Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của bộ công an...

Tài liệu Quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của bộ công an

.PDF
99
210
103

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI THỊ THU HIỀN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC NĂNG CỦA BỘ CÔNG AN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI THỊ THU HIỀN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC NĂNG CỦA BỘ CÔNG AN Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã ngành: 8.38.02.01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN QUỐC TOÀN HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Luận văn này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày tháng năm 2019 Học viên Bùi Thị Thu Hiền MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC NĂNG CỦA BỘ CÔNG AN ..................................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính ............................................................................................ 7 1.2. Khái quát quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính .................................................................................................... 15 1.3. Nội dung quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng Bộ Công an .......................................................................................... 17 Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC NĂNG CỦA BỘ CÔNG AN ... 25 2.1. Thực trạng tình hình vi phạm hành chính và công tác xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng Bộ Công an .................................................... 25 2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của Bộ Công an ................................................................................... 29 2.3. Một số nhận xét, đánh giá ..................................................................... 36 Chương 3. GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC NĂNG BỘ CÔNG AN .................................................................................. 47 3.1. Các yếu tố tác động đến công tác quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của Bộ Công an trong thời gian tới................ 47 3.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của Bộ Công an .................................... 49 KẾT LUẬN .................................................................................................... 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 66 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1 Thống kê số vụ VPCH được CAND phát hiện, xử lý từ năm 2014 đến năm 2018 .................................................................................................. 26 Biểu đồ 2.2 Thống kê số tiền phạt thu được từ XPVPHC nộp ngân sách nhà nước từ năm 2014 đến năm 2018 .................................................................... 27 Biểu đồ 2.3 So sánh tỉ lệ lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp GGTXPTT và áp dụng các biện pháp do TAND quyết định .................................................. 28 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANTT: An ninh, trật tự ATXH: An toàn xã hội CAND: Công an nhân dân CSGDBB: Cơ sở giáo dục bắt buộc GDTXPTT: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn QLNN: Quản lý nhà nước QPPL: Quy phạm pháp luật TAND: Tòa án nhân dân TGD: Trường giáo dưỡng TTATXH: Trật tự, an toàn xã hội UBND: Ủy ban nhân dân VPHC: Vi phạm hành chính XLHC: Xử lý hành chính XLVPHC: Xử lý vi phạm hành chính MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vi phạm hành chính (VPHC) là vi phạm pháp luật phổ biến nhất hiện nay, xảy ra trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước (QLNN), gây tác hại nhiều mặt đến sự phát triển kinh tế - xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (TTATXH), ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả QLNN. Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) là công cụ quan trọng trong hoạt động QLNN nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước. Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến đời sống hàng ngày của nhân dân, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta quan tâm. Trong những năm qua, tình hình VPHC nói chung và vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự (ANTT) nói riêng có diễn biến phức tạp. Trong hoạt động đấu tranh phòng, chống và XLVPHC, các cơ quan chức năng đã có những nỗ lực đáng kể và đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an là một nội dung đặc biệt quan trọng của QLNN nói chung. Hoạt động này đóng vai trò quan trọng bởi số vụ xử phạt VPHC trung bình hàng năm chiếm đến 75% tổng số vụ VPHC xảy ra trên tất cả các lĩnh vực quản lý của nhà nước, của các ngành, địa phương. Trong những năm gần đây, tình hình VPHC trong lĩnh vực ANTT có chiều hướng gia tăng về vụ việc, đối tượng; tính chất, mức độ VPHC ngày càng tinh vi, số vụ chống người thi hành công vụ ngày càng gia tăng… ảnh hưởng xấu đến TTATXH. Công tác XLVPHC của lực lượng Công an nhân dân (CAND) trong thời gian qua gặp nhiều khó khăn… Vì vậy, cần phải nghiên cứu để tổ chức thực hiện tốt công tác QLNN về XLVPHC trong 1 CAND. Thực hiện tốt hoạt động QLNN về XLVPHC trong lĩnh vực ANTT thuộc chức năng của Bộ Công an góp phần bảo đảm TTATXH, hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với công tác XLVPHC ở Việt Nam nói chung, đồng thời khẳng định một bước phát triển mới về cơ chế pháp lý trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở nước ta. Xuất phát từ lý do trên, học viên chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của Bộ Công an” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Luật XLVPHC đã khẳng định vai trò trong đời sống kinh tế, chính trị, pháp lý của đất nước; là một trong những đạo luật được áp dụng nhiều nhất trong thực tiễn đời sống. Ngoài Luật XLVPHC, đã có cả hệ thống pháp luật đồ sộ về XLVPHC được ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật trong lĩnh vực này. Chính vì vậy, đã có nhiều tác giả đã lựa chọn các vấn đề xung quanh hoạt động XLVPHC là đề tài nghiên cứu khoa học. - Nguyễn Văn Mừng, Quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân tỉnh về xử lý vi phạm hành chính từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội (2015): Luận văn đã làm rõ những vấn đề cơ bản của pháp luật về XLVPHC; phân tích, đánh giá về tình hình VPHC, tình hình XLVPHC, tình hình QLNN về XLVPHC tại địa bàn nghiên cứu; chỉ ra những hạn chế, bất cập, nguyên nhân của hạn chế từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QLNN về XLVPHC. - Lưu Trí Vượng, Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự đô thị từ thực tiễn thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội (2015): Luận văn đã hệ thống hóa, phân tích một số vấn đề lý luận về VPHC và XLVPHC; nghiên cứu cơ sở lý luận và quy định 2 của pháp luật về VPHC và XLVPHC; phân tích thực trạng VPHC và XLVPHC trong lĩnh vực trật tự đô thị, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động XLVPHC trong lĩnh vực nêu trên tại địa bàn nghiên cứu. - Nguyễn Trọng Tài, Xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội (2016): Luận văn nghiên cứu những vấn đề cơ bản về pháp luật XLVPHC, thực hiện pháp luật XLVPHC trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói chung và hoạt động kê biên tài sản riêng để thi hành án dân sự nói riêng. Luận văn đã bước đầu cung cấp luận cứ khoa học phục vụ việc tiếp tục nghiên cứu và xây dựng những vấn đề về các giải pháp nâng cao hiệu quả XLVPHC trong lĩnh vực kê biên tài sản để thi hành án dân sự. - Trần Thị Hương, Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội (2016): Luận văn đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận về XLVPHC trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; phân tích, đánh giá thực trạng XLVPHC về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn nghiên cứu; từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, bảo đảm hoạt động XLVPHC trong lĩnh vực này. - Phùng Thị Thanh, Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội (năm 2018): Đề tài nghiên cứu công tác XLVPHC trong lĩnh vực xây dựng; đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong QLNN về trật tự xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội; đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN về trật tự xây dựng nói chung và công tác XLVPHC trong xây dựng nói riêng. 3 Các công trình khoa học nêu trên đã phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến VPHC và XLVPHC ở các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội... Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu dưới góc độ QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên, tác giả luận văn đã nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu về QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an; đánh giá kết quả đạt được, những khó khăn, hạn chế trong công tác QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an. Trên cơ sở đó, đề xuất các các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về QLNN về XLVPHC, QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an: khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của QLNN về XLVPHC; phân tích quy định của pháp luật về QLNN về XLVPHC; đi sâu phân tích về nội dung QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an. - Nêu và đánh giá thực trạng tình hình VPHC và công tác XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an; đánh giá thực trạng QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an. Phân tích các kết quả đạt được, khó khăn và nguyên nhân của khó khăn đó từ thực tiễn QLNN về XLVPHC của Bộ Công an. - Tổng hợp kết quả nghiên cứu, đưa ra dự báo tình hình liên quan đến QLNN về XLVPHC của Bộ Công an; qua đó đề xuất một số giải pháp góp 4 phần nâng cao hiệu quả công tác QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn liên quan đến công tác QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về hoạt động QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an. Thời gian nghiên cứu được giới hạn từ năm 2014 cho đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu, trên cơ sở của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về QLNN về XLVPHC. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng nội dung của luận văn, cụ thể là: Chương 1: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp... để làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của QLNN về XLVPHC nói chung và QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an nói riêng. Chương 2: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để làm rõ thực trạng tình hình VPHC và công tác XLVPHC của Bộ Công an qua các năm; thực trạng QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an. Chương 3: Luận văn sử dụng phương pháp quan sát, phân tích, tổng hợp để dự báo tình hình có liên quan đến QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an; từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt lý luận: Trên cơ sở phân tích lý luận và quy định của pháp luật về QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an, luận văn góp phần bổ sung, làm phong phú thêm các quan điểm, nhận thức và các vấn đề lý luận chuyên ngành về công tác QLNN về XLVPHC. - Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có tính thực tiễn và khả thi; có thể được áp dụng vào thực tiễn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và các danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương với các nội dung cơ bản sau: Chương 1. Nhận thức chung về quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của Bộ Công an. Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của Bộ Công an. Chương 3. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của Bộ Công an. 6 Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC NĂNG CỦA BỘ CÔNG AN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính 1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Theo cách hiểu chung nhất hiện nay thì quản lý là sự tác động lên một hệ thống nào đó với mục tiêu đưa hệ thống đó đến trạng thái cần đạt được. Quản lý là một phạm trù xuất hiện trước khi có Nhà nước với tính chất là một loại lao động xã hội hay lao động chung được thực hiện ở quy mô lớn. Quản lý được phát sinh từ lao động, không tách rời với lao động và bản thân quản lý cũng là một loại hoạt động lao động. Định nghĩa chung nhất về quản lý được nêu trong Từ điển Tiếng Việt, cụ thể như sau: Quản lý là “tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [59, tr.800 - 801]. Khái niệm này tương đồng với các khái niệm chỉ đạo, điều hành, điều khiển. Khái niệm quản lý ở đây là muốn nói đến quản lý con người, quản lý xã hội và biểu hiện cụ thể nhất là ở quản lý nhà nước. QLNN là một phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước, QLNN ra đời với tính chất là loại hoạt động quản lý xã hội. QLNN là quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu và quan trọng của con người. Ðiểm khác nhau cơ bản giữa QLNN và các hình thức quản lý khác (ví dụ: quản lý của các tổ chức xã hội…) là tính quyền lực nhà nước gắn liền với cưỡng chế nhà nước khi cần thiết. QLNN hiểu theo nghĩa rộng, được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước; theo nghĩa hẹp, QLNN là hoạt động chấp hành và điều hành được đặc trưng bởi các yếu tố có tính tổ chức; được thực hiện trên cơ sở và để thi hành 7 pháp luật; được bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước (hoặc một số tổ chức xã hội trong trường hợp được giao nhiệm vụ QLNN). QLNN cũng là sản phẩm của việc phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp các đối tượng bị quản lý. Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm chung nhất về QLNN được hiểu là “tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội theo pháp luật” [59, tr. 801]. Ở Việt Nam, khái niệm VPHC đã xuất hiện từ lâu, tuy nhiên, còn có những ý kiến khác nhau về việc định nghĩa khái niệm này trong khoa học pháp lý và pháp luật thực định. VPHC được định nghĩa lần đầu tại Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt VPHC năm 1989 “là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc QLNN mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 không đưa ra khái niệm “VPHC” mà chỉ đưa ra quy định về “xử phạt VPHC” tại khoản 2 Điều 1: “Xử phạt VPHC được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý vi phạm các quy định của pháp luật về QLNN mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC”. Dù không trực tiếp định nghĩa nhưng khái niệm VPHC được mô tả gián tiếp qua một số dấu hiệu đặc trưng đó là: tính trái pháp luật hành chính của hành vi; tính nguy hiểm cho xã hội; tính có lỗi của chủ thể; tính chịu trách nhiệm hành chính. Luật XLVPHC năm 2012 đã đưa ra định nghĩa về “VPHC” tại khoản 1 Điều 2 như sau: “VPHC là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về QLNN mà không phải tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC”. Bên cạnh khái niệm “VPHC”, cần thiết phải nghiên cứu một khái niệm khác cũng rất cơ bản và liên quan mật thiết đến vấn đề này, đó là khái niệm XLVPHC để phân biệt với khái niệm xử phạt VPHC và áp dụng các biện 8 pháp XLHC. Theo quy định của pháp luật về XLVPHC trước khi Luật XLVPHC năm 2012 được ban hành, XLVPHC gồm xử phạt VPHC và các biện pháp khác (GDTXPTT, đưa vào TGD, đưa vào CSGDBB, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính). Theo quy định của Luật XLVPHC năm 2012, XLVPHC gồm xử phạt VPHC và áp dụng biện pháp XLHC (gồm: GDTXPTT, đưa vào TGD, đưa vào CSGDBB, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc). XLVPHC là một công cụ quan trọng trong hoạt động QLNN nhằm duy trì trật tự, kỷ cương quản lý hành chính của Nhà nước. Theo nghĩa khái quát, XLVPHC là việc áp dụng một biện pháp cưỡng chế hành chính của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức có hành vi VPHC. Trong cách định nghĩa cụ thể hơn, XLVPHC được hiểu là hoạt động áp dụng pháp luật của các chức danh có thẩm quyền XLVPHC để xử phạt hành chính hoặc áp dụng biện pháp XLVPHC tương ứng với hành vi VPHC của các tổ chức, cá nhân. Dù được nhìn nhận từ góc độ nào thì XLVPHC đều phản ánh những đặc điểm sau: Thứ nhất, XLVPHC là hoạt động áp dụng pháp luật về XLVPHC. Việc tiến hành XLVPHC đòi hỏi phải đúng trình tự, thủ tục đã được pháp luật quy định. Kết quả XLVPHC phải được thể hiện bằng quyết định XLVPHC có hiệu lực pháp luật. Thứ hai, XLVPHC là hoạt động cưỡng chế nhà nước do các chủ thể (chức danh) có thẩm quyền XLVPHC tiến hành và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Thứ ba, đối tượng tác động của XLVPHC là cá nhân hoặc tổ chức đã thực hiện VPHC. Thứ tư, mục đích của XLVPHC là nhằm truy cứu trách nhiệm hành chính một hành vi VPHC, qua đó, buộc chủ thể VPHC phải gánh chịu một biện pháp cưỡng chế tương ứng với hành vi vi phạm của mình. Như vậy, VPHC là cơ sở phát sinh hoạt động XLVPHC. 9 Theo quy định của Luật XLVPHC năm 2012, XLVPHC bao gồm các hoạt động XPVPHC và hoạt động áp dụng các biện pháp XLHC. Trong đó: Xử phạt VPHC: là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi VPHC theo quy định của pháp luật về xử phạt VPHC (Khoản 2 Điều 2). Các hình thức xử phạt VPHC được quy định từ Điều 21 đến Điều 27 trong Luật này bao gồm: cảnh cáo; phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật VPHC, phương tiện được sử dụng để VPHC; trục xuất. Trong đó, hình thức xử phạt cảnh cáo và phạt tiền là hai hình thức xử phạt chính, các hình thức xử phạt còn lại vừa là áp dụng hình thức xử phạt chính, vừa được áp dụng là hình thức xử phạt bổ sung. Cùng với các hình thức xử phạt VPHC, chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả được quy định từ Điều 28 đến Điều 37, bao gồm: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép; buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện; buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại; buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm; buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật và các biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định. 10 Biện pháp XLHC: là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về ANTT, ATXH mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp: GDTXPTT; đưa vào TGD; đưa vào CSGDBB và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Khoản 3 Điều 2). Theo quy định của Luật XLVPHC năm 2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp GDTXPTT; Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào TGD; đưa vào CSGDBB và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc áp dụng các biện pháp XLHC được áp dụng theo một quy trình gồm nhiều bước với sự tham gia của nhiều cơ quan tổ chức khác nhau, trong đó có cơ quan Công an. Theo quy định pháp luật hiện hành thì có thể xác định hoạt động QLNN về XLVPHC là hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước và được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan, cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước. Trên cơ sở quy định của Luật XLVPHC thì hoạt động QLNN về XLVPHC được thực hiện từ trung ương đến địa phương và trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Trong đó, Chính phủ thống nhất QLNN về XLVPHC trong phạm vi cả nước; Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QPNN về XLVPHC; các bộ, ngành, địa phương thực hiện hoặc phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện các nhiệm vụ, nội dung QLNN về XLVPHC thuộc phạm vi, chức năng được giao. Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm QLNN về XLVPHC như sau: “QLNN về XLVPHC là sự tác động đồng bộ, có tổ chức của các chủ thể có thẩm quyền đối với hoạt động XLVPHC nhằm duy trì trật tự, kỷ cương quản lý hành chính của Nhà nước”. Sự tác động này được biểu hiện qua việc ban hành văn bản QPPL về XLVPHC; tổ chức thực hiện và kiểm tra theo dõi hoạt động XLVPHC. 11 1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính Một là, QLNN về XLVPHC là hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước và được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan, người có thẩm quyền trong bộ máy hành chính nhà nước. Điều này thể hiện trước hết qua việc một số cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước được trao thẩm quyền ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định về XLVPHC. Vấn đề đã nêu xuất phát từ một thực tế là văn bản QPPL có hiệu lực cao nhất về XLVPHC thường chỉ quy định những vấn đề chung mang tính nguyên tắc, đòi hỏi phải có văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành thì mới có thể đi vào thực tiễn QLNN trong từng lĩnh vực, từng địa phương. Việc ban hành các văn bản loại này thường được giao cho cơ quan hành chính nhà nước cao nhất (Chính phủ) và một số cơ quan khác trong bộ máy hành chính nhà nước (có thể là Bộ, cơ quan ngang Bộ đối với lĩnh vực hoặc ngành được phân công phụ trách; cũng có thể là một số cơ quan chính quyền địa phương đối với những vấn đề của địa phương mà văn bản của cơ quan trung ương cho phép quy định). Về nguyên tắc, việc ban hành các văn bản loại này phải đạt được mục đích cụ thể hoá quy định trong các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nội dung các văn bản loại này phải phù hợp với quy định trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Hai là, để bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan chức năng xử lý vi phạm pháp luật nói chung và XLVPHC nói riêng, bên cạnh việc ban hành các văn bản pháp luật, còn luôn đòi hỏi sự nghiêm chỉnh thi hành và tuân thủ pháp luật, có biện pháp tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật và kỷ cương xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, trong quá trình XLVPHC, tình hình vi phạm các yêu cầu về pháp chế của một số cơ quan chức năng vẫn còn tồn tại. Có nơi, có lúc kỷ cương xã hội và trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp, 12 tính mạng và tài sản của nhân dân bị xâm phạm. Để nhanh chóng phát hiện và sớm có biện pháp chấn chỉnh kịp thời tình trạng trên, bên cạnh việc tăng cường sự giám sát, kiểm tra của các tổ chức, xã hội và của nhân dân, của cơ quan, tổ chức đối với việc XLVPHC thì việc hình thành công tác QLNN về XLVPHC, trong đó quy định rõ cơ quan có thẩm quyền quản lý thống nhất, cơ quan chịu trách nhiệm đầu mối là hết sức quan trọng, bảo đảm việc tổ chức, áp dụng và thi hành pháp luật XLVPHC nghiêm túc, chính xác và chặt chẽ. Ba là, cơ quan và người có thẩm quyền trong bộ máy hành chính nhà nước là chủ thể chủ yếu trong việc áp dụng các biện pháp XLVPHC, đồng thời cũng là chủ thể chủ yếu có trách nhiệm tổ chức thực hiện, áp dụng các biện pháp cưỡng chế, kiểm tra việc thực hiện các quyết định XLVPHC trong trường hợp cần thiết. Từ thực tiễn thực hiện nhiệm vụ XLVPHC, cơ quan và người có thẩm quyền trong bộ máy hành chính nhà nước có thể phát hiện những bất cập trong các quy định pháp luật về nội dung cũng như thủ tục tiến hành hoạt động. Trên cơ sở đó đóng góp những ý kiến xác đáng nhằm hoàn thiện pháp luật về XLVPHC. 1.1.3. Vai trò và ý nghĩa quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính Trong những năm qua, XLVPHC đã góp phần quan trọng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với các VPHC ở nước ta, bảo đảm trật tự QLNN, ANTT, ATXH. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội thì việc XLVPHC trong thời gian qua có diễn biến phức tạp và chưa được quản lý thống nhất nên đã gây ra những khó khăn, bất cập làm ảnh hưởng hiệu lực QLNN, ảnh hưởng đến ANTT, ATXH. Do vậy, thực hiện tốt QLNN về XLVPHC có vai trò, ý nghĩa quan trọng: Thứ nhất, QLNN về XLVPHC là công cụ quan trọng nhằm duy trì trật tự, kỷ cương hành chính trong lĩnh vực bảo đảm ANTT thuộc chức năng của Bộ Công an. Với chức năng, nhiệm vụ được giao là tham mưu giúp Đảng và 13 Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng, chống tội phạm; QLNN về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng, chống tội phạm trong phạm vi cả nước; trực tiếp đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các vi phạm pháp lật về an ninh quốc gia, TTATXH, việc thực hiên tốt công tác QLNN về XLVPHC sẽ là công cụ hữu hiệu để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao của lực lượng CAND. Thứ hai, QLNN về XLVPHC giúp kịp thời xử lý, ngăn chặn các hành vi VPHC trong lĩnh vực ANTT, thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của pháp luật đối với các hành vi vi phạm để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức, cơ quan; duy trì trật tự QLNN trong lĩnh vực ANTT. Bên cạnh đó, QLNN về XLVPHC giúp cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý chính xác về mặt hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội mà trước đố đã xử phạt VPHC theo quy định của Bộ luật Hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm. Thứ ba, QLNN về XLVPHC đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật, góp phần răn đe, giáo dục về ý thức pháp luật đối với mọi cá nhân, tổ chức. Thông qua việc xử phạt VPHC sẽ góp phần làm cho đối tượng có hành vi vi phạm nhận thức đầy đủ về trách nhiệm pháp lý của mình để thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Hay đối với người chưa thành niên, việc áp dụng các biện pháp thay thế xử lý VPHC như nhắc nhở hoặc quản lý tại gia đình giúp nhóm đối tượng này nhận thức được hành vi vi phạm của mình để tránh lặp lại hành vi vi phạm. Thứ tư, QLNN về XLVPHC phục vụ có hiệu quả các hoạt động nghiệp vụ của lực lượng CAND theo quy định của pháp luật. Thông qua công tác này, các cơ quan chức năng trong CAND đã chủ động phòng ngừa, phát hiện và có các biện pháp, giải pháp kịp thời loại bỏ các nguyên nhân và điều kiện 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan