Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quan hệ gia đình trong cái nhìn so sánh giữa ca dao nam bộ và ca dao bắc bộ...

Tài liệu Quan hệ gia đình trong cái nhìn so sánh giữa ca dao nam bộ và ca dao bắc bộ

.PDF
105
87
86

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ PHƯƠNG THẢO QUAN HỆ GIA ĐÌ NH TRONG CÁI NHÌN SO SÁNH GIỮ A CA DAO NAM BỘ VÀ CA DAO BẮC BỘ LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn ho ̣c dân gian HÀ NỘI - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ PHƯƠNG THẢO QUAN HỆ GIA ĐÌ NH TRONG CÁI NHÌN SO SÁNH GIỮ A CA DAO NAM BỘ VÀ CA DAO BẮC BỘ LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn ho ̣c dân gian Mã số: 60 22 36 HÀ NỘI - 2013 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG .................................... 7 1.1. Giới thuyết các khái niệm ........................................................................ 7 1.1.1. Gia đình và gia đình Việt Nam truyền thống......................................... 7 1.1.2. Ca dao và dân ca ................................................................................. 10 1.1.3. Vùng văn hóa ..................................................................................... 13 1.2. Vùng văn hóa Bắc Bộ ............................................................................ 13 1.2.1. Ranh giới địa lý, hành chính ............................................................... 13 1.2.2. Đặc điểm lịch sử, tự nhiên, xã hội....................................................... 14 1.2.3. Đặc điểm văn hóa, nghệ thuật ............................................................. 16 1.2.4. Đặc điểm tín ngưỡng, lễ hội................................................................ 17 1.3. Vùng văn hóa Nam Bộ .......................................................................... 20 1.3.1. Ranh giới địa lý, hành chính .............................................................. 20 1.3.2. Đặc điểm lịch sử, tự nhiên, xã hội....................................................... 21 1.3.3. Đặc điểm tín ngưỡng, lễ hội................................................................ 23 1.3.4. Đặc điểm văn học, nghệ thuật ............................................................. 24 Chương 2: SO SÁNH NỘI DUNG CÁC BÀI CA DAO QUAN HỆ GIA ĐÌNH TRONG CA DAO BẮC BỘ VÀ CA DAO NAM BỘ .................... 27 2.1. Trình bày sự giống và khác nhau ........................................................... 27 2.1.1. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái ................................................... 28 2.1.2. Mối quan hệ vợ chồng ........................................................................ 41 2.1.3. Mối quan hệ anh em ........................................................................... 54 2.2. Giải thích nguyên nhân sự giống nhau và khác nhau ............................. 58 2.2.1. Do điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội ................................................. 58 2.2.2. Do giao lưu và ảnh hưởng văn hóa ..................................................... 60 2.2.3. Do đặc trưng thể loại .......................................................................... 61 6 Chương 3: SO SÁNH NGHỆ THUẬT CA DAO VỀ QUAN HỆ GIA ĐÌNH TRONG CA DAO BẮC BỘ VÀ CA DAO NAM BỘ .................... 63 3.1. Trình bày sự giống và khác nhau ........................................................... 63 3.1.1. Về thể thơ ........................................................................................... 63 3.1.2. Về ngữ nghĩa ( văn bản tạo hình và biểu hiện) .................................... 67 3.1.3. Cách dùng phương ngữ ....................................................................... 69 3.1.4. Cách dùng từ gốc Hán và điển tích, điển cố Hán ................................ 74 3.1.5. Sử dụng lối so sánh............................................................................. 81 3.1.6. Sử dụng lối diễn đạt thậm xưng, ngoa dụ ............................................ 83 3.1.7. Cách dùng biểu tượng, hình ảnh ......................................................... 84 3.2. Giải thích sự giống nhau và khác nhau .................................................. 88 3.2.1. Do điều kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử, văn hóa ................................... 88 3.1.2. Do giao lưu và ảnh hưởng văn hóa ..................................................... 90 3.1.3. Do đặc trưng thể loại .......................................................................... 91 KẾT LUẬN ................................................................................................. 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 95 7 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT : Giáo sư 1. GS. 2. KTCD: Kho tàng ca dao người Việt 3. H 4. LBBT : Lục bát biến thể 5. Nxb 6. PGS. : Phó giáo sư 7. TS. : Tiến sĩ 8. tr. : Trang 9. VHGD : văn học dân gian : Hà Nội : Nhà xuất bản 5 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 2.1. Bảng thống kê các mối quan hệ gia đình trong cuốn Kho tàng ca dao người Việt [24] ............................................................................................. 27 2.2. Bảng phân loại ca dao theo chủ đề qua khảo sát cuốn Kho tàng ca dao người Việt[24] .............................................................................................. 28 3.1.Bảng sơ đồ vị trí tiếng bắt vần của thể thơ lục bát .................................. 63 8 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ca dao là hình thức văn hóa dân gian phổ biến trong đời sống tinh thần của người Việt. Có thể nói rằng thấu hiểu ca dao là thấu hiểu tâm hồn người Việt Nam. Từ hàng ngàn năm trước, ca dao đã thay tiếng tâm tình, thay tiếng than, thay lời vui sướng, thay lời đồng cảm để bày tỏ những xúc cảm, nghĩ suy, tâm tư của nhân dân. Chính vì thế, ta có thể thấy người Việt đã phản ánh trong ca dao tất cả những vấn đề của đời sống thường nhật cũng như tất cả các sắc thái của đời sống tinh thần của mình. Cuộc sống của người Việt là cuộc sống gắn bó với làng xóm, gia đình trong một mối quan hệ thân tộc bền chặt và thủy chung do vậy bộ phận những bài ca dao về quan hệ gia đình đã chiếm một số lượng lớn và đóng vai trò khá quan trọng trong gương mặt ca dao Việt Nam. Ca dao là một phần của văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian cũng bị quy định bởi sự khác biệt vùng miền địa lý. Người Việt ở khắp nơi trên đất nước đều cất giữ những câu ca riêng về quan hệ gia đình nên những câu ca dao này vô cùng phong phú và mang sắc thái vùng miền rõ nét. Ở đây người viết xin được xét tới dấu ấn vùng miền đó ở hai vùng đất rộng lớn ở hai đầu đất nước là Nam Bộ và Bắc Bộ. Nam Bộ và Bắc Bộ ngoài việc là hai vùng đất quan trọng góp phần tạo nên lãnh thổ Việt Nam còn là hai vùng văn hóa với những màu sắc riêng biệt do vậy giữa hai miền đất này, ca dao về quan hệ gia đình ngoài những điểm tương đồng còn có các nét khác biệt. Tương đồng là do bản chất chung của quá trình sáng tạo folklore của nhân dân, do nền tảng tình cảm và các giá trị đạo đức chung của dân tộc, do sự giao lưu tiếp biến văn hóa. Khác biệt là do sự quy định của bản sắc văn hóa riêng của từng miền, do điều kiện địa lý, lịch 1 sử tự nhiên. Thông qua việc so sánh quan hệ gia đình trong ca dao Nam Bộ và ca dao Bắc Bộ, luận văn muốn chỉ ra màu sắc đặc trưng của ca dao hai miền, cho thấy cái nhìn cụ thể về cách ứng xử của người Việt với các thành viên trong gia đình. Qua đó, luận văn mong muốn góp phần vào việc nhận thức tính thống nhất trong sự đa dạng của ca dao cũng như của văn hóa Việt Nam truyền thống. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Quan hệ gia đình trong ca dao là vấn đề đã nhận được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu thông qua nhiều công trình sưu tầm, biên soạn với nhiều thành tựu đáng được ghi nhận. Tiêu biểu trong số đó phải kể tới cuốn Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình [29] của tác giả Phạm Việt Long. Đây là một công trình nghiên cứu chuyên biệt với đối tượng là tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình. Tác giả đã có những khảo sát, thống kê khách quan, thận trọng dựa trên khối lượng tư liệu đồ sộ, phong phú và đa dạng. Đối với những chủ đề khác nhau của quan hệ gia đình, tác giả lại có sự thống kê cụ thể và chi tiết. Thậm chí trong cùng một chủ đề ví dụ như mối quan hệ vợ chồng, tác giả cũng có sự thống kê riêng đối với những bài nói về vợ chồng cùng lao động, vợ đợi chồng đi chinh chiến, lời than của người vợ .v.v. Tác giả cũng đồng thời có những lí giải rất cặn kẽ về sự phân chia chủ đề đó dựa trên sự tìm hiểu về nền tảng văn hóa và điều kiện lịch sử của xã hội Việt Nam. Công trình của tác giả Phạm Việt Long đã cho thấy một cái nhìn tổng quan về quan hệ gia đình trong ca dao và đã tập hợp được nguồn tư liệu quý báu về các bài ca dao có chủ đề trên để người đọc có thể dễ dàng tham khảo. Tục ngữ ca dao về quan hệ gia đình [29] được xây dựng dựa trên việc khảo sát một công trình dày dặn và chuyên biệt khác về ca dao là cuốn Kho tàng ca dao người Việt [24] do Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật đồng chủ biên (tái bản năm 2001). Cuốn sách này đã tổng kết khối lượng tư liệu về 2 dân ca, ca dao của 40 cuốn sách (gồm 49 tập) đã được biên soạn từ cuối thế kỉ XVIII đến năm 1975. Những bài ca dao về quan hệ gia đình trong công trình này đã được Phạm Việt Long thống kê là có 1.179 đơn vị trên tổng số 11.825 đơn vị của toàn cuốn sách. Trên đây là một số các công trình có lịch sử vấn đề nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn ở phương diện quan hệ gia đình trong ca dao. Nhưng sự phân chia các câu ca dao về quan hệ gia đình trong ca dao hai miền Nam Bắc thì chưa có công trình cụ thể nào đề cập tới một cách chi tiết. Chúng ta chỉ có thể dựa trên tư liệu là những tập ca dao Bắc Bộ và Nam Bộ đã được biên soạn. Tuy nhiên, với ca dao Bắc Bộ, chúng ta cũng chưa thực sự có công trình nào sưu tập, biên soạn đầy đủ, có hệ thống mà chủ yếu là những tập ca dao riêng lẻ của từng địa phương như Văn học dân gian Thái Bình [11], Ca dao tục ngữ Nam Hà [10], Ca dao ngạn ngữ Hà Nội [12]… Còn về ca dao Nam Bộ thì cuốn Ca dao dân ca Nam Bộ [16] của tác giả Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị là một công trình tiêu biểu, có thể coi là nguồn tư liệu dồi dào về ca dao, dân ca Nam Bộ. Các công trình trên được biên soạn, sắp xếp theo chủ đề và chủ đề về quan hệ gia đình đã cho thấy số lượng đáng kể cũng như vị trí của nó trong diện mạo ca dao của cả hai miền. Đặc biệt, với cuốn Ca dao dân ca Nam Bộ [16] ngoài việc chỉ ra được những đặc điểm vùng miền đặc sắc cũng như tính cách Nam Bộ trong các bài ca dao, các tác giả khi đi tìm đặc trưng của ca dao Nam Bộ đã đều có sự so sánh, sự đối chiếu ca dao Nam Bộ với ca dao của những vùng miền khác trên đất nước. Sự so sánh này đã phần nào mở ra được hướng tiếp cận ca dao về quan hệ gia đình của hai miền Nam Bắc trên phương diện sắc thái địa phương. “Khác với ca dao, dân ca các miền khác, ca dao, dân ca Nam Bộ thể hiện niềm thương, nỗi nhớ, thể hiện tình yêu một cách bộc trực, tự nhiên hơn.” [16, tr44] 3 Việc so sánh để tìm hiểu sắc thái riêng của ca dao các vùng miền khác nhau đã được sử dụng trong khá nhiều công trình nghiên cứu ví dụ như luận án Tính thống nhất và sắc thái riêng trong ca dao người Việt ba miền Bắc, Trung, Nam [28] của Trần Thị Kim Liên hay bài nghiên cứu của Nguyên Phương Châm là Sự khác nhau giữa ca dao người Việt ở xứ Nghệ và xứ Bắc trên tạp chí Văn hóa dân gian năm 1997 [6]. Các công trình nghiên cứu trên đều có được những tổng kết chung về tính cách của các vùng miền thể hiện trong ca dao, đặc biệt là về phương diện hình thức thể hiện tâm tư tình cảm. Theo đó, hai tác giả đều cho rằng tình cảm trong ca dao Bắc Bộ thường được thể hiện bóng gió, sử dụng hình ảnh xa xôi, mượt mà, êm dịu, tế nhị. Trong khi tình cảm trong ca dao xứ Nghệ thì được thể hiện quyết liệt, bộc trực, thẳng thắn còn tình cảm trong ca dao Nam Bộ thì lúc dễ thương, dịu dàng khi lại mạnh mẽ và tếu táo. Luận án Tính thống nhất và sắc thái riêng trong ca dao người Việt ở ba miền Nam, Trung, Bắc [28] của Trần Thị Kim Liên là một công trình khá đầy đủ so sánh ca dao ba miền trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Chủ đề tình cảm gia đình cùng với chủ đề yêu nước và tình yêu đôi lứa là một trong ba chủ đề chính được xem xét, đối chiếu kĩ lưỡng và tỉ mỉ nhất. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Mục đích Nam Bộ và Bắc Bộ là hai vùng văn hóa lớn của Việt Nam. Ca dao của hai vùng đất này vừa mang những đặc điểm chung của ca dao người Việt, vừa mang những đặc điểm văn hóa vùng miền riêng của mình. Việc so sánh quan hệ gia đình trong ca dao Nam Bộ và ca dao Bắc Bộ ở đây không thể chỉ ra sự hơn kém mà nhằm chỉ ra sự tương đồng và khác biệt. Chúng tôi sẽ thống kê, phân tích và so sánh để tìm ra sự tương đồng, khác biệt của ca dao về quan hệ gia đình giữa hai miền Nam, Bắc qua những mối quan hệ gia đình chính. Qua đó chỉ ra tính cách riêng biệt, độc đáo của người dân hai miền cũng như những sắc thái văn hóa đặc sắc của hai vùng đất Nam Bộ và Bắc Bộ. 4 - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là quan hệ gia đình với ba mối quan hệ chính là quan hệ vợ - chồng, quan hệ cha mẹ - con cái và quan hệ anh em trong ca dao về quan hệ gia đình của Nam Bộ và Bắc Bộ. Với đề tài Quan hệ gia đình trong cái nhìn so sánh giữa ca dao Nam Bộ và ca dao Bắc Bộ, phạm vi nghiên cứu rất rộng với đối tượng là ba mối quan hệ gia đình chính của người Việt ở Nam Bộ và Bắc Bộ. Tương ứng với ba mối quan hệ này là những đặc điểm nội dung và hình thức thể hiện giống và khác nhau với những sắc thái rất đa dạng của ca dao hai miền. Do vậy, trong khuôn khổ của luận văn này chúng tôi xin được so sánh dựa trên một số nội dung cơ bản và hình thức chủ yếu của những bài ca dao cổ truyền về quan hệ gia đình của Nam Bộ và Bắc Bộ. Phạm vi tư liệu khảo sát trong luận văn chủ yếu:  Cuốn Kho tàng ca dao người Việt (Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật đồng chủ biên [24])  Cuốn Ca dao dân ca Nam Bộ (Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị biên soạn [16])  Cuốn Tục ngữ và ca dao về quan hệ gia đình ( Phạm Việt Long [29]) 4. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, chứng minh, so sánh đồng thời có sự tiếp cận với những kiến thức về địa lý, lịch sử, văn hóa cũng như tiếp thu những thành tựu từ các công trình của các nhà nghiên cứu đi trước. 5. Bố cục luận văn Mở đầu Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung 5 Chương 2: So sánh nội dung các bài ca dao về quan hệ gia đình trong ca dao Nam Bộ và Bắc Bộ. Chương 3: So sánh nghệ thuật các bài ca dao về quan hệ gia đình trong ca dao Nam Bộ và Bắc Bộ. Kết luận Tài liệu tham khảo 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG 1.1. Giới thuyết các khái niệm 1.1.1. Gia đình và gia đình Việt Nam truyền thống Khái niệm gia đình: Gia đình là một tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa - xã hội đặc thù được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, qua hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một hình ảnh thu nhỏ cơ bản nhất của xã hội. Gia đình hình thành từ sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài đóng một vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng nhân cách con người, phát triển kinh tế, xã hội, phản ánh sự vận động của cộng đồng và quốc gia trong tiến trình lịch sử. Gia đình Việt Nam theo truyền thống có lẽ nên được hiểu theo nghĩa rộng chứ không phải là một gia đình gồm hai thế hệ cha mẹ và con cái. Theo cách hiểu của học giả Đào Duy Anh thì gia đình của người Việt chỉ những người thân thuộc trong một nhà. Gia đình Việt Nam truyền thống là gia đình của ông bà, cha mẹ, con cái, của anh chị em và thậm chí còn được mở rộng ra với những người trong cùng họ tộc. Những người có quan hệ huyết thống trong xã hội xưa cũng thường có khuynh hướng tụ tập sống chung với nhau trong cùng một khu vực để nương tựa và chia sẻ với nhau. Có lẽ vì vậy, mối quan hệ anh em thân tộc cũng quan trọng không kém bất kì mối quan hệ gia đình nào khác. Tục ngữ Việt Nam có câu “Một giọt máu đào hơn ao nước lã” cũng là để phản ánh sự tôn trọng, sự đề cao mối quan hệ gia đình mang nghĩa “rộng”, mang tính huyết thống này. Tác giả Toan Ánh trong cuốn Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình đã giới thiệu tóm tắt về thành phần 7 gia đình Việt Nam như sau “Qua các thành phần trên cho thấy rằng gia đình Việt Nam bao quát rất rộng và mọi người đều có tình thân thuộc với nhau qua mọi thế hệ không kể bởi nội, ngoại, nhiều khi là cả hai bên nội ngoại” Người Việt luôn luôn nhìn nhận gia đình với một giá trị rất cao trong đời sống tinh thần của mình do vậy tất cả mọi vấn đề của người Việt đều liên quan tới gia đình kể cả là danh dự của một cá nhân thành viên trong gia đình đó. Bởi lẽ hành vi và danh dự của cá nhân đó cũng được coi là mang lại sự vinh dự hay mối nhục cho gia đình. Các cá nhân trong gia đình luôn hi sinh để bảo vệ và xây đắp cho gia đình mình. Có thể vì thế mà người Việt luôn trung thành với gia đình mình, gắn bó với gia đình mình, lo lắng cho hạnh phúc của gia đình hơn là hạnh phúc của cá nhân. Từ đó hình thành nên trong mối quan hệ gia đình những quy định đạo đức, bổn phận và tình cảm mà các thành viên luôn tâm niệm như lòng hiếu nghĩa, sự thủy chung, sự sẻ chia… Có thể nói với người Việt gia đình hầu như là tất cả vì đó là trung tâm đời sống của cá nhân, là nơi cá nhân nương tựa để phát triển. Xã hội Việt nam cổ truyền được chia thành 4 thành phần chính là sĩ, nông, công thương nhưng tiêu biểu nhất là hai thành phần nông và sĩ. Do vậy, trong xã hội cũng tồn tại hai loại gia đình chính là gia đình nhà Nho và gia đình nông dân hay gia đình quan hộ và dân hộ. Trong khi gia đình nông dân là kiểu gia đình sản xuất tự túc, đóng góp cho xã hội bằng thành quả lao động thì gia đình nhà Nho là kiểu gia đình hướng các thành viên theo đuổi con đường khoa cử, đóng góp cho xã hội bằng cách xây dựng nền nếp trong nhà cũng như trong xã hội. Sự phân chia này dựa trên một đặc điểm tiêu biểu của văn hóa gia đình Việt Nam cổ truyền là việc chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo. Sự ảnh hưởng này kéo dài và liên tục trong lịch sử cho tới tận khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp và bắt đầu quá trình Âu hóa. Song như PGS. Trần Đình Hượu đã đề cập tới trong Gia đình truyền thống Việt Nam với 8 ảnh hưởng Nho giáo thì khi tìm hiểu ảnh hưởng của Nho giáo với gia đình truyền thống Việt Nam “không nên chỉ căn cứ vào lý thuyết Nho giáo mà nên nhìn gia đình trong thể chế chính trị- kinh tế- xã hội tổ chức và quản lý theo Nho giáo, bị điều kiện hóa trong thể chế đó mà vận động, phát triển”. Ảnh hưởng đó cũng khác đi tùy thời kỳ, tùy từng vùng và từng loại gia đình khác nhau. Đi sâu vào tính chất của gia đình Việt cổ truyền có thể thấy một đặc điểm tiêu biểu nữa là tính chất phụ quyền của gia tộc Việt. Tính chất phụ quyền này nhấn mạnh quyền uy tối cao của người cha với con cái, của người chồng đối với người vợ, của người con trai với toàn gia đình đặc biệt là người con trai trưởng. Người đàn ông có vai trò quan trọng và là người duy nhất có quyền quyết định trong gia đình cũng như đại diện cho gia đình trong mối quan hệ với cộng đồng, làng xã. Trong nhiều năm, dưới nền giáo dục Nho giáo, tính chất phụ quyền này càng được đề cao và tô đậm. Song nói như vậy không có nghĩa là với ảnh hưởng của Nho giáo, mẫu hình gia đình Việt Nam truyền thống là mẫu hình “sao chép” của gia đình Trung Quốc. Bên cạnh một số tư tưởng Nho giáo như “xuất giá tòng phu”, “tam tòng tứ đức”… đã trở thành những quy chuẩn đạo đức mà các thành viên trong gia đình phải tuân thủ chặt chẽ đặc biệt là với các gia đình truyền thống ở Bắc Bộ thì với điều kiện kinh tế và xã hội khác biệt, gia đình Việt Nam truyền thống đã phát triển những đặc điểm của riêng mình, phân biệt hoàn toàn với gia đình truyền thống của Trung Quốc. Gia đình truyền thống Việt Nam thường có quy mô nhỏ hơn, không coi trọng vấn đề đại tộc như một yếu tố so sánh, phân biệt đẳng cấp với các gia đình khác, gìn giữ cách xưng hô thân mật, nhấn mạnh tính cộng đồng hơn là nhấn mạnh tuyệt đối họ tộc như gia đình Trung Quốc. Những đặc điểm trên là những đặc điểm chung của gia đình Việt Nam cổ truyền mà giá trị của nó rất nhiều các thế hệ người Việt đã cùng nhau gìn 9 giữ. Với hai vùng văn hóa Bắc Bộ và Nam Bộ thì những đặc điểm này đã có những thay đổi để phù hợp với tính cách của người dân cũng như phù hợp với điều kiện lịch sử, địa lý riêng của hai vùng đất. Thông qua việc tìm hiểu về tổ chức và tính chất gia đình Việt Nam truyền thống, chúng ta có thể có sự đối chiếu, so sánh với các hình mẫu gia đình mà ca dao Nam Bộ và Bắc Bộ phản ánh. 1.1.2. Ca dao và dân ca Ca dao là một thể loại văn học dân gian, có tính trữ tình, có vần điệu (phần lớn là thể lục bát hoặc lục bát biến thể) do nhân dân sáng tạo và lưu truyền qua nhiều thế hệ, dùng để miêu tả, tự sự, ngụ ý và chủ yếu diễn đạt tình cảm. Nhiều câu ca dao vốn là lời của những bài dân ca. Vào giai đoạn muộn về sau, ca dao cũng được sáng tác độc lập. Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính trong sách Thi pháp ca dao [26] thì sinh hoạt ca hát của người Việt có từ rất sớm. Người Việt xưa chưa có những tên gọi có tính chất khái quát cao mà thường dùng những từ chỉ những hiện tượng ca hát cụ thể như ví, hò, hát, hát trống quân, hát xoan, hát ghẹo, hát phường vải, hát ru, hò giã gạo, hò mái đẩy, lí tương tư, lí ngựa ô, lí chim quyên… Cách gọi “phong dao”, “ca dao” đã được biết đến từ đầu thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX trong các sách quốc ngữ được xuất bản đầu thế kỷ XX. Tên gọi “phong dao” xuất hiện lần đầu tiên bằng chữ quốc ngữ năm 1928 trong cuốn Tục ngữ phong dao do Nguyễn Văn Ngọc biên soạn, Nxb Vĩnh Hưng Long. Từ “ca dao” xuất hiện lần đầu bằng chữ quốc ngữ năm 1931 với bài Ca dao cổ trên tạp chí Nam phong số 167. “Ca dao” và “phong dao” được cho là có cùng một phạm vi phản ánh. Sở dĩ “ca dao” được gọi là “phong dao” là do có một số bài “ca dao” đã phản ánh phong tục của địa phương, của thời đại. Lâu dần tên gọi “phong dao” phai nhạt dần nhường chỗ cho từ “ca dao”. Cho 10 đến những năm 50 của thế kỷ XX thì từ “phong dao” hầu như không còn được sử dụng nữa, “ca dao” trở thành từ duy nhất chỉ một thứ thơ dân gian. So với “ca dao”, thuật ngữ “dân ca” xuất hiện ở Việt Nam muộn hơn. Mãi cho đến năm 1956, qua cuốn sách Tục ngữ và dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, từ “dân ca” mới trở nên quen thuộc. Nói đến “dân ca” là nói đến cả làn điệu và những thể thức biểu hiện nhất định. Các nhà nghiên cứu văn học dân gian hiện nay cho rằng “dân ca” bao gồm phần lời (câu hoặc bài), phần giai điệu ( giọng hoặc làn điệu), phương thức diễn xướng và cả môi trường, khung cảnh ca hát. “Ca dao” và “dân ca” có một mối quan hệ đặc biệt. Theo các soạn giả của bộ sách Kho tàng ca dao người Việt [24] thì thuật ngữ ca dao được hiểu theo ba nghĩa khác nhau và đều có mối liên hệ chặt chẽ với “dân ca” 1. Ca dao là danh từ ghép chỉ chung toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu, trong trường hợp này ca dao đồng nghĩa với dân ca. 2. Ca dao là danh từ chỉ thành phần ngôn từ (phần lời ca) của dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi) 3. Không phải tất cả những câu hát của một loại dân ca nào đó tước bỏ tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi… thì sẽ đều là ca dao. Ca dao là những sáng tác văn chương được phổ biến rộng rãi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ mang những đặc điểm nhất định và bền vững về phong cách và ca dao đã trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian. Theo cách hiểu thứ ba, là một thể thơ dân gian, ca dao cổ truyền có thể được thưởng thức như văn học viết (đọc, ngâm, xem bằng mắt). Khuynh hướng này được khởi xướng và phát triển bởi các nhà Nho. Từ thế kỷ XV trở đi, số Nho sĩ ngày càng nhiều. Trong các cuộc thi hương có tới hàng vạn Nho sĩ dự thi. Do vậy số Nho sĩ không hiển đạt cũng ngày càng nhiều thêm. Một 11 số người cáo quan lui về ở ẩn. Chính lớp Nho sĩ không đỗ đạt và ở ẩn này đã sưu tầm thơ dân gian và thưởng thức ca dao như thưởng thức thơ ca bác học. Thuật ngữ “ca dao” theo cách hiểu thứ nhất và thứ hai có thể tìm thấy trong Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hân, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên. Cách hiểu thứ ba ở trên cũng được sự đồng tình của nhiều học giả khác, như Vũ Ngọc Phan: “Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu dân ca. Dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất định, nó ngả về nhạc nhiều hơn là về mặt hình thức. Hầu hết các loại dân ca đều được xây dựng dựa trên cơ sở những câu ca dao, tục ngữ có sẵn. Tùy theo từng loại dân ca mà người ta thêm vào những tiếng đệm, lót như tình bằng, tang tình, ấy mấy, v.v… Tiếng đệm nghĩa như ấy ai, em nhớ, v.v… những tiếng đưa hơi như ì ì, i ới a, hì hi v.v… Chính đặc điểm của những tiếng đệm ấy tạo nên những giai điệu riêng biệt của từng loại dân ca” Trong luận văn này, chúng tôi hiểu ca dao theo nghĩa thứ hai và thứ ba. Chúng tôi cũng đồng ý với quan niệm rằng ca dao cổ truyền là những lời ca dao được lưu hành từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ca dao hiện đại là những sáng tác thơ ca dân gian được lưu hành từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Giống như tất cả các thể loại văn học, ca dao cũng hướng đến đối tượng trung tâm là con người, khám phá và phát hiện ra những vẻ đẹp của con người thể hiện trong cuộc sống. Với đời sống tinh thần của người bình dân có thể nói tình và nghĩa luôn luôn là hai điều cốt lõi, được đề cao. Tình và nghĩa đó được thể hiện ở mọi phương diện của cuộc sống, thể hiện trong cuộc sống lao động, sản xuất, sinh hoạt và đặc biệt là trong các mối quan hệ tình cảm. 12 1.1.3. Vùng văn hóa Vùng văn hóa là khái niệm đặc trưng cho bản sắc riêng của từng vùng dưới sự thống nhất do cùng nguồn cội tạo ra bản sắc chung. Nó làm nên tính đa dạng cho bức tranh văn hóa dân tộc. Vùng văn hóa do đó chỉ sự khác nhau của đặc trưng văn hóa tộc người theo không gian địa lý trên một lãnh thổ. Những nhóm tộc người khác nhau ở những chỗ khác nhau tạo nên sự phân hóa vùng văn hóa. Từ ngàn xưa, việc phân biệt văn hóa vùng miền đã được tồn tại trong ý thức của ông cha ta và ngày càng được chú trọng trong giới nghiên cứu ngày nay. Tuy nhiên hiện còn nhiều ý kiến không đồng nhất theo từng khuynh hướng, từng tác giả. Trong số này, quan điểm phân chia vùng văn hóa của nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng có nhiều cơ sở hợp lí. Theo đó, về tổng quát lãnh thổ Việt Nam được chia thành 6 vùng văn hóa bao gồm: vùng văn hóa Tây Bắc, vùng văn hóa Việt Bắc, vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, vùng văn hóa Trung Bộ, vùng văn hóa Trường Sơn- Tây Nguyên và vùng văn hóa Nam Bộ. 1.2. Vùng văn hóa Bắc Bộ 1.2.1. Ranh giới địa lý, hành chính Theo khu vực địa lý- hành chính thì Bắc Kỳ đã có từ thời Nguyễn. Cuộc cải cách hành chính năm 1831-1832 dưới triều Minh Mệnh đã bãi bỏ Bắc Thành và Gia Định Thành, đổi trấn thành tỉnh, chia cả nước thành 31 đơn vị hành chính trực thuộc triều đình trung ương trong đó Hà Nội, Nam Định, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương thuộc Bắc Kỳ. Đến thời Pháp thuộc Bắc Kỳ có địa giới tính từ phía nam tỉnh Ninh Bình trở tới biên giới Việt Trung. Cho tới năm 1946, trong Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cách gọi Bắc Bộ mới chính thức xuất hiện lần đầu tiên. Ở Bắc Bộ, ngoài thành phố Hà Nội và Hải Phòng còn có 27 tỉnh khác ví dụ như: Bắc Giang, Bắc Cạn, 13 Bắc Ninh, Cao Bằng, Hà Đông, Hà Giang, Hà Nam, Hải Dương… Tới năm 1959 thì sự phân chia này lại có sự thay đổi và cấp bộ không còn nữa. Cho tới hiện nay thì vùng lãnh thổ gần với ranh giới Bắc Bộ được gọi là vùng đồng bằng sông Hồng bao gồm thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình. Bắc Bộ là vùng đất cổ, là vùng văn hóa, là cái nôi hình thành dân tộc Việt. Vùng văn hóa Bắc Bộ là một hình tam giác bao gồm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã với cư dân Việt (Kinh) sống quần tụ thành làng xã. Đây là vùng đất đai trù phú bởi vậy nó từng là cái nôi văn hóa Đông Sơn thời thượng cổ, văn hóa Đại Việt thời trung cổ… với những thành tựu rất phong phú về mọi mặt. Nó cũng là cội nguồn của văn hóa Việt ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ sau này. Văn hóa châu thổ Bắc Bộ vừa có những nét đặc trưng của văn hóa Việt lại vừa mang những nét riêng đặc sắc về văn hóa của vùng. Ngoài ra văn hóa Bắc Bộ còn là sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người, phát triển dựa trên sự kế thừa và sự phát huy bản sắc dân tộc kết hợp tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa khu vực và nhân loại. PGS.TS Ngô Đức Thịnh đã từng nhận xét: “Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam, đồng bằng Bắc Bộ là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc.” 1.2.2. Đặc điểm lịch sử, tự nhiên, xã hội Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ nằm giữa lưu vực các con sông: sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã. Khi nói tới vùng văn hóa Bắc Bộ là nói tới vùng văn hóa thuộc địa phận các tỉnh Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, phần đồng bằng của tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan