Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ở việt nam hiện ...

Tài liệu Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ở việt nam hiện nay

.PDF
183
122
53

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ MINH THÙY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã ngành: 9 38 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS LÊ THỊ HƯƠNG Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................................ 8 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ................................... 8 1.2. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án ............. 23 1.3. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ......................................... 27 Chương 2. LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM ............... 29 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập .................................................................................. 29 2.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ................................................................................................................... 45 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập .................................................................................. 57 Chương 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM ............... 64 3.1. Pháp luật về giảng viên trường đại học công lập ở Việt Nam ................ 64 3.2. Tổ chức thực hiện các quy định pháp luật trong quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam ........................ 84 3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam .............................................................................. 105 Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................................................ 111 4.1. Quan điểm đổi mới quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam hiện nay ............................................................... 111 4.2. Giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam .............................................................................. 116 KẾT LUẬN ................................................................................................. 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 153 DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Viết đầy đủ ĐHCL Đại học công lập GDĐH Giáo dục đại học GD&ĐT Giáo dục và đào tạo GS, PGS Giáo sư, Phó Giáo sư KT - XH Kinh tế, xã hội HĐLV Hợp đồng làm việc NCKH Nghiên cứu khoa học NGND, NGƯT Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú QLGD Quản lý giáo dục QLNN Quản lý nhà nước UBND Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học (GDĐH) được coi là công cụ hữu hiệu để đào tạo nguồn nhân lực có khả năng nắm vững và ứng dụng các tri thức khoa học vào thực tiễn, đổi mới và chuyển giao công nghệ, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) một cách nhanh chóng, toàn diện và bền vững. Bởi vậy, phát triển GDĐH đã và đang là mối quan tâm lớn của toàn xã hội, của nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm qua, cùng với quá trình đổi mới của đất nước, hệ thống GDĐH Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, “Giáo dục đại học đã bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém, chất lượng đào tạo nhìn chung còn thấp, chưa theo kịp đòi hỏi phát triển kinh tế xã hội của đất nước...” [86]. Vấn đề không chỉ dừng lại ở chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, mà điều đáng nói là sự tụt hậu này đang tác động tiêu cực đến sự phát triển KT-XH của đất nước. Chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng GDĐH nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nội dung, chương trình, phương pháp và hình thức tổ chức đào tạo,... nhưng một trong những yếu tố quan trọng nhất là chất lượng giảng viên đại học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “không có thầy giáo thì không có giáo dục” [44, t.8, tr184]. Quan niệm này đã được thể hiện trong các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và khẳng định trong Luật Giáo dục. Điều khẳng định đó càng có sức thuyết phục hơn khi đối chiếu với kinh nghiệm thành công của nhiều quốc gia trên thế giới khi họ lấy đào tạo giảng viên chất lượng cao làm đòn bẩy nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của thực tiễn. Nếu chất lượng đào tạo là tâm điểm của nhu cầu đổi mới thì vấn đề trọng yếu nhất hiện nay là chất lượng giảng viên - yếu tố sống còn của một trường đại học. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến yếu kém trong chất lượng GDĐH nói chung và chất lượng đội ngũ giảng viên nói riêng, nhưng “nguyên nhân căn bản chính là 1 sự yếu kém trong quản lý nhà nước về giáo đục đại học và sự yếu kém trong quản lý của bản thân các trường đại học...” [86]. Trước tình hình đó, đổi mới quản lý nhà nước (QLNN) về giáo dục đại học và giảng viên đại học trở nên bức thiết và được coi là “khâu đột phá” nhằm nâng cao chất lượng GDĐH, chất lượng đội ngũ giảng viên [86]. QLNN đối với trường đại học công lập (ĐHCL) nói chung và đối với giảng viên các trường ĐHCL nói riêng đang là vấn đề thu hút được sự quan tâm của các nhà quản lý và toàn xã hội, liên quan đến chất lượng đào tạo của các cơ sở GDĐH ở Việt Nam. Thời gian qua, sự thay đổi của cơ chế QLNN trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập bên cạnh những kết quả đạt được thì còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa thực sự phát huy được hết các nguồn lực của đội ngũ. Việc xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường đại học cần phải được thực hiện trên nền tảng pháp lý vững chắc với các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao, thực sự phát huy được hiệu quả khi thực thi, áp dụng. Tuy nhiên hiện nay tồn tại nhiều văn bản pháp luật do các cơ quan khác nhau ban hành tại nhiều thời điểm cùng điều chỉnh đối với giảng viên trong trường đại học (Cùng một lúc, giảng viên là đối tượng điều chỉnh của rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc các ngành luật khác nhau: pháp luật về viên chức, về giáo dục, giáo dục đại học, pháp luật về lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp…). Nhiều quy định còn cứng nhắc, nhiều quy định chậm được cụ thể hóa và thực tế có những văn bản không phù hợp, mẫu thuẫn với nhau. Dẫn đến nhiều khó khăn, vướng mắc, không chỉ đối với giảng viên khi tuân thủ, thi hành, sử dụng những quy định pháp luật liên quan, mà còn đối với các cơ quan QLNN, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khi thực hiện pháp luật… Bên cạnh đó, việc quản lý, sử dụng, đánh giá,… giảng viên vẫn nặng về thủ tục hành chính, chưa có nhiều đột phá, chưa tương thích với cơ chế tự chủ của các trường đại học công lập. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên trường đại học công lập còn mang tính hình thức, chưa mang lại hiệu quả cao. Các nội dung thanh tra, 2 kiểm tra các hoạt động liên quan đến việc thực hiện và đảm bảo các chế độ chính sách cho giảng viên chưa nhiều, chưa hiệu quả,…. Trước thực trạng đó, hơn lúc nào hết, vai trò của các cơ quan QLNN có thẩm quyền cần phải được phát huy, không phải để tăng cường quản lý đội ngũ giảng viên theo cơ chế tập trung, bao cấp mà đặt ra yêu cầu đối với Nhà nước cần có những giải pháp hiệu quả, thể hiện đúng vai trò định hướng, giám sát, thúc đẩy và tạo điều kiện cho các trường đại học, cho đội ngũ giảng viên được chủ động, sáng tạo phát huy tối đa khả năng, năng lực của mình. Nghiên cứu về giảng viên đã có không ít các công trình từ bài báo, tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học các cấp đến các luận văn, luận án dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về QLNN đối với giảng viên trường đại học công lập thì chưa được đề cập một cách chuyên sâu trong một nghiên cứu luật học riêng biệt. Xuất phát từ thực tế trên, đề tài: “Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài có mục đích tổng quát là nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL, phúc đáp yêu cầu đổi mới chất lượng hoạt động giáo dục đại học ở nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu làm sáng tỏ các khía cạnh lý luận liên quan đến QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam. - Nghiên cứu thực trạng QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam. Từ đó, xác định những vấn đề đặt ra cần giải quyết nhằm đổi mới QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam hiện nay. 3 - Nghiên cứu xác định quan điểm và đề xuất giải pháp đổi mới QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam. - Thực tiễn QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: luận án nghiên cứu pháp luật đối với giảng viên trường ĐHCL và các nội dung QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam. - Phạm vi không gian: nghiên cứu pháp luật và hoạt động QLNN đối với đội ngũ giảng viên tại các trường ĐHCL ở Việt Nam (trừ các trường đại học khối công an, quân đội). - Phạm vi thời gian: nghiên cứu pháp luật về giảng viên và hoạt động QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL từ khi đổi mới đất nước, tập trung trong thời gian từ 2010 đến nay (từ khi ban hành Luật Viên chức). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, các quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đại học, giảng viên đại học và QLNN về giáo dục đại học và đội ngũ giảng viên đại học. 4.2. Phương pháp nghiên cứu 4 - Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng bao quát trong tất cả các chương, mục của luận án để phát hiện, luận giải thuyết phục về các nội dung liên quan đến chủ đề luận án. - Phương pháp cấu trúc hệ thống: được sử dụng chủ yếu trong chương 2 và 3 của luận án nhằm nhận diện và đánh giá hoạt động QLNN đối với đội ngũ giảng viên trong mối liên hệ với toàn bộ hoạt động QLNN nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ĐHCL ở Việt Nam. - Phương pháp luật học so sánh: được sử dụng chủ yếu trong chương 4 của luận án để làm sáng tỏ các mô hình pháp lý về QLNN đối với đội ngũ giảng viên đại học trên thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam. - Phương pháp thống kê: được sử dụng trong chương 1 và 3 của luận án nhằm tập hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và thực trạng QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam hiện nay. - Phương pháp chuyên gia: được sử dụng chủ yếu trong chương 4 của luận án để làm rõ một số giải pháp đổi mới QLNN đối với giảng viên trường ĐHCL. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ mang đến những đóng góp mới cho khoa học pháp lý và thực tiễn QLNN như sau: Luận án là công trình chuyên khảo phân tích, đánh giá một cách hệ thống và tương đối toàn diện các nội dung quản lý nhà nước đối với giảng viên trường đại học công lập. Nghiêu cứu đã phân tích và làm rõ được khái niệm, đặc điểm và tính tất yếu, sự cần thiết phải đổi mới quản lý nhà nước đối với giảng viên trường đại học công lập ở Việt Nam hiện nay. Qua đó, luận án cung cấp, bổ sung thêm cơ sở lý luận, góp phần làm phong phú và sâu sắc hơn hệ thống lý luận khoa học về quản lý nhà nước đối với giảng viên. Trên cơ sở phân tích một cách hệ thống thực trạng quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam hiện nay, luận án đã chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và xác định nguyên nhân của những kết quả và hạn chế đó. Đồng thời luận án đã đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới 5 quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam đặt trong bối cảnh yêu cầu của đổi mới giáo dục đại học, dân chủ, tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường đại học công lập. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Về lý luận Đề tài góp phần củng cố, hoàn thiện hơn cơ sở lý luận về QLNN, ĐHCL, giảng viên đại học và thực hiện QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam. 6.2. Về thực tiễn - Xây dựng đường lối, chính sách: Đề tài xác lập cơ sở khoa học cho việc tiếp tục triển khai thi hành Luật giáo dục đại học 2012, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học năm 2018, góp phần sửa đổi Luật Viên chức 2010; là cơ sở khoa học góp phần phục vụ công tác xây dựng và triển khai thi hành các văn bản pháp luật về tự chủ đại học, đặc biệt là tự chủ về nhân sự; đồng thời góp phần củng cố cơ sở pháp lý của việc thực hiện QLNN đối với đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam. - Với các nhóm giải pháp cụ thể được đưa ra trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng công tác QLNN đối với giảng viên đại học, luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý giúp tăng cường hiệu quả công tác QLNN đối với đội ngũ giảng viên nói riêng và hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý các trường ĐHCL ở Việt Nam nói chung. - Đổi mới QLNN là “khâu đột phá” nâng cao chất lượng giáo dục đại học nói chung và chất lượng đội ngũ giảng viên nói riêng. Vì vậy, với các giải pháp đổi mới công tác QLNN đối với đội ngũ giảng viên đại học, luận án sẽ góp phần tăng cường năng lực và chất lượng của đội ngũ giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận án 6 Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án được kết cấu gồm 04 chương với các mục, tiểu mục cụ thể như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam Chương 2: Lý luận về quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam Chương 4: Quan điểm và giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam hiện nay 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Vấn đề QLNN đối với giáo dục đại học nói chung và đội ngũ giảng viên các trường đại học nói riêng đã thu hút không ít sự quan tâm của các nhà quản lý, các nhà khoa học, đặc biệt các nhà nghiên cứu, các viện, các trường đại học cả trong và ngoài nước. Trong đó, đã có rất nhiều công trình khoa học được công bố trên các sách, báo, tạp chí,… dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và năng lực quản lý của cơ quan QLNN, góp phần nâng cao chất lượng GDĐH. 1.1.1 Nghiên cứu lý luận về quản lý nhà nước đối với giảng viên trường đại học công lập Có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến vấn đề lý luận về QLNN, từ giáo trình, sách chuyên khảo, đến các bài viết trên tạp chí,...Trong số đó, giáo trình Hành chính công do TS. Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên, xuất bản năm 2003 với 16 chương đã bao gồm những vấn đề cơ bản nhất của khoa học hành chính công như: chức năng hành chính, thể chế hành chính, tổ chức hành chính Nhà nước, quyết định hành chính, công vụ, công chức, QLNN trên các lĩnh vực,…[45]. Có thể nói, công trình có tính “giáo khoa” kể trên đã giúp nghiên cứu sinh có những hiểu biết cơ bản nhất về các yếu tố cấu thành nền hành chính Nhà nước; phân biệt QLNN với các loại hình quản lý khác trong xã hội. Đây là nghiên cứu nền tảng làm cơ sở để nghiên cứu sinh đi sâu tìm hiểu QLNN đối với từng lĩnh vực, nội dung cụ thể. 8 Qua việc nghiên cứu sách chuyên khảo Phân cấp quản lý nhà nước ở Việt Nam: thực trạng và triển vọng của GS.TS Phạm Hồng Thái và Phân cấp quản lý nhà nước: lý luận và thực tiễn của PGS.TS Võ Kim Sơn, tác giả luận án hiểu rõ hơn vấn đề lý luận về phân cấp QLNN trong hệ thống hành chính Nhà nước. Các mô hình phân cấp, nguyên tắc, yêu cầu, nội dung phân cấp và thực trạng phân công, phân cấp trong QLNN ở nước ta trong những năm qua [78]. Bên cạnh đó, qua luận án Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học của Nguyễn Thị Thu Hà, nghiên cứu sinh hiểu rõ hơn về phân cấp QLNN đối với lĩnh vực cụ thể là giáo dục đại học: khái niệm, bản chất của phân cấp QLNN đối với giáo dục đại học, đặc biệt luận án gắn kết công tác QLNN đối với giáo dục đại học trong mối quan hệ giữa quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học [41]. Đề tài NCKH của Ngô Minh Tuấn, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương năm 2013: Quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp đã tiếp cận lý luận về QLNN đối với nguồn nhân lực. Đề tài tiếp cận theo cách tiếp cận chức năng QLNN: bao gồm chức năng xây dựng chính sách (chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến phát triển nguồn nhân lực); chức năng dự báo; chức năng tổ chức, điều hành nhằm tác động, tổ chức, điều chỉnh quá trình phát triển nguồn nhân lực [92]. Đây là tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác giả nhận thức rõ hơn thế nào là QLNN đối với nguồn nhân lực từ đó xác định những nội dung của QLNN đối với giảng viên - với tư cách là nguồn nhân lực chất lượng cao trong xã hội. Không nghiên cứu trực diện về các trường ĐHCL nhưng Đặng Thị Minh trong luận án tiến sỹ Chính sách phát triển các trường đại học tư thục ở Việt Nam đã có sự phân tích, so sánh khá chi tiết, phân biệt trường ĐHCL và trường đại học tư thục trên các nội dung: địa vị pháp lý, đầu tư tài chính và sở hữu trường, cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý tài chính và sử dụng tài sản [59]. Qua sự phân tích của tác giả, nghiên cứu sinh có thêm những hiểu biết về mô hình tổ chức của trường ĐHCL. Muốn hiểu rõ về đối tượng quản lý - giảng viên trường 9 ĐHCL, thì việc hiểu được môi trường giảng dạy, nghiên cứu của giảng viên, những quy định, chính sách phát triển của Nhà nước đối với trường ĐHCL hiện có là vô cùng quan trọng. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài luận án của các tác giả: Trần Tuấn Duy (2019), “Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường chính trị từ thực tiễn vùng Đông Nam Bộ”, Lê Thị Bích Liên (2018), “Quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên đại học từ thực tiễn trường Đại học Hà Nội”, Lê Thị Nga (2014), “Quản lý nhà nước về phát triển đội ngũ giảng viên đại học công lập trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”,… Dù tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý hay khoa học quản lý, dù phạm vi nghiên cứu trên địa bàn: thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, dù là trường đại học trực thuộc Bộ hay Đại học quốc gia,... thì các nghiên cứu trên đều xuất phát từ lý luận về QLNN và bám sát những nội dung QLNN đối với giảng viên: xây dựng thể chế, xây dựng và thực hiện chính sách; quy hoạch; tuyển dụng; sử dụng; đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật giảng viên. Qua các nghiên cứu trên, tác giả nhận thức được những vấn đề lý luận về chủ thể, khách thể, nội dung QLNN đối với giảng viên các trường đại học. Đây là những tài liệu quan trọng giúp tác giả luận án có những nghiên cứu, phân tích chuyên sâu về lý luận QLNN đối với giảng viên các trường ĐHCL ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn, những vấn đề lý luận được phân tích ở một chừng mực nhất định, chưa thể hiện rõ hình thức, phương pháp QLNN đối với đối tượng đặc thù giảng viên. Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với giảng viên mới được xem xét trên phạm vi hẹp, cần tiếp tục được nghiên cứu sâu hơn. 1.1.2 Nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước đối với giảng viên trường đại học Có rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến thực trạng giảng viên và công tác quản lý đối với giảng viên các trường đại học. Ở nhiều nghiên cứu nước ngoài, tuy không đề cập trực tiếp đến Việt Nam, nhưng những nghiên cứu về giáo dục đại học, giảng viên đại học trên thế giới là tài liệu tham khảo 10 hữu ích, giúp tác giả luận án nhận thức được bối cảnh và xu hướng phát triển của giảng viên các trường đại học hiện nay. Vai trò của giáo dục đại học trong thế kỷ 21 được ghi nhận ở tất cả các nền giáo dục trên thế giới. Các nghiên cứu nước ngoài về giáo dục đại học, trường đại học có thể kể đến là: “The role of university in Globalization” (Marcus Storch, 2008), “Global trends in university administration” (John Fielden, 2008),… Trong bài viết “From ideas to actions in higher education” tác giả David E.Bloom đến từ đại học Havard đã tập trung làm rõ ba nội dung chính: một là tầm quan trọng của GDĐH, GDĐH là một nhân tố thiết yếu có thể chứng minh được trong việc đẩy mạnh phát triển con người và tăng trưởng kinh tế; hai là nhu cầu cải cách: áp lực của toàn cầu hóa khiến nhu cầu này trở thành khẩn cấp: cần phải dành những nguồn lực thực tế cho bộ phận giáo dục đại học và cao đẳng, và cần cải cách GDĐH ở cả hai cấp độ: ở từng trường và ở cả hệ thống; ba là: thực hiện cải cách tập trung vào cải cách chương trình đào tạo và vấn đề về chảy máu chất xám [104]. Trên cơ sở phân tích 11 thách thức chiến lược trong phát triển các trường đại học, tác giả Donald E. Hanna trong báo cáo “Building a Leadership Vision: Eleven Strategic Challenges for Higher Education” đã chỉ rõ những xu hướng thay đổi trong văn hóa hàn lâm của các trường đại học trong bối cảnh của toàn cầu hóa và sự bùng nổ của khoa học và công nghệ đang diễn ra trên toàn thế giới. Trong đó, tác giả cũng chỉ rõ sự thay đổi cần có ở giảng viên đại học: từ giảng viên biên chế là những người ra quyết định học thuật chủ yếu đến giảng viên chia sẻ việc ra quyết định học thuật với các khách hàng chủ chốt và các nhân vật hữu quan; từ việc giảng viên thường làm việc theo chương trình riêng của họ và hành động độc lập với các đồng nghiệp của họ đến giảng viên thường hợp tác với nhau và thông qua đa ngành để đạt được các mục tiêu của tổ chức [109]. Đặc biệt, trong những nghiên cứu về giáo dục đại học ở Châu Á, trực tiếp về Trung Quốc, Ấn Độ,… tác giả nhận thấy phần nào những điểm chung của 11 thực trạng giảng viên đại học ở Việt Nam hiện nay, những thách thức mà Chính phủ gặp phải để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Trong bài viết, “The Asian Higher Education Century?” Philip G. Altbach đã khái quát về sự phát triển của giáo dục đại học Châu Á và những con số khiêm tốn của các trường đại học châu Á trong bảng xếp hạng top 100 trường đại học hàng đầu thế giới. Từ đó, tác giả tập trung vào nhìn nhận những trở ngại đối với sự phát triển các trường đại học ở châu lục đông dân số nhất trên toàn cầu. Những trở ngại nằm ở truyền thống lịch sử và ở những nhân tố khác, đó là: quan hệ và mạng lưới cá nhân vẫn đang ảnh hưởng tới nhiều mặt của đời sống học thuật, từ việc tuyển sinh cho đến việc thăng tiến của các giáo sư và phân bổ ngân sách nghiên cứu; việc giảng dạy và ở mức độ nào đó, cả nghiên cứu, thường theo những phương pháp hoàn toàn truyền thống và nhấn mạnh diễn giảng, với rất ít tương tác giữa thầy và trò; hệ thống thứ bậc là trung tâm của những mối quan hệ học thuật mọi loại; nạn tham nhũng trong giới học thuật [101]. Và trong những trở ngại chủ yếu được nêu ra, tác giả tập trung phân tích trở ngại trong vấn đề giảng viên, cụ thể là thu nhập của giảng viên. Theo tác giả, ở nhiều nước Châu Á, các giáo sư được trả lương không tương xứng so với các ngành nghề khác ở địa phương và thấp hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế. Có thể nhận thấy, Philip G. Altbach đã có những nhận xét khách quan và rất thẳng thắn, chính xác về những tồn tại trong GDĐH Châu Á - đó cũng chính là những trở ngại cho các quốc gia Châu Á, trong đó có Việt Nam trong việc xây dựng các trường đại học đẳng cấp quốc tế. Mặc dù không đưa ra những giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề trên, nhưng việc nhìn nhận vào bản chất của vấn đề của tác giả đã gợi mở được rất nhiều bài học cho các nhà quản lý. Với bản thân tác giả luận án, đây là tài liệu tham khảo rất có ý nghĩa trong việc nhìn nhận về những trở ngại mà bản thân giảng viên gặp phải trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy ở trường đại học, từ đó có những đề xuất về chính sách thỏa đáng đối với giảng viên. Trong một nghiên cứu khác của mình, Philip G. Altbach - giáo sư nghiên cứu, giám đốc sáng lập của Trung tâm Giáo dục đại học quốc tế tại Boston 12 College đã phân tích tổng thể bức tranh toàn cảnh GDĐH ở Trung Quốc và Ấn Độ. Đây là hai quốc gia được đánh giá là có nền GDĐH lớn thứ nhất và thứ ba trên thế giới. Cả hai nước đều xác định GDĐH là công cụ chủ chốt cho phát triển kinh tế, đồng thời, cả hai nước đều phải đương đầu với những thách thức hết sức to lớn trong nỗ lực xây dựng một hệ thống GDĐH hiệu quả. Có nhiều điểm tương đồng về những thách thức mà hai quốc gia gặp phải trong giải quyết vấn đề giảng viên như: đảm bảo số lượng giảng viên với sự gia tăng nhanh chóng số lượng sinh viên trong thời gian ngắn; vấn đề “đồng huyết” trong nghề giảng viên; lương giảng viên thấp, tăng lương theo thâm niên không kích thích sự sáng tạo; những cám dỗ từ phía bên ngoài trường đại học,… [100]. Cùng với thực trạng giảng viên, giáo sư cũng cho thấy hệ thống các quy định và thực trạng quản lý giảng viên hiện nay của hai Chính phủ. Nghiên cứu giúp tác giả luận án nhận thức sâu hơn những trở ngại tương tự đối với giảng viên đại học, GDĐH ở Việt Nam, đã, đang và sẽ là những thách thức mà Nhà nước cần tháo gỡ. Bên cạnh đó, hàng loạt các nghiên cứu nước ngoài về GDĐH Việt Nam đã cho thấy vai trò quan trọng của GDĐH trong giải quyết các vấn đề toàn cầu như tuyên bố của UNESCO năm 2009 đã nêu. Các chuyên gia nước ngoài tập trung vào việc đánh giá thực trạng GDĐH, giảng viên đại học hiện nay, chỉ ra những thách thức trong quá trình phát triển, từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng một kế hoạch chiến lược cho sự phát triển của các trường đại học ở Việt Nam, các nghiên cứu phải kể đến, đó là: Martin Hayden và Lâm Quang Thiệp, “A 2020 Vision for higher education in Vietnam; Ben Wilkinson, Higher education and Economic Growth” Michael W.Marine, “Challenges for higher education in Vietnam and the United States’ possible role”. Michael W.Marine trong bài viết của mình thể hiện sự quan tâm sâu sắc của tác giả đến từ một quốc gia có nền giáo dục hàng đầu thế giới đối với nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là giáo dục đại học. Ông đã chỉ ra những thách thức của giáo dục đại học Việt Nam trong vấn đề đảm bảo nguồn nhân lực, đặc biệt là giảng viên chất lượng cao cho các trường đại học khi mà số lượng sinh viên ngày một gia tăng. Tác giả cũng chỉ rõ 13 sự hạn chế của các trường đại học với vai trò là nơi sáng tạo ra tri thức, thúc đẩy sự đổi mới qua số lượng xuất bản ấn phẩm khoa học và đăng ký cấp bằng sáng chế của các trường đại học hàng đầu Việt Nam so với các trường đại học khu vực Châu Á. Tác giả đã ghi nhận những nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong việc đổi mới giáo dục đại học với các mục tiêu, chương trình về đào tạo tiến sỹ và giáo dục bằng tiếng Anh. Qua đó, nguyên đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam đã bày tỏ quan điểm Hoa Kỳ không những có thể giúp mà còn “mong muốn tham gia như một thành viên cùng với Nhà nước và nhân dân Việt Nam giải quyết những thiếu hụt và tạo ra một hệ thống giáo dục” [106], [58]. Báo cáo “Vietnam: Higher Education and Skills for Growth”, đây là sản phẩm của sự hợp tác chặt chẽ giữa Ngân hàng Thế giới và Viện khoa học lao động và xã hội (ILSSA). Là một nghiên cứu công phu với trên 200 trang, các chuyên gia đã dành toàn bộ phần một của báo cáo để nêu lên thực trạng giáo dục đại học của Việt Nam: cấu trúc hệ thống GDĐH, quản trị hệ thống giáo dục, các nội dung về chất lượng GDĐH: chương trình giảng dạy, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên,… Đặt trong bối cảnh của thời đại hội nhập kinh tế, quốc tế với những yêu cầu của ngành nghề mới và thị trường lao động thay đổi nhanh chóng, nghiên cứu cho thấy những chính sách mà Chính phủ Việt Nam đã triển khai để giúp các trường đại học thực hiện vai trò và sứ mạng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao [103]. Lee Little Soldier trong bài viết “New Direction for Higher education in Vietnam” đã chỉ ra thực trạng của giáo dục Việt Nam: chương trình đào tạo lỗi nhịp, ngân sách chi cho NCKH không đủ để tạo ra những kết quả hữu dụng. Chỉ ra ba nguyên nhân chính cần phải thay đổi: tính chất đang thay đổi của môi trường làm việc ngày nay, bản chất đang thay đổi của sinh viên ngày nay, tính chất đang thay đổi của mô hình dạy học. Đề xuất xây dựng: Kế hoạch chiến lược và quá trình thay đổi. Bài viết đã xem xét những vấn đề then chốt quan trọng để giúp Việt Nam đạt được vị thế quốc tế của mình và đề cập đến sự cần thiết của 14 việc hoạch định chiến lược để hướng dẫn các trường trong tiến trình thay đổi có đủ sức tạo ra nguồn nhân lực có kỹ năng cao hơn và đa dạng hơn [75]. Mặc dù chỉ khảo sát, đánh giá 14 trường đại học, nhưng những kết quả nghiên cứu của Quỹ giáo dục Việt Nam (VEF) được thực hiện bởi các giáo sư đến từ các trường đại học danh tiếng của Hoa Kỳ năm 2014 đã cho thấy bức tranh toàn cảnh của GDĐH Việt Nam: từ hoạt động tuyển sinh, đào tạo, giảng dạy, nghiên cứu đến cơ sở vật chất, đánh giá, tự chủ và bình đẳng giới. Các chuyên gia giáo dục đã chỉ ra những vấn đề trong công tác giảng dạy, nghiên cứu của giảng viên như: quá tải về số lượng giờ dạy, ít thời gian cho nghiên cứu khoa học, những khó khăn trong đổi mới phương pháp giảng dạy, áp lực trong thu nhập đảm bảo cuộc sống, “quan hệ cận huyết trong học thuật”,… Những dữ liệu, thông tin trung thực và những đánh giá khách quan của đoàn nghiên cứu, là tài liệu tham khảo hữu ích đối với nghiên cứu sinh trong việc nhìn nhận và đánh giá thực trạng giảng viên và công tác quản lý giảng viên hiện nay [74]. Ở trong nước, các nghiên cứu về giảng viên, quản lý, QLNN đối với giảng viên rất đa dạng: từ sách chuyên khảo, luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH) cho đến các bài viết trên các tạp chí. Đỗ Minh Cương, Nguyễn Thị Doan, Nguyễn Thị Thu Hương, Lê Thị Phương Nam, trong nghiên cứu của mình đã có những phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ giảng viên trong cả nước và công tác quản lý đội ngũ giảng viên trong giai đoạn nghiên cứu. Đỗ Minh Cương, Nguyễn Thị Doan (2001), “Phát triển Nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam”. Cuốn chuyên khảo đã khái quát về thực tiễn phát triển của GDĐH Việt Nam và thực trạng nguồn nhân lực GDĐH ở nước ta trong tiến trình lịch sử dân tộc đặc biệt sau năm 1975 đến năm 2000. Trong quá trình phân tích những nguyên nhân dẫn đến mặt yếu kém của nguồn nhân lực GDĐH, các tác giả đã chỉ ra thực trạng trong công tác QLNN đối với nguồn nhân lực GDĐH nói chung và giải viên nói riêng: thực trạng trong việc xây dựng và ban hành chính sách, trong đầu tư, thực trạng về năng lực quản lý của các cơ quan QLNN có thẩm quyền [17]. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan