đề quan trọng, cần được các quốc gia quan tâm thích đáng. Có như vậy mới bảo vệ hiệu quả môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng. So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là nước tham gia nhiều các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, trong đó có môi trường biển. Việc tham gia các công ước này mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích thiết thực về kinh tế, xã hội, chính trị và môi trường. Thứ nhất, các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển đều xác định các quyền và nghĩa vụ của các thành viên. Hầu hết các công ước này đều quy định các nước phát triển phải có nghĩa vụ giúp đỡ các nước nghèo, các nước kém phát triển hơn trong việc bảo vệ môi trường biển. Việt Nam mới được đưa ra khỏi danh sách các nước nghèo nhưng thực tế vẫn là một nước kém phát triển. Do đó, khi tham gia các công ước này Việt Nam chắc chắn sẽ nhận được sự giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước phát triển như sự giúp đỡ về kinh tế, khoa học kỹ thuật, được chia sẻ kinh nghiệm trong việc bảo vệ môi trường biển… Ngoài ra, Việt Nam sẽ được hưởng các quyền lợi cụ thể được ghi nhận trong các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển mà Việt Nam là thành viên. Thứ hai, là thành viên các công ước, Việt Nam phải đưa ra những quyết sách quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển; phải xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp luật không chỉ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển mà trong nhiều lĩnh vực khác phù hợp với các cam kết quốc tế. Qua đó, góp phần vào sự phát triển và tiến bộ của hệ thống pháp luật Việt Nam. Có một nền pháp luật tiên tiến sẽ xóa bỏ các rào cản, thu hút nhiều sự đầu tư trong nước và nước ngoài về cả vốn, công nghệ và nhân lực trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển và các lĩnh vực khác. Thứ ba, việc thực hiện tốt các nghĩa vụ và các cam kết quốc tế mà các công ước quốc tế đã xác định giúp tạo ra uy tín cho Việt Nam, tạo ra niềm tin đối với bạn bè quốc tế. Từ đó, nâng cao hơn vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 1.4. Pháp luật bảo vệ môi trường biển một số nước trên thế giới Tác giả luận văn cũng đã trình bày pháp luật bảo vệ môi trường biển một số nước và thực tiễn tham gia và thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển 1.4.1. Pháp luật bảo vệ môi trường biển của Canada 1.4.2. Pháp luật bảo vệ môi trường biển của Trung Quốc 1.4.3. Pháp luật bảo vệ môi trường biển của Nhật Bản Chương 2 THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG BIỂN VÀ VIỆC THAM GIA, THỰC HIỆN CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG BIỂN Ở VIỆT NAM 2.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển 2.1.1. Luật pháp về các vùng biển Việt Nam Ngày 12/11/1982, Chính phủ Việt Nam đã ra tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải để xác định các vùng biển của mình. Tuy nhiên, do biển Đông là biển nửa kín, hẹp nên không tránh khỏi có các vùng biển chồng lấn, vì thế Việt Nam đã ký kết các hiệp định phân định biển với các nước như Hiệp định phân định biển với Thái Lan ngày 9/7/1997, Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc ngày 25/12/2000. Như vậy, các vùng biển Việt Nam được quy định và xác lập một cách rõ ràng. Tại các vùng biển này, Việt Nam thực hiện các quyền chủ quyền và tài phán của mình, trong đó có cả quyền sử dụng biển, bảo vệ môi trường biển. Tuy nhiên, nghĩa vụ bảo vệ môi trường biển là nghĩa vụ của tất cả các quốc gia, không phân biệt biên giới hay ranh giới phân định, không phân biệt quốc gia đó có biển hay không có biển. 2.1.2. Luật pháp Việt Nam về bảo vệ môi trường biển Việt Nam đã xây dựng, phát triển hệ thống các chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường biển. Hệ thống chính sách và pháp luật đó có thể khái quát những đặc trưng lớn như sau: - Hệ thống chính sách kết hợp bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế- xã hội và bảo vệ chủ quyền quốc gia hướng tới phát triển bền vững, được xây dựng từ cấp trung ương tới địa phương và định hướng chiến lược lâu dài. - Luật Bảo vệ Môi trường 2005 có những quy định cơ bản quan trọng về bảo vệ môi trường biển cùng với các luật khác có liên quan cũng có những quy định về bảo vệ môi trường biển tạo ra một khung pháp lý toàn diện về bảo vệ môi trường biển. - Các quy định chính sách và pháp luật trên góp phần nội luật hóa và thực hiện các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường biển mà Việt Nam đã tham gia. Trong đó, Luật Bảo vệ môi trường 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành có ý nghĩa trực tiếp và quan trọng nhất đến bảo vệ môi trường biển Việt Nam. Chính vì vậy, tác giả sẽ tập trung đi sâu vào các quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2005, các luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề bảo vệ môi trường biển. 2.1.2.1. Hệ thống chính sách bảo vệ môi trường Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội biển và bảo vệ môi trường biển Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Nhằm triển khai chủ trương trên của Đảng, Chính phủ thông qua Nghị quyết số 27/2007/NQCP ngày 30/5/2007 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Tiếp đó, hầu hết các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương ven biển đều ban hành Nghị quyết để triển khai Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 09/02/2007. Để xây dựng và thực hiện được các chiến lược nêu trên, một loạt các chính sách hỗ trợ cũng được ban hành trước đó như Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên- môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 phê duyệt bởi Quyết định số 47/2006/QĐ-TTg ngày 1/3/2006; Nghị định 101/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 về việc thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng dữ liệu tài nguyên, môi trường biển; Chương trình quản lý tổng hợp dải ven biển vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 phê duyệt bởi Quyết định 158/2007/QĐ-TTg ngày 9/10/2007; Kế hoạch quốc gia kiểm soát ô nhiễm môi trường đến năm 2010 ban hành kèm theo Quyết định 328/2005/QĐ-TTg ngày 12/12/2005, … 2.1.2.2. Các quy định về bảo vệ môi trường biển trong Luật Bảo vệ môi trường 2005 và các luật khác có liên quan Luật bảo vệ Môi trường 2005 xác định hoạt động bảo vệ môi trường biển gồm ba nội dung chính là: bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên biển; kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường biển và phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường trên biển. Gần đây nhất, Chính phủ đã ban hành quy chế quản lý các khu bảo tồn biển Việt Nam có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế ban hành kèm theo Nghị định 57/2008/NĐ-CP ngày 2/5/2008, quy định rõ về tiêu chuẩn phân loại, việc tổ chức quản lý, bảo vệ và phát triển các khu bảo tồn biển Việt Nam có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế; trách nhiệm của các Bộ, ngành và các địa phương. Tóm lại, trên bình diện quốc gia, Việt Nam đã có một hệ thống chính sách và pháp luật tương đối toàn diện về bảo vệ môi trường, trong đó có môi trường biển. Tuy nhiên, các quy định pháp luật vẫn luôn cần phải hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế. Nhất là cơ chế giải quyết các vấn đề bồi thường khi xảy ra ô nhiễm biển, việc xử phạt hành chính, truy tố, xét xử tội phạm trong lĩnh vực môi trường, vấn đề hợp tác quốc tế trong ứng phó, xử lý, khắc phục sự cố ô nhiễm môi trường biển, hợp tác quốc tế trong thực thi các công ước quốc tế, nội luật hóa các công ước…cần sớm được bổ sung, hoàn thiện và quy định trong các văn bản luật có giá trị pháp lý cao để tính thực thi được hiệu quả hơn. 2.2. Quy định của một số Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển 2.2.1. Công ước Luật biển 1982 Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 được đánh giá là một công cụ đặc biệt trong lĩnh vực bảo vệ và bảo tồn môi trường biển. Để bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, Công ước Luật biển 1982 yêu cầu: - Các quốc gia ven biển phải xác định các nguồn ô nhiễm của mình, áp dụng các biện pháp ngăn ngừa, kiểm soát chúng. Các quốc gia không được đùn đẩy thiệt hại của các nguy cơ ô nhiễm và không được thay thế một kiểu ô nhiễm này bằng một kiểu ô nhiễm khác. - Các quốc gia ven biển phải có trách nhiệm đưa ra các biện pháp chống lại ô nhiễm môi trường biển nảy sinh từ việc sử dụng các kỹ thuật trong khuôn khổ quyền tài phán hay dưới sự kiểm soát của mình, hoặc do du nhập cố ý hay vô tình các loài ngoại lai hoặc mới vào một bộ phận môi trường biển gây ra ở đó những thay đổi đáng kể và có hại và nó cũng bao gồm các ảnh hưởng hoặc các biện pháp trong việc bảo vệ hệ sinh thái hiếm hoi và đe dọa điều kiện cư trú của các loài sinh vật biển khác. - Các quốc gia được yêu cầu xây dựng các kế hoạch khẩn cấp chống ô nhiễm để đối phó với những tai nạn gây ra ô nhiễm biển trong các vùng biển thuộc quyền tài phán của họ. Các điều khoản về giám sát và đánh giá môi trường đặt các quốc gia có nghĩa vụ cần cố gắng hết sức mình trong việc giám sát và đánh giá các ảnh hưởng môi trường của các hoạt động biển được tiến hành dưới quyền tài phán của các quốc gia đó. Họ cũng có nghĩa vụ phải hành động phù hợp nhằm giảm bớt hay ngăn ngừa ô nhiễm có thể xảy ra từ các hoạt động như vậy. - Các luật, quy định và các biện pháp của các quốc gia thông qua không được kém hiệu quả hơn các nguyên tắc và quy phạm quốc tế hay các tập quán và thủ tục đã được kiến nghị có tính chất quốc tế. Các quốc gia phải quan tâm làm sao cho luật trong nước của mình có những hình thức tố tụng cho phép thu được sự đền bù nhanh chóng và thích đáng, hay sự bồi thường khác đối với những thiệt hại nảy sinh từ ô nhiễm môi trường biển do tự nhiên nhân, hay pháp nhân thuộc quyền tái phán của mình gây ra. - Các quốc gia cũng được yêu cầu bảo đảm cho tàu mang cờ nước họ, hoạt động ở trong nước cũng như ở ngoài nước, đáp ứng đầy đủ các luật lệ và tiêu chuẩn quốc tế thích hợp. Quốc gia mà tàu mang cờ được yêu cầu tiến hành điều tra mọi vi phạm luật lệ về ô nhiễm biển do tàu đó gây ra. Tất cả tàu thuyền được yêu cầu phải có chứng từ chứng minh điều kiện an toàn phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về thiết kế, đóng, trang bị và thuyền viên và tính hiệu quả của chúng trong ngăn ngừa, giảm bớt và kiểm soát ô nhiễm. Các quốc gia cần tiến hành kiểm tra định kỳ tàu thuyền mang cờ nước mình để bảo đảm rằng chúng đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Các quốc gia khi đặt các điều kiện đặc biệt cho tàu thuyền nước ngoài đi vào các cảng hay nội thủy của mình hoặc công trình cảng cuối cùng ở ngoài khơi, cần phải công bố đúng thủ tục về các điều kiện này và phải thông báo cho các tổ chức quốc tế có thẩm quyền. - Các quốc gia phải có nghĩa vụ thông báo cho các quốc gia khác về nguy cơ bị ô nhiễm lan tràn đến và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, để kịp thời có những biện pháp ngăn chặn và bảo vệ. - Các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia và các tổ chức quốc tế liên quan theo khả năng của mình, để loại trừ ảnh hưởng của ô nhiễm và ngăn ngừa và giảm đến mức tối thiểu những thiệt hại do ô nhiễm gây ra. 2.2.2. Công ước Marpol 73/78 về ngăn ngừa ô nhiễm biển do dầu gây ra Công ước này được thông qua vào ngày 02/11/1973 tại London, được bổ sung bằng Nghị định thư 1978 về cấm và hạn chế thải chất gây ô nhiễm từ việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, Công ước thường được gọi tắt là Công ước Marpol 73/78. Công ước có hiệu lực năm 1983 và hàng năm đều được sửa đổi bổ sung. Công ước gồm có 6 phụ lục và 2 Nghị định thư kèm theo. Mục tiêu của Công ước là kiểm soát, chế ngự và hạn chế tới mức thấp nhất việc thải các chất có hại xuống biển. Vì vậy, Công ước quy định nghiêm ngặt về ngăn ngừa ô nhiễm biển do dầu, các quy định về ngăn ngừa ô nhiễm biển do chất lỏng độc hại chở xô gây ra, các quy định về ngăn ngừa ô nhiễm biển do chất độc hại đóng trong bao gói, ô nhiễm do nước thải, rác thải từ tàu và các quy định về ngăn ngừa ô nhiễm không khí từ tàu. Ngoài ra, Công ước còn có các quy định về các tiêu chuẩn cho tàu vận chuyển các chất độc hại đóng gói; quy định các tiêu chuẩn về đóng tàu để giảm thiểu mức độ tràn dầu và hóa chất xuống biển; quy định về thanh tra, giám sát, chế độ báo cáo sự cố liên quan đến dầu và các chất độc hại khác… 2.2.3. Công ước về sẵn sàng ứng phó và hợp tác chống ô nhiễm dầu năm 1990 (OPRC) Mục tiêu của Công ước là giảm thiểu hậu quả của các sự cố ô nhiễm dầu lớn và thúc đẩy hợp tác quốc tế và sự trợ giúp lẫn nhau trong việc ứng phó với các sự cố ô nhiễm dầu lớn. Vì vậy, Công ước yêu cầu các quốc gia phải thiết lập hệ thống quốc gia ứng phó ngay lập tức và có hiệu quả các sự cố ô nhiễm dầu, trong đó có sự phân công trách nhiệm cho cơ quan, đơn vị cụ thể để ngăn ngừa, ứng phó với các sự cố. Công ước cũng đưa ra các tiêu chuẩn sẵn sàng ứng phó ô nhiễm dầu có tính bắt buộc cho tàu thuyền, các cảng, các thiết bị dẫn dầu và các thiết bị ngoài khơi. Ngoài ra, theo Công ước các quốc gia còn phải thiết lập hệ thống báo cáo các sự cố ô nhiễm dầu và nguy cơ ô nhiễm dầu và các quốc gia phải có nghĩa vụ trợ giúp, hợp tác quốc tế và khu vực để đấu tranh với các sự cố tràn dầu… 2.2.4. Công ước về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải nguy hại và việc tiêu hủy chúng (Basel 1989) Đây là Công ước điều chỉnh mọi hoạt động vận chuyển chất thải nguy hại giữa các quốc gia, trong đó có vận chuyển qua đường biển. Công ước này có hiệu lực vào năm 1992, Việt Nam là thành viên của Công ước Basel vào năm 1995. Mục tiêu của Công ước là giảm thiểu việc sản sinh các chất thải nguy hại thông qua việc kiểm soát nghiêm ngặt việc vận chuyển qua biên giới các chất này và mọi việc nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh, tiêu hủy các chất thải nguy hiểm phải được tiến hành theo một phương thức hợp lý, đúng quy định. Theo đó, Công ước quy định các quốc gia phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quốc tế liên quan đến bảo vệ môi trường, trong đó có môi trường biển và phải chịu trách nhiệm về vấn đề này trước luật pháp quốc tế; các quốc gia phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật và luật pháp để quản lý các chất thải nguy hại trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mình, đề phòng ô nhiễm môi trường và khắc phục nhanh chóng hậu quả nếu xảy ra ô nhiễm để không ảnh hưởng tới sức khỏe con người và môi trường; các quốc gia phải đảm bảo việc đóng gói, dán nhãn và vận chuyển các chất thải nguy hại và các chất khác phù hợp với các quy tắc và tiêu chuẩn chung. Đồng thời, các quốc gia phải có nghĩa vụ hợp tác quốc tế trong việc quản lý, xuất nhập khẩu và vận chuyển, tiêu hủy các chất thải nguy hại. Ngoài ra, Công ước còn đưa ra các nguyên tắc và phạm vi áp dụng Công ước để đảm bảo việc kiểm soát việc vận chuyển và tiêu hủy các chất thải nguy hại được thực hiện một cách nghiêm ngặt. 2.3. Quá trình Việt Nam gia nhập các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển 2.3.1. Các công ước Việt Nam đã gia nhập, ký kết Để ngăn chặn ô nhiễm, thực hiện bảo vệ môi trường biển chung, rất nhiều các văn bản pháp lý quốc tế về bảo vệ môi trường hoặc liên quan đến bảo vệ môi trường được cộng đồng quốc tế xây dựng và được các quốc gia ký kết, Việt Nam đã phê chuẩn các điều ước quốc tế khác nhau nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, ví dụ như: - Công ước Marpol 73/78 về ngăn chặn ô nhiễm biển do tàu gây ra (Việt Nam tham gia ngày 29/8/1991); - Công ước quốc tế về an toàn tính mạng trên biển SOLAS 1974 (Việt Nam tham gia ngày 18/3/1991); - Công ước Luật biển 1982 (Việt Nam tham gia ngày 16/11/1994); - Công ước về các quy tắc quốc tế phòng tránh đâm va trên biển COLREG 1972 (Việt Nam tham gia ngày 18/12/1990); - Công ước về tiêu chuẩn cấp chứng chỉ cho thuyền viên 1978/1995 (STCW) (Việt Nam tham gia ngày 18/3/1991); - Công ước về kiểm soát và vận chuyển xuyên biên giới các chất thải nguy hiểm và việc tiêu hủy chúng BASEL 1989 (Việt Nam tham gia ngày 11/6/1995); - Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu, 1969 (CLC 1969)… 2.3.2. Các Công ước Việt Nam đang xem xét để tham gia Các công ước quốc tế mà Việt Nam đang xem xét để tham gia bao gồm: - Công ước quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu, 1969. - Công ước quốc tế liên quan tới can thiệp vào các biểu vĩ độ cao trong trường hợp thiệt hại do ô nhiễm dầu, 1969. - Công ước về phòng ngừa ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác, 1971. - Công ước về phòng ngừa ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác, 1972. - Công ước quốc tế về bảo tồn các loài động vật hoang dã di cư, 1979. - Công ước quốc tế về sự sẵn sàng, ứng phó và hợp tác đối với ô nhiễm dầu năm 1990 (OPRC). 2.4. Thực trạng thực thi pháp luật và các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam 2.4.1. Tình hình thực thi các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển và nguyên nhân của thực trạng Thời gian qua, các quy định về bảo vệ môi trường biển cũng đã phát huy phần nào hiệu quả, nhờ sự nỗ lực của các cơ quan, bộ, ngành và người dân nên vấn đề ô nhiễm môi trường biển đang dần được giải quyết. - Các quy định của pháp luật đã góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn. - Bộ máy quản lý môi trường được củng cố và tăng cường từ trung ương đến địa phương. Tiềm lực về thiết bị cho công tác quan trắc và giám sát môi trường đã được tăng cường đáng kể ở cả cấp quốc gia và một số địa phương trên cả nước. - Giữa các cơ quan đã có sự phối hợp chặt chẽ với nhau để cùng bảo vệ môi trường biển. Ví dụ như trong công tác phối hợp chống tội phạm môi trường, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam vừa ra quyết định thực hiện quy chế phối hợp trong công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường giữa Tổng cục và Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường. Từ đây, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam có thêm sự "tiếp sức" của lực lượng cảnh sát môi trường trong công tác bảo vệ môi trường biển. Theo quy chế đã ký giữa các bên, lực lượng cảnh sát môi trường sẽ kết hợp cùng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam trên 6 lĩnh vực chính như: Cùng chủ động nghiên cứu, rà soát các văn bản quy định của pháp luật có liên quan để tham mưu bổ sung, sửa đổi kịp thời; cùng xây dựng nội dung và tuyên truyền giáo dục về pháp luật bảo vệ môi trường biển hải đảo cũng như công khai thông tin vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường biển, hải đảo; cùng có trách nhiệm giải quyết các vụ việc liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường biển; phối hợp thực hiện công tác thanh kiểm tra việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường biển tại các đơn vị sản xuất, địa phương có biển... - Nhận thức về môi trường biển và bảo vệ môi trường biển của các cấp, các ngành và người dân đã được nâng cao đáng kể thông qua các chương trình, các dự án trong và ngoài nước về nâng cao nhận thức môi trường cộng đồng… Tuy nhiên, dù đã có luật cũng như chính sách về bảo vệ môi trường biển, nhưng việc thực thi ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn và tiến hành khá muộn so với các nước khác. Những văn bản, chính sách này vẫn còn nhiều hạn chế như văn bản luật còn chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tế, bộc lộ những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện, hiệu lực thi hành thấp. Đồng thời, sự gắn kết với các công ước quốc tế liên quan còn mờ nhạt. 2.4.2. Tình hình thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển ở Việt Nam và nguyên nhân Đối với các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia thì Việt Nam luôn thực thi một cách tự nguyện, thiện chí, tích cực và rất cố gắng để đưa các quy định của công ước vào cuộc sống. Trong thời gian qua, việc nội luật hóa, xây dựng pháp luật thể chế, chính sách tại Việt Nam có rất nhiều tiến bộ. Những thiếu sót trong hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường biển đã được nỗ lực sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các cam kết quốc tế và luôn đảm bảo hiệu lực cao hơn của các quy định của công ước quốc tế so với các quy định trong pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam. Bên cạnh những kết quả đạt được nói trên, việc thực hiện điều ước quốc tế còn tồn tại một số bất cập: - Hệ thống chính sách pháp luật về môi trường của Việt Nam tuy đã đáp ứng yêu cầu về nội dung và số lượng nhưng vẫn còn chồng chéo, không rõ ràng. Bên cạnh đó, sự lồng ghép các chính sách kế hoạch của từng ngành có liên quan đến việc thực hiện các điều ước còn nhiều hạn chế. - Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý và cơ quan đầu mối trong việc thực hiện các nghĩa vụ của các điều ước còn chưa chặt chẽ, bên cạnh đó năng lực của cơ quan đầu mối còn hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. - Để thực hiện các điều ước hiệu quả đòi hỏi cần có sự chia sẻ thông tin liên quan đến điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc điều phối và trao đổi thông tin còn tản mạn ở nhiều đơn vị khác nhau, chưa có đơn vị đầu mối và chưa được tổ chức thành mạng lưới ở quy mô quốc gia. Mặt khác, các cơ chế hỗ trợ khác để thực hiện điều ước còn chưa đủ, ví dụ về nghiên cứu khoa học, giám sát, quan trắc thành phần môi trường, nguồn tài chính còn thiếu và sử dụng chưa hiệu quả. - Nhiều quy định trong các công ước chưa được nội luật hóa, thậm chí chưa được phổ biến, tuyên truyền để các cơ quan và người dân biết và thực hiện… Chương 3 HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG BIỂN 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường biển và một số kiến nghị Xuất phát từ tính cấp thiết của việc bảo vệ môi trường biển trong tình hình hiện nay đối với sự phát triển bền vững của đất nước và đối với sự sống của con người; cùng với sự hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay đòi hỏi Việt Nam phải hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật bảo vệ môi trường nói riêng. Việc hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực bảo vệ môi trường cần đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau: Thứ nhất, pháp luật bảo vệ môi trường biển cần thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế biển với bảo vệ, giữ gìn môi trường biển. Thứ hai, pháp luật bảo vệ môi trường biển cần được hoàn thiện theo hướng kiểm soát và quản lí tổng hợp biển. Thứ ba, hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường biển cần xuất phát từ thực trạng môi trường và tài nguyên biển, thực trạng về cơ sở hạ tầng và trình độ phát triển của Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế. Thứ tư, pháp luật bảo vệ môi trường biển cần được hoàn thiện theo hướng không xâm phạm quyền lợi hợp pháp của các quốc gia khác về tài nguyên và môi trường biển cũng như các hoạt động trên biển và cần thể hiện nội dung qui định của pháp luật quốc tế và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Thứ năm, việc hoàn thiện pháp luật cần được tiến hành đồng bộ với các biện pháp về hành chính, về kinh tế, về khoa học công nghệ, về tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức của người dân... Trên cơ sở đó xin đưa ra một số kiến nghị cụ thể sau: - Pháp luật bảo vệ môi trường biển Việt Nam chưa đưa ra được định nghĩa rõ ràng và cụ thể về môi trường biển và ô nhiễm môi trường biển. Để quản lý biển và bảo vệ môi trường biển tốt hơn, Việt Nam cần có nghiên cứu chuyên sâu và hoàn thiện kịp thời bất cập này. - Pháp luật bảo vệ môi trường biển Việt Nam cần bổ sung và hoàn thiện các quy định về quy chuẩn kỹ thuật, đánh giá tác động môi trường, các quy định về bảo vệ môi trường biển trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch…gắn liền với biển. - Cần bổ sung, ban hành các tiêu chuẩn về môi trường biển Việt Nam để tạo thuận lợi cho việc quản lý và thực thi pháp luật bảo vệ môi trường biển trong thực tiễn. - Cần bổ sung các quy định về phòng ngừa và khắc phục sự cố môi trường biển, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường biển như: các quy định về nguyên tắc trong phòng ngừa và khắc phục sự cố; quy định trách nhiệm cụ thể của cơ quan có thẩm quyền và trách nhiệm của các chủ thể khác đối với việc phòng ngừa và khắc phục sự cố môi trường biển…Hiện tại, về vấn đề này, pháp luật môi trường còn đang thiếu nhiều quy định về trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của người dân địa phương nơi xảy ra sự cố. Việc xã hội hóa công tác khắc phục và xử lí hậu quả của sự cố môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực môi trường biển sẽ góp phần tích cực vào việc giảm thiểu các hậu quả do sự cố này gây ra... - Bổ sung và hoàn thiện các quy định về kiểm soát ô nhiễm và quản lý các loại chất thải, khí thải như ban hành các qui định pháp luật cũng như các cơ quan quản lí nhà nước đối với việc quản lí chất lượng nước thải và dầu thải ra từ tàu tại cảng biển… - Bổ sung và hoàn thiện các quy định về bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên biển. Trong đó, cần giải quyết vấn đề chồng chéo, thiếu nhất quán, đồng bộ giữa các cơ quan quản lý, giữa các bộ ngành có liên quan; cần đảm bảo tính thống nhất giữa Luật Bảo vệ môi trường và các luật về tài nguyên… - Cần sửa đổi, bổ sung các luật hình sự, dân sự, luật hành chính, luật thanh tra, luật hàng hải, dầu khí… về các quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho các cơ quan có thẩm quyền có thể chủ động và linh hoạt trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt hành chính, xét xử tội phạm môi trường…Tăng cường hiệu lực, hiệu quả của việc chấp hành pháp luật, thực thi các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác bảo vệ môi trường biển; sửa đổi các quy định còn tồn tại về thời hiệu xử phạt, về mức xử phạt, về thẩm quyền xử phạt, về hoạt động giám sát sau xử phạt hành chính về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển; nội dung bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và phục hồi môi trường do ô nhiễm dầu cần phải được luật hóa một cách chi tiết đối với việc áp dụng trách nhiệm dân sự về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển trong các hoạt động như hoạt động hàng hải… - Cần sớm ban hành Luật Biển Việt Nam và Luật Tài nguyên môi trường biển và có cơ chế thực thi hiệu quả các luật này và cần phải có qui định Lực lượng giám sát tổng hợp tài nguyên biển là lực lượng thực thi pháp luật-giám sát tổng hợp trên các vùng biển Việt Nam. - Luật bảo vệ môi trường biển Việt Nam và các văn bản liên quan đến bảo vệ môi trường biển, phòng chống ô nhiễm biển đều ít có quy định cụ thể về hợp tác chung với các quốc gia trong khu vực để ngăn ngừa, hạn chế và kiểm soát các nguồn ô nhiễm xuyên biên giới. Luật Việt Nam cũng chưa có các quy định dành quyền áp dụng các biện pháp tự vệ bảo vệ môi trường biển của mình trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia- nơi các mối đe dọa và thiệt hại tiềm ẩn về môi trường biển xuất phát. - Cần hoàn thiện khung thể chế quản lý biển, bởi có quản lý tốt thì mới mang lại kết quả tốt. Đây cũng là bài học kinh nghiệm Việt Nam nên học tập các nước trên thế giới như Canada, Nhật Bản, Trung Quốc…Các nước này đều có chính sách quản lý biển rất hiệu quả. Chúng ta cần thành lập một cơ quan đầu mối về chính sách biển tập trung vào việc điều phối chính sách biển, giám sát quá trình kế hoạch phân vùng biển, xây dựng các chương trình, kế hoạch thực thi chính sách biển quốc gia, nghiên cứu biển liên quan đến phát triển và thực thi chính sách biển… 3.2. Tăng cường gia nhập các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, sự phát triển kinh tế đã tạo sức ép đối với việc sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường trong phạm vi từng quốc gia nói riêng và toàn cầu nói chung. Vì vậy, việc hợp tác về các vấn đề môi trường toàn cầu thông qua công cụ pháp luật với các điều ước quốc tế về môi trường là nhu cầu cần thiết đối với mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, việc tham gia thực hiện các điều ước quốc tế về môi trường là yêu cầu quan trọng và cần thiết trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Sự tham gia này thể hiện mong muốn và quyết tâm của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề về môi trường toàn cầu. Mặt khác, Việt Nam sẽ có cơ hội nhận được sự hỗ trợ quốc tế về kỹ thuật, tài chính góp phần bảo vệ và cải thiện môi trường trong nước, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội tốt để gia tăng các sức ép môi trường đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ. Buộc các doanh nghiệp phải cải thiện chất lượng môi trường trong sản xuất kinh doanh của mình để đáp ứng với các yêu cầu của nền kinh tế hội nhập. Mặt khác, ở góc độ nhà nước cũng phải hoàn thiện về khung pháp lý và thể chế trong lĩnh vực môi trường biển để đáp ứng được các đòi hỏi khắt khe của nền kinh tế hội nhập toàn cầu. Việc tham gia các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển trong tình hình hiện nay là điều cần thiết. Xuất phát từ điều kiện kinh tế- xã hội, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của Việt Nam, cũng như diễn biến của vấn đề ô nhiễm môi trường biển, những vấn đề đang nảy sinh, những vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường biển Việt Nam và các công ước quốc tế về lĩnh vực này, Việt Nam có thể nghiên cứu để tham gia một số công ước như: - Công ước quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu, 1969. - Công ước quốc tế liên quan tới can thiệp vào các biểu vĩ độ cao trong trường hợp thiệt hại do ô nhiễm dầu, 1969. - Công ước về phòng ngừa ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác, 1971. - Công ước về phòng ngừa ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác, 1972. - Công ước quốc tế về bảo tồn các loài động vật hoang dã di cư, 1979. - Công ước quốc tế về sự sẵn sàng, ứng phó và hợp tác đối với ô nhiễm dầu 1990 (OPRC). - Công ước quốc tế về các hệ thống chống hà của tàu năm 2001 (AFS 2001) - Công ước quốc tế về kiểm soát và quản lý nước dằn và cặn nước dằn tàu năm 2004 (BWM 2004) - Công ước quốc tế Hồng Kông về tái sinh tàu an toàn, thân thiện môi trường năm 2009 (SR 2009)… Để các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển được thực thi có hiệu quả tại Việt Nam trong giai đoạn tới cần tập trung vào thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học và ngăn ngừa kiểm soát ô nhiễm biển. Thứ hai, xây dựng lộ trình tham gia và thực hiện của Việt Nam đối với một số công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển trong khu vực và toàn cầu. Thứ ba, củng cố, nâng cao năng lực thực hiện công ước quốc tế của cơ quan đầu mối. Thứ tư, tăng cường trao đổi và hình thành cơ chế trao đổi thông tin, phổ biến kiến thức về các công ước quốc tế. Thứ năm, nâng cao nhận thức về môi trường và việc thực hiện các quy định pháp luật có liên quan đến các công ước quốc tế về môi trường biển trong cộng đồng quản lý và công chúng. Cuối cùng, tăng cường hợp tác quốc tế, trao đổi, học tập kinh nghiệm nghiên cứu với các nước, đặc biệt trong khuôn khổ ASEAN và chuyên gia nước ngoài về thực hiện các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển. KẾT LUẬN Hiện nay, trước sức ép do dân số tăng nhanh, nhu cầu phát triển kinh tế ngày càng cao trong bối cảnh nguồn tài nguyên từ đất liền đang dần cạn kiệt thì xu hướng tiến ra biển, mở rộng ranh giới ra biển, khai thác biển, làm giàu từ biển ngày càng được các quốc gia đẩy mạnh tiến hành. Nhưng thường đi kèm với đó lại là các phương thức khai thác thiếu tính bền vững; các hoạt động khai thác chủ yếu chỉ tập trung vào các mục tiêu phát triển kinh tế để đạt được các mong muốn tối đa, trong khi xem nhẹ công tác bảo vệ môi trường, hoặc không có hoặc thiếu những qui hoạch, kế hoạch chi tiết, cụ thể, cùng với cơ chế quản lý lỏng lẻo của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu với các biểu hiện chính là sự gia tăng mực nước biển và nhiệt độ của trái đất, vấn đề khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển ở nhiều khu vực, quốc gia ngày càng đứng trước nhiều thách thức, nhiều nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, môi trường biển nhiều nơi bị ô nhiễm đến mức báo động, gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng, cản trở sự phát triển kinh tế- xã hội của nhiều quốc gia. Việt Nam cũng là một trong số các quốc gia đó. Thời gian qua, vấn đề bảo vệ môi trường biển đã trở thành vấn đề nóng bỏng và cấp thiết, rất nhiều công trình nghiên cứu, bài báo trên các trang báo in, báo mạng, các luận văn, luận án đề cập đến vấn đề này. Đảng và Nhà nước ta thực sự quyết tâm trong việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường biển. Rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, sửa đổi cho phù hợp với thực tế, nhiều đề án, chiến lược, hội thảo về bảo vệ môi trường biển được xây dựng, tổ chức... Có sự phối hợp giữa các ban ngành, có sự ủng hộ và góp sức của người dân. Cùng với đó vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường biển được đẩy mạnh, vấn đề gia nhập, thực thi các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển được chú trọng… Môi trường biển nước ta phần nào đã được cải thiện. Tuy vậy, Việt Nam đang thực hiện chiến lược phát triển biển đến năm 2020, thiết nghĩ chúng ta phải nâng tầm nhìn về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển không chỉ 10 năm hay 20 năm mà cả một thế hệ sau. Để hướng tới phát triển bền vững và để kinh tế biển trở thành thế mạnh của Việt Nam như Chiến lược biển đến năm 2020 đã xác định thì trong thời gian tới, Việt Nam cần tích cực hơn nữa, quyết tâm và mạnh tay hơn nữa trong việc giữ gìn, bảo vệ môi trường biển. Cần tiếp tục rà soát các văn bản pháp luật đã ban hành để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về môi trường biển, nâng cao ý thức người dân, lấy con người làm trọng tâm trong công tác bảo vệ môi trường biển, kêu gọi sự hợp tác, giúp đỡ, đầu tư từ các quốc gia phát triển, học tập kinh nghiệm từ các quốc gia có chính sách quản lý biển hiện đại, có biện pháp bảo vệ môi trường biển hiệu quả và quan trọng là cần quan tâm nhiều hơn nữa đến vấn đề gia nhập và thực thi các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển... References 1. ASEAN (1985), Hiệp định về bảo tồn thiên nhiên và các tài nguyên thiên nhiên. 2. Bộ Giao thông Vận tải (2005), Quyết định số 49/2005/QĐ-BGTVT ban hành quy tắc, phòng ngừa đâm va tàu trên biển, Hà Nội. 3. Bộ Giao thông Vận tải (2010), Thông tư số 13/2010/TT-BGTVT ngày 07/6 quy định về quản lý các nhiệm vụ môi trường trong ngành Giao thông vận tải, Hà Nội. 4. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1996), Thông tư số 2592/Mtg ngày 12/11 về kiểm soát ô nhiễm biển do tàu thuyền và phương tiện vận chuyển đường sông, Hà Nội. 5. Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2010), Thông tư liên tịch số 45/2010/TTLTBTC-BTNMT ngày 30/3 hướng dẫn về việc quản lý kinh phí sự nghiệp môi trường, Hà Nội. 6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT ngày 26/12 hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại, Hà Nội. 7. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2010), Thông tư số 39/2010/TT-BTNMT ngày 16/12 quy định Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường, Hà Nội. 8. Bộ Thương mại - Bộ Tài nguyên và Môi trường - Bộ Giao thông Vận tải (2005), Thông tư liên tịch số 12/2005/TTLT/BTM-BTNMT-BGTVT về hướng dẫn điều kiện an toàn môi trường biển đối với hoạt động cung ứng dầu cho tàu biển, Hà Nội. 9. Chính phủ (1997), Nghị định số 91/1997/NĐ-CP của Chính phủ ban hành Tiêu chuẩn Việt Nam, Hà Nội. 10. Chính phủ (1998), Nghị định số 39/NĐ-CP ngày 10/6 về xử lý tài sản chìm đắm ở biển, Hà Nội. 11. Chính phủ (1999), Quy chế quản lý chất thải nguy hại (ban hành kèm theo Quyết định 155/1999/QĐ-TTg ngày 16/7/1999), Hà Nội. 12. Chính phủ (2000), Nghị định số 48/2000/NĐ-CP ngày 12/9 quy định chi tiết thi hành Luật Dầu khí, Hà Nội. 13. Chính phủ (2001), Quyết định số 129/2001/QĐ-TTg ngày 29/8 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch quốc gia ứng phó sự cố tràn dầu giai đoạn 2001- 2020, Hà Nội. 14. Chính phủ (2006), Nghị định số 71/2006/NĐ-CP ngày 25/7 về quản lý cảng biển và luồng hàng hải, Hà Nội. 15. Chính phủ (2006), Nghị định số 62/2006/ND-CP ngày 21/6 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực hàng hải, Hà Nội. 16. Chính phủ (2006), Nghị định 80/2006/NĐ-CP về việc hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội. 17. Chính phủ (2007), Nghị định số 81/2007/NĐ-CP ngày 23/5 về việc quy định tổ chức, chuyên môn bảo vệ môi trường tại cơ quan nhà nước và noanh nghiệp nhà nước, Hà Nội. 18. Chính phủ (2007), Nghị định số 101/2007/NĐ-CP ngày 13/6 về việc thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng dữ liệu tài nguyên, môi trường biển, Hà Nội. 19. Chính phủ (2007), Nghị định số 115/2007/NĐ-CP ngày 5/7 về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển, Hà Nội. 20. Chính phủ (2007), Quyết định số 158/2007/QĐ-TTg ngày 9/10 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình quản lý tổng hợp dải ven biển vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 21. Chính phủ (2009), Nghị định số 35/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra tài nguyên và môi trường, Hà Nội. 22. Chính phủ (2009), Nghị định số 25/2009/NĐ-CP ngày 06/3 về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo, Hà Nội. 23. Chính phủ (2010), Nghị định số 113/2010/NĐ-CP về việc quy định xác định thiệt hại môi trường, Hà Nội. 24. Chính phủ (2012), Nghị định số 21/2012/NĐ-CP ngày 21/3 về quản lý cảng biển và luồng hàng hải, Hà Nội. 25. Cục Bảo vệ môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Chương trình hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường đến 2010 và định hướng đến 2020, Hà Nội. 26. Nguyễn Bá Diến (2008), "Tổng quan pháp luật Việt Nam về phòng, chống ô nhiễm dầu ở các vùng biển", Khoa học, (24), tr.224-238. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội. 28. Nguyễn Thu Hà (2006), "Công ước Marpol 73/78 với các nguyên tắc ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển từ tàu biển", Nhà nước và pháp luật, (8), tr. 77-83. 29. Liên hợp quốc (1969), Công ước quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan