BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/…………
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ HOÀNG THỊNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
TẠI TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/…………
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ HOÀNG THỊNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
TẠI TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 60 34 04 03
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN HƯNG BÌNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan Luận văn “Quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại
tỉnh Kiên Giang” là công trình nghiên cứu khoa học của tác giả, được TS. Trần
Hưng Bình hướng dẫn, hỗ trợ và giúp đỡ để hoàn thiện. Các tài liệu, số liệu trong
Luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 04 tháng 5 năm 2017
Tác giả
Lê Hoàng Thịnh
LỜI CÁM ƠN
Luận văn này là kết quả của quá trình tác giả nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo
tận tình để truyền đạt những kinh nghiệm, tri thức quý báu của tập thể Giảng viên
Học viện Hành chính Quốc gia trong chương trình đào tạo Thạc sĩ chuyên ngành
Quản lý công.
Với tình cảm chân thành nhất, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban
Giám đốc Học viện, Quý Thầy cô Khoa Sau đại học, Quý Giảng viên đã trực tiếp
giảng dạy và hướng dẫn trong quá trình học tập, nghiên cứu tại Học viện. Đặc biệt
là TS. Trần Hưng Bình - Người đã tận tình hướng dẫn, hỗ trợ và giúp đỡ rất nhiều
để tác giả hoàn thiện Luận văn này.
Bên cạnh đó, tác giả cũng chân thành cảm ơn Lãnh đạo và tập thể các Trợ
giúp viên, Chuyên viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý, Cục Thống kê tỉnh Kiên
Giang và Liên đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang,… đã tạo điều kiện, giúp đỡ cung cấp
về mặt tài liệu và số liệu để tác giả hoàn thành Luận văn này.
Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, hoàn chỉnh Đề tài, nhưng
chắc chắn Luận văn không thể tránh khỏi những sai sót, hạn chế nhất định. Tác giả
rất mong nhận được sự chỉ bảo và những ý kiến đóng góp quý báu từ Quý Thầy cô
và các bạn Học viên.
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ................................................................................................ 7
1.1. Một số vấn đề về trợ giúp pháp lý ................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý .................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý ............................................................. 11
1.1.3. Vai trò và ý nghĩa của trợ giúp pháp lý ............................................... 16
1.2. Quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý ......................................................... 17
1.2.1. Khái quát chung về quản lý nhà nước ................................................. 17
1.2.2. Khái quát chung về quản lý nhà nước trợ giúp pháp lý ....................... 20
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý .................................. 30
1.3. Một số kinh nghiệm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý trên thế giới .... 37
1.3.1. Loại hình trợ giúp pháp lý do luật sư tư và các tổ chức xã hội trực
tiếp thực hiện .............................................................................................................. 37
1.3.2. Loại hình trợ giúp pháp lý nhà nước ................................................... 38
1.3.3. Loại hình trợ giúp pháp lý hỗn hợp ..................................................... 40
1.3.4. Vận dụng những kinh nghiệm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
trên thế giới vào việc quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam .................. 41
Tiểu kết Chương 1 .............................................................................................. 44
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ TẠI TỈNH KIÊN GIANG ..................................................................... 45
2.1. Tổng quan về hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Kiên Giang......................... 45
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại tỉnh Kiên Giang ....... 51
2.2.1. Những kết quả đạt được....................................................................... 51
2.2.2. Những tồn tại hạn chế .......................................................................... 63
2.3. Đánh giá công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý ............................ 79
2.3.1. Những ưu điểm .................................................................................... 79
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế ......................................................................... 80
Tiểu kết Chương 2 .............................................................................................. 83
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TẠI TỈNH KIÊN GIANG HIỆN NAY............................ 84
3.1. Dự báo yêu cầu và phương hướng đảm bảo quản lý nhà nước về trợ giúp
pháp lý trong giai đoạn hiện nay ................................................................................ 84
3.2. Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý .......................... 86
3.2.1. Nhóm các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý . 86
3.2.2. Nhóm các giải pháp tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và
đánh giá chất lượng trợ giúp pháp lý .......................................................................... 95
3.2.3. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của luật sư và cơ chế thu hút đối với
hoạt động trợ giúp pháp lý.......................................................................................... 95
3.3. Kiến nghị, đề xuất ..................................................................................... 100
Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................ 102
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 106
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
QLNN
Quản lý nhà nước
TGPL
Trợ giúp pháp lý
TW
Trung ương
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số lượng các vụ việc do Trợ giúp viên pháp lý, Cộng tác viên trợ
giúp pháp lý thực hiện theo từng năm tại tỉnh Kiên Giang ................... 62
Bảng 2.2. Thống kê theo vụ việc tổ chức trợ giúp pháp lý thực hiện theo từng
năm ........................................................................................................ 68
Bảng 2.3. Bảng tổng hợp kinh phí được cấp và thực hiện theo từng năm............. 73
Bảng 2.4. Bảng tổng hợp truyền thông pháp luật TGPL (2007-2014) .................. 75
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ năm 1986, Việt Nam chính thức tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước. Cùng với việc đẩy mạnh cải cách kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Nhà nước
Việt Nam đã thông qua Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm
nghèo, trong đó có chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính
sách. Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg
về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý (TGPL) cho người nghèo và đối tượng
chính sách. Từ đó đến nay, trên cơ sở Luật TGPL năm 2006 và các văn bản hướng
dẫn thi hành, công tác TGPL đã phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đạt được
những kết quả quan trọng. Hệ thống tổ chức TGPL đã được hình thành từ trung
ương đến địa phương, bao gồm Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp và Trung tâm TGPL
ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với đội ngũ chuyên viên và cộng tác
viên TGPL đông đảo. Các tổ chức TGPL đã đóng vai trò quan trọng trong việc đáp
ứng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào
dân tộc thiểu số, đồng thời, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống
pháp luật của xã hội.
Hoạt động trợ giúp pháp lý là chức năng xã hội của Nhà nước, có vị trí và vai
trò quan trọng trong việc xây dựng nhà nước dân chủ, công bằng, văn minh. Nhà
nước với vai trò là nòng cốt trong việc tổ chức và thực hiện TGPL. Do đó, quản lý
nhà nước về trợ giúp pháp lý là một yêu cầu khách quan, dựa trên những cơ sở lý
luận và thực tiễn nhất định. Ở nước ta, lý luận về hoạt động TGPL, quản lý nhà
nước về trợ giúp pháp lý chỉ ra đời và được nghiên cứu kể từ khi Đảng và Nhà
nước thành lập hệ thống tổ chức TGPL miễn phí cho người nghèo và đối tượng
chính sách năm 1997. Thực tế hoạt động TGPL trong những năm qua cho thấy,
chúng ta còn chậm trong việc nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về trợ
1
giúp pháp lý. Quản lý nhà nước về TGPL trong thời gian quan vẫn còn bộc lộ nhiều
hạn chế.
Bên cạnh đó, chủ thuyết về vai trò nòng cốt của Nhà nước trong việc cung ứng
dịch vụ công đang có sự thay đổi. Nhà nước chỉ thực hiện những gì xã hội không
làm hoặc làm không hiệu quả. Kết luận số 63-KL/TW ngày 27-5-2013 của Ban
chấp hành Trung ương đảng về một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương,
bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm
2020 đã đưa ra định hướng từng bước chuyển từ việc giao dự toán ngân sách cho
các đơn vị cung cấp dịch vụ sự nghiệp công lập như hiện nay sang thực hiện
phương thức “đặt hàng”, “mua” dịch vụ, tạo môi trường bình đẳng không phân biệt
giữa đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập trong việc cung cấp dịch vụ. Tuy
nhiên, cần khẳng định TGPL là trách nhiệm của Nhà nước, cùng với việc đẩy mạnh
xã hội hóa hoạt động TGPL, Nhà nước cũng cần thay đổi vị trí, vai trò của mình
theo hướng thay vì trực tiếp làm nòng cốt cung cấp dịch vụ TGPL, Nhà nước chỉ
giữ vai trò quản lý, điều phối và tổ chức thực hiện hoạt động TGPL, bảo đảm
nguồn lực cần thiết cho hoạt động này.
Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước và vai trò
của Nhà nước đối với hoạt động TGPL trong giai đoạn hiện nay một cách có hệ
thống gắn với thực trạng công tác này ở nước ta nói chung và tại tỉnh Kiên Giang
nói riêng, cùng với tham khảo một số mô hình tổ chức TGPL các nước trên thế
giới, học viên lựa chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại tỉnh Kiên
Giang” là đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
- Về tài liệu nước ngoài: Giới thiệu mô hình trợ giúp pháp lý của các nước
Argentina, Nhật Bản, Ailen, Israel, Phần Lan... và đưa ra đề xuất tham khảo đối với
Việt Nam trong định hướng, xây dựng và tổ chức TGPL trong thời gian tới của Cục
Trợ giúp pháp lý Việt Nam - Bộ Tư pháp. Đáng chú ý có các bản lược dịch của Cục
Trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp về Quy định luật sư công một số nước và so sánh
2
chế định luật sư nhà nước ở một số nước, được dùng làm tài liệu tham khảo khi xây
dựng các chế định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và Luật Trợ giúp pháp lý
sửa đổi, bổ sung.
- Về công trình trong nước:
i) Đề tài cấp Bộ “Luận cứ khoa học và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Luật Trợ
giúp pháp lý”. Đề tài được đặt ra trong bối cảnh trong nước có sự thay đổi lớn về
mặt thể chế khi Quốc hội thông qua bản Hiến pháp năm 2013, hàng loạt các luật
liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý thay đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến
pháp và quốc tế, các yêu cầu liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, quyền
tiếp cận trợ giúp pháp lý ngày càng cao dẫn đến yêu cầu sửa đổi, bổ sung Luật Trợ
giúp pháp lý năm 2006 cho phù hợp về mặt thể chế và thực tiễn. Qua hoạt động
nghiên cứu các văn bản pháp luật liên quan đến trợ giúp pháp lý và tiến hành khảo
sát, Đề tài đưa ra được một số nhận định rất khách quan và mang tính thuyết phục
về các vấn đề như: hạn chế, bất cập của Luật Trợ giúp pháp lý hiện hành và các văn
bản hướng dẫn; thực tiễn triển khai công tác trợ giúp pháp lý trong xã hội hiện nay
nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn. Để
khắc phục những bất cập, hạn chế nhằm nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý theo
hướng lấy người được trợ giúp pháp lý làm trung tâm của việc đổi mới, Đề tài đã
đưa ra một số đề xuất mang tính định hướng cơ bản xây dựng Luật Trợ giúp pháp
lý (sửa đổi). Kết quả nghiên cứu của Đề tài đã được Cục Trợ giúp pháp lý ứng dụng
ngay vào quá trình nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006
về các vấn đề như: Sửa đổi các khái niệm trợ giúp pháp lý, mô hình tổ chức trợ
giúp pháp lý, quy định về người thực hiện trợ giúp pháp lý; bổ sung nguyên tắc
hoạt động trợ giúp pháp lý; về người được trợ giúp pháp lý; quy trình thực hiện trợ
giúp pháp lý,…
ii) Luận án Luật học “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Tùng. Luận án tiếp cận vai trò
nòng cốt của nhà nước đối với hoạt động TGPL. Hiện nay, do thay đổi chủ thuyết,
3
nên tiếp tục nghiên cứu vai trò của nhà nước chỉ quản lý, điều phối và tổ chức thực
hiện hoạt động TGPL, bảo đảm nguồn lực cần thiết cho hoạt động này.
iii) Các luận văn thạc sĩ Luật “Pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo
và các đối tượng chính sách xã hội khác” của tác giả Hoàng Thị Liên; luận văn
“Hoạt động của Trung tâm trợ giúp pháp lý - Qua thực tiễn thành phố Hải Phòng”
của tác giả Đào Thị Hồng Nhung. Điểm chung của các công trình nghiên cứu trên
chưa nghiên cứu hoạt động trợ giúp pháp lý dưới góc độ quản lý nhà nước.
- Về bài viết: Bên cạnh các công trình nghiên cứu tiêu biểu trên đây, có một số
bài viết được đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu khoa học pháp lý của TW như:
Hoàn thiện một số quy định về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
trong Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) của tác giả Nguyễn Thị Minh và Trịnh Thị
Thanh, đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề Xây dựng luật Trợ
giúp pháp lý (sửa đổi); Chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý và cơ chế huy động các
luật sư, tổ chức hành nghề luật sư tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý của tác giả
Dương Thị Thanh Mai, đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề Xây
dựng Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi)…
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng quản lý nhà nước về
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng, từ đó nêu lên
những vấn đề còn hạn chế và đề xuất mục tiêu, yêu cầu, giải pháp nhằm bảo đảm
quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý trong thời gian tới.
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung chính sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý,
tham khảo mô hình TGPL của một số quốc gia trên thế giới tham khảo đối với Việt
Nam.
4
- Phân tích, đánh giá nhằm làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về trợ giúp
pháp lý ở Việt Nam và tỉnh Kiên Giang trong thời gian qua, phát hiện những hạn
chế, khó khăn và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.
- Đề xuất mục tiêu, yêu cầu và giải pháp nhằm bảo đảm quản lý nhà nước về
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam và tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
đề tài như: Khái niệm, đặc điểm của hoạt động trợ giúp pháp lý; khái niệm, đặc
điểm, nội dung, phương pháp, hình thức quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ
giúp pháp lý; thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh
Kiên Giang hiện nay; quan điểm và giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước đối với
hoạt động trợ giúp pháp lý ở tỉnh Kiên Giang và Việt Nam.
Về phạm vi: Trợ giúp pháp lý là một lĩnh vực tương đối rộng, bao gồm cả khái
niệm, đối tượng, phương thức, phạm vi, mô hình tổ chức, vv... Trong quản lý nhà
nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý lại liên quan tới rất nhiều ngành khác nhau,
do vậy, nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý cũng rất
phong phú... Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, thuộc chuyên ngành Quản lý
công, luận văn không thể đề cập tất cả các lĩnh vực tác động của nhà nước, mà chủ
yếu trình bày, phân tích, đánh giá phần trực tiếp liên quan đến công tác tổ chức và
quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Kiên Giang. Vì vậy, những vấn đề tác giả
luận giải, cũng như những dẫn chứng mà tác giả đề cập trong luận văn, cũng chỉ
giới hạn trong phạm vi quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý.
Luận văn chủ yếu nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp
pháp lý ở nước ta từ năm 2006 đến nay và định hướng các năm tiếp theo, nhưng
đồng thời cũng nghiên cứu khái quát kinh nghiệm quản lý nhà nước hoạt động trợ
giúp pháp lý của các nước trên thế giới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5
- Phương pháp luận được sử dụng trong luận văn là phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan
điểm của Đảng về TGPL. Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp
sửa đổi, bổ sung năm 2001, năm 2013 và các văn bản pháp luật về TGPL, các báo
cáo kết quả hoạt động, các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước
cũng được tham khảo và kế thừa có chọn lọc.
- Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê. Đồng thời, tác giả còn sử dụng
phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu thực tiễn để hoàn chỉnh luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn góp phần vào việc bổ sung những vấn đề lý luận về hoạt
động trợ giúp pháp lý, quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, đồng
thời là cơ sở để cơ quan quản lý nhà nước tham khảo trong việc tiếp tục hoàn thiện
những vấn đề pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và người được trợ giúp pháp lý khác của nước ta trong thời gian tới.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh trong
việc học tập, giảng dạy các môn khoa học pháp lý. Làm tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm đến hoạt động trợ giúp pháp lý.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
chia thành 3 Chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại tỉnh Kiên
Giang.
Chương 3: Những giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại
tỉnh Kiên Giang hiện nay.
6
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ
1.1. Một số vấn đề về trợ giúp pháp lý
1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Dưới góc độ ngôn ngữ học, “Trợ giúp pháp lý” được sử dụng phổ biến từ giữa
thế kỷ XX từ tiếng Anh là “Lagal aid”. Đó là việc cung cấp cho những người không
có đủ khả năng có được đại điện pháp lý khi tiếp cận với hệ thống tư pháp. Nó
được coi là trụ cột của tiếp cận công lý để đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, có quyền được tư vấn và quyền được xét xử một cách công bằng
[14, tr.7].
Trong một số từ điển, “Legal aid” được đặt trong cụm từ “Legal aid scheme”
và được dịch là “Kế hoạch bảo trợ tư pháp” - Kế hoạch nhằm chi trả chi phí pháp lý
từ công quỹ cho những ai không thể tự mình trả nổi. Sự bảo trợ này nhằm cung cấp
tiền trả cho cố vấn pháp luật, giúp đỡ chuẩn bị trước khi tham gia tố tụng. Tòa án sẽ
ra lệnh bảo trợ tư pháp nếu điều này phục vụ cho các quyền công bằng. Một bị cáo
nhận bảo trợ tư pháp có thể phải đóng góp thêm chi phí. Quỹ do kho bạc quốc gia
cấp chi phí được lấy từ bên đối tụng và người không có đủ tư cách được miễn bảo
trợ tư pháp [14, tr.8].
Như vậy, có rất nhiều cách dịch khác nhau về thuật ngữ này. Xuất phát từ bản
chất và hình thức hoạt động “Lagal aid” trên thế giới và thực tiễn hoạt động này ở
Việt Nam trong thời gian qua, thuật ngữ “Lagal aid” được dịch là “Trợ giúp pháp
lý”.
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” chính thức được sử dụng ở nước ta vào năm
1997 và được ghi trong Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng
Chính phủ, về thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng
chính sách. Trước đây, trong các văn bản của Đảng và nhà nước thường chỉ sử
dụng thuật ngữ tư vấn pháp luật, Pháp lệnh luật sư năm 1987 quy định luật sư có
7
nhiệm vụ tranh tụng và tư vấn pháp luật, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp
hành TW Đảng khóa VIII cũng đưa ra chủ trương: tạo điều kiện cho người nghèo
được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí.
Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Lân, NXB Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh 2005, thì nghĩa của từ “trợ giúp” là “giúp đỡ” như nông
dân bị mất mùa do lụt bão, Nhà nước cấp lúa giống, con giống cho nông dân để tiếp
tục sản xuất không thu tiền [36, tr.1923]. Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản
Khoa học xã hội năm 1994 và cuốn Đại Từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như
Ý - Nhà xuất bản Văn hóa thông tin năm 1999, thì thuật ngữ “trợ giúp” có nghĩa là
giúp đỡ, tức là giúp để làm giảm bớt khó khăn, làm cho ai một việc gì đó hoặc cho
ai cái gì đó mà người ấy đang cần [65, tr.456]; thuật ngữ “pháp lý” được hiểu là lý
lẽ, lẽ phải theo pháp luật, hay nói một cách khái quát: pháp lý là lý luận, luận điểm
cơ bản đối với pháp luật của một chế độ [6, tr.176]. Trong hoạt động trợ giúp pháp
lý, cái đang cần ở đây là pháp luật và người cần giúp đỡ là người nghèo gặp khó
khăn về pháp luật, nhưng không có điều kiện kinh tế để thuê luật sư giúp đỡ.
Có nhiều quan niệm về hoạt động trợ giúp pháp lý, nhưng nhìn chung khái
niệm về hoạt động trợ giúp pháp lý ở các nước đều bao hàm hai nội dung: một mặt,
nó mang ý nghĩa thông thường của từ giúp đỡ cho người đang có khó khăn về pháp
luật; mặt khác, trợ giúp pháp lý xuất phát từ cơ sở lý luận về nhân quyền và bảo
đảm nhân quyền, coi hoạt động trợ giúp pháp lý như là một biện pháp bảo đảm tư
pháp, dành cho người không có điều kiện tiếp cận và sử dụng các quy định của
pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy về ngữ nghĩa, cách diễn
đạt có khác nhau, nhưng chung quy lại, khái niệm hoạt động trợ giúp pháp lý đều
hàm chứa nội dung pháp lý, kinh tế, xã hội và tính nhân đạo, tức là giúp đỡ cho các
đối tượng không có khả năng thanh toán các chi phí, được tiếp cận với các loại hình
dịch vụ pháp lý có thu phí của luật sư “dịch vụ pháp luật cao cấp” bình đẳng như
các đối tượng khác; hoặc giúp đỡ pháp luật cho các đối tượng này giải quyết các vụ
việc liên quan đến pháp luật, động chạm tới quyền lợi thiết thân của họ.
8
Ở Việt Nam, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng trong đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ, mã số 96-98-034/ĐT - Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp:
“Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong
điều kiện hiện nay”. Từ kết quả của đề tài này, thuật ngữ trợ giúp pháp lý chính
thức được sử dụng trong Quyết định 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính
phủ; hiện nay, nó xuất hiện ngày càng nhiều trong các văn bản pháp luật, trên sách
báo và trở nên quen thuộc với các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu và nhân dân. Từ
khi có Quyết định 734/TTg, hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu được quan niệm là
sự giúp đỡ miễn phí của các tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước cho người nghèo,
đối tượng chính sách tiếp cận với tất cả các hình thức dịch vụ pháp lý hiện hành.
Trong quá trình xây dựng hành lang pháp lý để quản lý, những nhà nghiên cứu
hoạt động trợ giúp pháp lý đã đưa ra các khái niệm về trợ giúp pháp lý, theo đó trợ
giúp pháp lý được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Theo nghĩa rộng, trợ giúp pháp lý được hiểu là việc thực hiện các dịch vụ pháp
lý miễn phí của nhà nước và xã hội cho người nghèo, người được hưởng chính sách
ưu đãi và một số đối tượng khác do pháp luật quy định thông qua hoạt động tư vấn
pháp luật, đại diện, bào chữa, kiến nghị giải quyết vụ việc và tham gia thực hiện
phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trong tiếp
cận pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội [17, tr.21].
Theo nghĩa hẹp, trợ giúp pháp lý là việc thực hiện các dịch vụ pháp lý miễn
phí của các tổ chức trợ giúp pháp lý của nhà nước cho người nghèo và người được
hưởng chính sách ưu đãi thông qua hình thức tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa,
kiến nghị giải quyết các vụ việc và tham gia thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật
nhằm bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trong việc tiếp cận pháp luật, góp phần
thực hiện công bằng xã hội [17, tr.21]. Còn theo Điều 3, Luật trợ giúp pháp lý năm
2006, định nghĩa:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người
được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ
9
giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết
pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ công lý, bảo
đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp
luật [49, Điều 3].
Nhìn chung, các khái niệm trên đây đã phản ánh đúng bản chất của hoạt động
trợ giúp pháp lý, tuy nhiên chưa đầy đủ; trợ giúp pháp lý là một hoạt động đòi hỏi
tính xã hội hóa cao, song không thể thiếu sự quản lý của nhà nước, sự hỗ trợ của
nhà nước về mặt kinh tế và xây dựng công cụ pháp luật để quản lý làm cho hoạt
động trợ giúp pháp lý phát triển lành mạnh, đúng hướng là điều hết sức cần thiết.
Do điều kiện các tổ chức xã hội ở nước ta nguồn nhân lực, khả năng tài chính còn
yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
hiện nay mới chỉ tập trung chủ yếu ở các tổ chức trợ giúp pháp lý của nhà nước, sự
tham gia của các thành phần xã hội khác gần như không đáng kể, đã làm ảnh hưởng
đến hiệu quả của hoạt động này, thể hiện sự không đầy đủ của nội dung quản lý nhà
nước. Về mặt lý luận, việc tìm ra một khái niệm phản ánh đúng bản chất của hoạt
động trợ giúp pháp lý là hết sức cần thiết, để từ đó nhà nước có cách quản lý phù
hợp, khắc phục những hạn chế trong nội dung quản lý nhà nước hiện nay; cách
quản lý hầu như mới chỉ tập trung nhấn mạnh nội dung một chiều của hoạt động lẽ
ra phải mang tính xã hội hết sức rộng rãi này.
Xuất phát từ bản chất của hoạt động trợ giúp pháp lý, trên cơ sở nghiên cứu
lịch sử phát triển, mô hình tổ chức, phương thức, mục tiêu của hoạt động trợ giúp
pháp lý. Theo tác giả, khái niệm hoạt động trợ giúp pháp lý được hiểu như sau: là
việc nhà nước thông qua hoạt động quản lý của mình, huy động các nguồn lực xã
hội (chủ yếu là các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị-xã hội-nghề nghiệp,
tổ chức luật sư và các cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về trợ
giúp pháp lý), cùng với Nhà nước cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí cho những
người thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý (thường là những người nghèo), nhằm tạo
cho họ có được những điều kiện tương tự như những người khác trong việc tiếp cận
10
với các dịch vụ pháp lý, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bảo đảm
công bằng xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của Trợ giúp pháp lý
Một là, đối tượng được trợ giúp pháp lý là những người có hoàn cảnh đặc biệt
trong xã hội
Người có hoàn cảnh đặc biệt thuộc diện được hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý
là người nghèo và người được trợ giúp pháp lý khác (người có công với cách mạng,
người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu số
sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn). Các đối tượng này đều
đang hưởng chính sách xã hội của nhà nước được nhà nước và xã hội trợ giúp về
nhiều mặt như vay vốn xóa đói, giảm nghèo, giao đất sản xuất, xây dựng nhà tình
thương, miễn giảm học phí, viện phí... và từ năm 1997 đến nay, được hưởng trợ
giúp pháp lý miễn phí. Người nghèo, người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em không
nơi nương tựa, đồng bào dân tộc thiểu số sống ở những vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, chiếm tỷ lệ cao nhất trong hoạt động trợ giúp pháp lý, đây
là những đối tượng không có khả năng kinh tế để tiếp cận với các dịch vụ pháp lý
có thu phí của luật sư. Chính vì vậy, khi có những vấn đề liên quan đến pháp luật,
họ thường phải chịu thiệt thòi hơn những đối tượng khác có điều kiện kinh tế, để
thuê luật sư bảo vệ quyền lợi.
- Người nghèo: Hiện nay, Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011
về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015,
chuẩn nghèo: 400.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 500.000
đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. Chuẩn cận nghèo: 401.000-520.000
đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 501.000-650.000 đồng/người/tháng ở
khu vực thành thị [54].
- Người được trợ giúp pháp lý khác: Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý
bao gồm: Người có công với cách mạng (Người hoạt động cách mạng trước Tổng
khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng
11
vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; Thương binh, người hưởng chính sách như
thương binh; Bệnh binh; Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học;
Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; Người hoạt
động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế;
Người có công giúp đỡ cách mạng; Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng của liệt sĩ; con của
liệt sĩ; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ.); Người già từ đủ 60 tuổi trở lên sống cô
đơn, không nơi nương tựa; Người khuyết tật theo Luật Người khuyết tật; Người bị
khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những
dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh
hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn; Người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV
mà không có nơi nương tựa; Trẻ em dưới 16 tuổi không nơi nương tựa; Người dân
tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; Các
đối tượng khác được trợ giúp pháp lý theo quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; Nạn nhân theo quy định của pháp
luật phòng, chống mua bán người [49].
Một điểm khác biệt khác với pháp luật về trợ giúp pháp lý nói chung trên thế
giới, người được trợ giúp pháp lý ở nước ta còn có đối tượng đặc thù là người có
công với cách mạng, sở dĩ có quy định như vậy, do ở Việt Nam đã trải qua các cuộc
đấu tranh trường kỳ gian khổ để giành độc lập và giải phóng dân tộc. Có nhiều
người hy sinh, cống hiến tài sản, sức khỏe, tuổi thanh xuân và cả tính mạng của
mình cho sự nghiệp cách mạng, nên nhà nước và nhân dân coi họ là những người
có công với nước và phải có trách nhiệm giúp đỡ họ mọi mặt, trong đó có vấn đề
trợ giúp pháp lý miễn phí. Do vậy, có thể xem đây như là một đặc điểm có tính đặc
thù của hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.
Hai là, chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý
Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý là các tổ chức và cá nhân theo qui định của
pháp luật.
12
- Xem thêm -