PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Chiến lược phát triển ngành Dầu khí đến năm 2015 và định hướng đến năm
2025 xác định phải nhanh chóng xây dựng PetroVietnam trở thành một Tập đoàn
Công nghiệp- Thương mại- Tài chính Dầu khí quan trọng, hoàn chỉnh hoạt động
trong và ngoài nước.
Với nhiệm vụ xây dựng PVFC trở thành trung tâm tài chính của Tập đoàn Dầu
khí Quốc gia Việt nam, hoạt động đầu tư, trong đó có hoạt động đầu tư chứng khoán
đang ngày càng phát triển trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của Công ty Tài chính Dầu khí. Với việc nguồn vốn đầu tư, bao gồm nguồn vốn tự
có và nguồn vốn uỷ thác đầu tư đang ngày càng tăng nhanh, danh mục đầu tư của
PVFC cũng ngày càng đa dạng, cả về khối lượng đầu tư, hình thức đầu tư và lĩnh
vực đầu tư.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế hiện nay, nền kinh tế Việt
nam nói chung và môi trường đầu tư nói riêng đang có rất nhiều cơ hội và thách
thức. Đặc biệt, đối với thị trường chứng khoán còn non trẻ của Việt nam, hoạt động
đầu tư chứng khoán còn gặp phải nhiều thách thức to lớn hơn. Do đó, để xây dựng
và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán hiệu quả, đạt được các mục tiêu chiến
lược là bảo tồn và phát triển nguồn vốn, nâng cao vị thế của Công ty Tài chính Dầu
khí và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam trong lĩnh vực đầu tư tài chính, thì bên
cạnh việc đa dạng ho á danh mục đầu tư, vai trò quản trị danh mục đầu tư là vô cùng
quan trọng.
Chính vì vậy, đề tài “Quản lỷ rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tại
Công ty Tài chính Dầu khí’ sẽ tập trung nghiên cứu, xây dựng và hệ thống phương
pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư tại PVFC, góp phần tăng hiệu quả hoạt
động đầu tư chứng khoán của PVFC.
2. Muc đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đầu tu chứng khoán, quản lý rủi ro đầu
tu chứng khoán.
- Phân tích thực trạng hoạt động đầu tu chứng khoán, các biện pháp quản lý rủi
ro tại PVFC, từ đó nêu lên những kết quả đạt đuợc và những mặt còn hạn chế.
- Đồ xuất giải pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tu chứng khoán tại
PVFC.
3. Đối tương và pham vi nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động quản lý rủi ro trong đầu tu chứng khoán tại Công ty Tài
chính Dầu khí từ năm 2001 đến năm 2007.
4. Các phương pháp nghiên cứu
- Dựa trên cơ sở các lý luận cơ bản vị kinh tế học và phuơng pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử.
- Khảo sát số liệu thực tế qua các báo cáo tổng kết tại Công ty Tài chính Dầu
khí.
- Sử dụng phuơng pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp nhằm rút ra
những kết luận có tính quy luật đối với các vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn.
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tu chứng khoán, quản lý rủi
ro trong đầu tu chứng khoán.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đầu tu chứng khoán, quản lý rủi ro đầu tu
chứng khoán tại Công ty Tài chính Dầu khí.
- Đồ xuất giải pháp quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tu chứng khoán tại
PVFC.
6. Bố cục của luân văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chuơng:
Chương 1: Tổng quan quản lý rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản lý rủi ro đầu tư chứng khoán tại Tổng
Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán tại
Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
CHỨNG KHOÁN
CHƯƠNGI
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1.1.
Chứng khoán và đầu tư chứng khoán.
1.1.1. Chứng khoán
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chứng khoán, tuy nhiên, theo nghĩa chung
nhất, có thể hiểu Chứng khoán là các loại giấy tờ có giá và có thể mua bán trên thị
trường, gọi là thị trường chứng khoán, khi đó chứng khoán là hàng hóa trên thị
trường đó. Dùng Security, nghĩa gốc là an toàn, để gọi tên chứng khoán xuất phát từ
việc coi nắm giữ chứng khoán là việc sở hữu an toàn và thuận tiện một tài sản nào
đó. Chứng khoán chính là tài sản tài chính vỉ nó mang lại thu nhập và khi cần người
sở hữu nó có thể bán nó để thu tiền về. Chứng khoán có rất nhiều loại: cổ phiếu, trái
phiếu và một số loại khác như quyền mua cổ phiếu mới, hợp đồng tương lai, hợp
đồng quyền chọn, chứng chỉ quỹ đầu tư. Nói chung, người ta phân chia chứng
khoán thành 4 nhóm chính là cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán có thể chuyển đổi
và các chứng khoán phái sinh.
* Cổ phiếu: là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc
bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ
phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần.
Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có hai loại
cổ phiếu cơ bản: cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
- Cổ phiếu phổ thông: là loại cổ phiếu có thu nhập phụ thuộc vào hoạt động
kinh doanh của công ty. Người sở hữu cổ phiếu phổ thông được tham gia họp Đại
hội đồng cổ đông và được bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng nhất của
công ty, được quyền bầu cử và ứng cử vào Hội đồng quản trị của công ty.
- cổ phiếu ưu đãi: tương tự như cổ phiếu phổ thông nhưng cổ đông sở hữu nó
không được tham gia bầu cử và ứng cử vào Hội đồng quản trị, nhưng lại có quyền
được hưởng thu nhập cố định hàng năm theo một tỷ lệ lãi suất cố định không phụ
thuộc vào lợi nhuận của công ty, được ưu tiên chia lãi cổ phần trước cổ đông phổ
thông và được ưu tiên chia tài sản còn lại của công ty khi công ty thanh lý, giải thể.
* Trái phiếu: Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người
phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho
vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và
phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Thông thường, căn cứ vào đối tượng phát hành Trái phiếu, người ta chia Trái
phiếu thành 2 loại: Trái phiếu chính phủ và Trái phiếu Công ty.
* Chứng khoán có thể chuyển đổi: là những chứng khoán cho phép người
nắm giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy
một chứng khoán khác.
Thông thường, có cổ phiếu ưu đãi được chuyển thành cổ phiếu thường và trái
phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu thường.
* Chứng khoán phái sinh là một loại chứng khoán được phát hành trên cơ sở
các loại chứng khoán đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm mục đích giảm thiểu rủi
ro, bảo toàn nguồn vốn đầu tư và thu lợi nhuận.
Có 4 loại chứng khoán phái sinh cơ bản là hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ
hạn, quyền chọn và hợp đồng hoán đổi.
1.1.2. Đầu tư chứng khoán:
1.1.2.1. Khải niệm
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là quá trình sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm
thu lại lợi ích nào đó trong tương lai. Các nguồn lực sử dụng vào quá trình đầu tư
được gọi là vốn đầu tư và có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
như: vốn bằng tiền (nội tệ, ngoại tệ), kim khí quý, đá quý, đất đai, bất động sản, tài
nguyên, giá trị thương hiệu, phát minh sáng chế...
Lợi ích của đầu tư cũng được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau tuỳ theo mục
đích của hoạt động đầu tư như: lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng,
bảo vệ môi trường...Trong hoạt động kinh tế mục đích chủ yếu và trước hết của
hoạt động đầu tư là để thu lợi nhuận.
Hoạt động đầu tư có thể do một tổ chức hoặc một cá nhân thực hiện dưới nhiều
hình thức. Song nếu căn cứ vào mối liên hệ trực tiếp giữa chủ đầu tư và đối tượng
đầu tư người ta thường chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản
lý điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, được thực hiện dưới các hình thức như
góp vốn kinh doanh hoặc thực hiện các hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư không trực tiếp tham gia
điều hành hoạt động của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, được thực hiện dưới các
hình thức như đầu tư chứng khoán hoặc cho vay đầu tư đối với các tổ chức kinh tế.
Như vậy đầu tư chứng khoán là một trong những hình thức đầu tư gián tiếp của
các nhà đầu tư vào các doanh nghiệp, ở đó chủ đầu tư bỏ vốn để mua
các chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) của doanh nghiệp đang luu hành trên thị
truờng chứng khoán nhằm đạt đuợc những lợi ích nhất định.
Đầu tu chứng khoán là một hình thức đầu tu khá phổ biến ở các nuớc có nền
kinh tế thị truờng và thị truờng chứng khoan phát triển. Mục đích của đầu tu chứng
khoán truớc hết là nhằm thu đuợc lợi nhuận từ số tiền đã bỏ ra đầu tu. Phần lợi
nhuận này đuợc hình thành từ lợi tức chứng khoán mà chủ doanh nghiệp trả cho
nguời đầu tu theo quy định và phần chênh lệch giá chứng khoán khi họ chuyển
nhuợng quyền sở hữu chứng khoán trên thị truờng. Tiếp đến mục đích của đầu tu
chứng khoán là để phân tán rủi ro có thể gặp trong tuơng lai nhu đa dạng hoá các
hình thức đầu tu; để thực hiện quyền kiểm soát hoặc tham gia quản trị doanh nghiệp
với tu cách nguời nắm cổ phần, vốn góp chi phối. Các mục đích có thể khác nhau
tuỳ theo ý định của nhà đầu tu, song cũng có thể là tổng hợp các mục tiêu trên trong
những tình huống cụ thể.
1.1.2.2.
•
Các hình thức đầu tư chứng khoản
Theo loại chứng khoán đầu tư
Các chứng khoán doanh nghiệp có nhiều loại nhu cổ phiếu (cổ phiếu ưu đãi, cố
phiếu thường...}, trái phiếu (trái phiếu thường, trái phiếu có khả năng chuyến
đối...}, các chứng khoán phái sinh (hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn, chứng
quyền, chứng khế...}. Mỗi loại chứng khoán có khả năng sinh lời cũng nhu mức độ
rủi ro, khả năng thanh khoản, quyền kiểm soát hoặc tham gia quản trị doanh nghiệp
khác nhau. Vì vậy, khi lựa chọn quyết định đầu tu chứng khoán, nhà đầu tu phải
tính toán, cân nhắc kỹ các điểm lợi hoặc bất lợi khi đầu tu vào loại chứng khoán
đuợc lựa chọn sao cho có thể tối đa hoá đuợc lợi ích của mình.
•
Theo phương thức đầu tư chứng khoán
Nhà đầu tư chứng khoán có thể thực hiện đầu tư theo các phương thức khác
nhau, về cơ bản có hai phương thức đầu tư chứng khoán là đầu tư trực tiếp và đầu
tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thức các nhà đầu tư trực tiếp mua chứng khoán
cho mình thông qua các nhà môi giới chứng khoán trên thị trường. Trái lại, trong
phương thức đầu tư gián tiếp, các nhà đầu tư chứng khoán thông qua các định chế,
tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như Quỹ đầu tư chứng khoán, Quỹ tín thác đầu tư...để
thực hiện hoạt động đầu tư cho mình. Do các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp có đội
ngũ các chuyên gia đầu tư và quản lý đầu tư chuyên nghiệp, có khả năng phân tích
và đánh giá thị trường nên có thể giúp cho các nhà đầu tư tránh được các rủi ro
không đáng có và đạt được hiệu quả đầu tư chứng khoán cao hơn.
• Theo thời hạn đầu tư chứng khoán
Theo thời hạn thanh toán, các chứng khoán của doanh nghiệp có thể chia thành
chứng khoán ngắn hạn và chứng khoán dài hạn. Các chứng khoán ngắn hạn là các
chứng khoán có thời hạn từ dưới 01 năm (3 tháng, 6 tháng, 9 tháng...); ngược lại,
các chứng khoán có thời gian đáo hạn thanh toán từ 01 năm trở lên được gọi là các
chứng khoán dài hạn. Các chứng khoán có thời gian đáo hạn càng dài thì mức độ
rủi ro có thể gặp càng lớn và tính thanh khoản càng thấp.
1.1.2.3. Các nhân tổ ảnh hưởng đến quyết định ĐTCK
Các nhân tố cơ bản để xem xét quyết định đầu tư bao gồm:
- Khả năng sinh lời từ khoản đầu tư chứng khoán trong tương lai. Mục đích
trước hết của đầu tư chứng khoán là nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai, vì
vậy khả năng sinh lợi của khoản đầu tư chứng khoán là nhân tố cần được xem xét
hàng đầu. Tuy nhiên khả năng sinh lời của chứng khoán lại chịu ảnh hưởng bởi
nhiều nhân tố khác như: lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh;
chính sách kinh tê của nhà nước; khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường; chính sách chi trả lợi tức cổ phần của doanh nghiệp... Vì thế để tối đa ho á
lợi nhuận, nhà đầu tư cần phải phân tích, đánh giá kỹ các nhân tố có thể ảnh hưởng
đến khả năng sinh lời nêu trên để lựa chọn quyết định đầu tư cho phù hợp.
- Mức độ rủi ro có thể gặp của loại chứng khoán được đầu tư; để có thể thu
được lợi nhuận tối đa trong đầu tư chứng khoán nhà đầu tư còn phải biết cách tối
thiểu hoá các rủi ro có thể gặp. Việc đánh giá mức độ rủi ro trong đầu tư chứng
khoán không chỉ đối với từng loại chứng khoán riêng rẽ mà còn đối với toàn bộ
danh mục đầu tư chứng khoán nhằm hạn chế và phân tán rủi ro. Thông thường, mức
độ rủi ro có sự khác biệt nhất định giữa các chứng khoán vốn và chứng khoán nợ,
giữa chứng khoán có thời hạn thanh toán khác nhau, giữa chứng khoán có khả năng
chuyển đổi hoặc không chuyển đổi, giữa chứng khoán của các doanh nghiệp hoặc
ngành kinh doanh khác nhau.. .Việc đánh giá mức độ rủi ro đầu tư chứng khoán
cũng đòi hỏi năng lực, kỹ năng phân tích đánh giá rủi ro nhất định của các nhà đầu
tư chứng khoán trên thị trường.
- Khả năng thanh khoản của chứng khoán đầu tư: tính thanh khoản (hay còn
gọi là tính lỏng) của chứng khoán là khả năng dễ dàng chuyển đổi chứng khoán
thành tiền mặt. Thông thường khi có số tiền mặt nhàn rỗi nhà đầu tư thường đầu tư
chứng khoán để thu lợi nhuận, song khi cần tiền mặt để đáp ứmg các nhu cầu cá
nhân hoặc chuyển hướng đầu tư họ lại muốn chuyển nhượng chứng khoán đang sở
hữu để thu tiền về. Nếu cá chứng khoán mà họ sở hữu có khả năng thanh khoản
cao, việc sở hữu chứng khoán cũng tiện ích không khác gì việc nắm giữ tiền mặt thì
sẽ khuyến khích họ đầu tư chứng khoán và ngược lại. Do đo tính thanh khoản của
chứng khoán cũng là một yếu tố quan trọng để các nhà đầu tư cần xem xét, lựa
chọn.
- Mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Đôi
khi mức độ và khả năng kiểm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp cũng là
một nhân tố được xét đến khi lựa chọn quyết định đầu tư chứng khoán. Quyền hạn
và lợi ích của nhà đầu tư chứng khoán thường được tăng them theo mức độ nắm giữ
cổ phần của doanh nghiệp. Vì vậy khi đầu tư chứng khoán họ cũng cần cân nhắc
quy mô đầu tư sao cho có thể đạt được mục đích kiểm soát, chi phối hoạt động của
doanh nghiệp, hỗ trợ cho việc thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình.
1.2. Rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
1.2.1. Định nghĩa:
Rủi ro theo định nghĩa của từ điển là một từ bị động, có nghĩa là bị đặt trước
mối nguy hoặc nguy hiểm. Vì vậy nó mang ý nghĩa xấu.
Trong kinh tế, khái niệm rủi ro được mở rộng hơn và có sự khác biệt lớn. Rủi ro
chỉ đến một khả năng chúng ta nhận được thu nhập cho một khoản đầu tư khác với
thu nhập mà chúng ta mong đợi. Vì vậy rủi ro không chỉ mang ý nghĩa xấu mà còn
có ý nghĩa tốt ( khi mà thu nhập nhận được lớn hơn thu nhập mong đợi). Rủi ro
chứa đựng cả sự nguy hiểm và những cơ hội, chính vì vậy nó phản ánh sự đánh đổi
rõ ràng giữa rủi ro và lợi nhuận. Vì vậy trong kinh tế thường có câu: rủi ro càng cao
thì lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
Khi nhà đầu tư mua một tài sản với hy vọng nó sẽ đem lại lợi nhuận trong suốt
thời gian họ nắm giữ tài sản đó. Thu nhập thực tế sẽ có thể khác biệt so với thu nhập
mong đợi, và đó là nguồn gốc của rủi ro.
Khi một nhà đầu tư đầu tư vào tín phiếu kho bạc, họ nhận được đúng trái tức
theo mong đợi của họ, có nghĩa là họ đầu tư vào tài sản không có rủi ro.
Ngược lại, khi đầu tư vào cổ phiếu của một công ty, họ kỳ vọng thu được lợi
nhuận là 15%, thực tế thu nhập của họ có thể cao hơn hoặc thấp hơn.
Cần phải ghi nhớ rằng thu nhập mong đợi và độ lệch mà chúng ta xác định trong
thực tế được tính toán dựa vào thu nhập quá khứ hơn là thu nhập tương
lai. Giả định rằng khi sử dụng những biến động trong quá khứ để tính toán có nghĩa
là chúng là những chỉ số tốt nhất của phân phối thu nhập tuơng lai. Khi những giả
định này bị vi phạm, đặc biệt trong truờng hợp đặc tính của tài sản thay đổi lớn qua
thời gian ( các công cụ vốn nhu cổ phiếu...), những số liệu quá khứ không phải là
một phuơng pháp xác định rủi ro tốt.
1.2.2. Phân loại rủi ro chứng khoán:
Nhu đã phân loại ở trên, nguyên nhân dẫn đến rủi ro có hai loại, một loại xuất
phát từ đặc điểm của bản thân công ty {rủi ro không hệ thổng}, một loại khác từ
toàn bộ thị truờng {rủi ro hệ thổng}. Những rủi ro đặc thù tác động đến một hoặc
một vài khoản đầu tu, trong khi rủi ro hệ thống tác động đến tất cả các khoản đầu
tu. Đây là một điều hết sức quan trọng trong quá trình tính toán rủi ro. Rủi ro đuợc
phân chia thành dạng bảng nhu sau:
Cạnh tranh lớn
hơn hoặc yếu hơn
Tỷ giá hôi đoái và rủi ro chính
trị tác động đến nhiều lợi tức
chứng khoán
Khu vực tổng thể có
thể bị tác động bởi
những hành động nào
*'
Những dự án tốt hơn
hoặc xấu hơn dự
kiến
Lãi suất, lạm phát
và những thông tin
về nền kinh tế
Từng doanh
nghiệp cụ thể
Toàn bộ
thị trường
Rủi ro chỉ tác động
đến 01 Công ty
rp r
-X
X- Á
Tác động đên
một số công ty
Tác động nhiêu
công ty
Bảng 1. Phẫn loại rủi ro
Rủi ro tác động đên
mọi khoản đầu tư
1.2.2.1. Rủi ro hệ thống:
Là những rủi ro có ảnh hưởng đồng thời đến hầu hết các chứng khoán đang
được lưu hành trên thị trường. Nguyên nhân của rủi ro hệ thống thường là các tác
nhân kinh tế nằm ngoài sự kiểm soát của các công ty phát hành như: tình trạng lạm
phát hoặc thiểu phát của nền kinh tế, những biến động bất lợi của tỷ giá hối đoái
hoặc lãi suất thị trường, sự suy thoái hay khủng hoảng của nền kinh tế... Các loại rủi
ro hệ thống tiêu biểu bao gồm: rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái,
rủi ro sức mua...
- Rủi ro thị trường là rủi ro do sự biến động của giá cả chứng khoán trên thị
trường. Đó là kết quả của những hiệu ứng về tương quan giữa cung và cầu của các
loại chứng khoán trên thị trường. Nguyên nhân của những biến động giá cả chứng
khoán thường rất phức tạp, có thể cả những sự kiện hữu hình hoặc vô hình, cả
những yếu tố bên trong hoặc ngoài doanh nghiệp. Sự đánh giá khác nhau của các
nhà đầu tư về mức sinh lời của một loại chứng khoán nào đó được giao dịch trên thị
trường cũng có thể gây nên hiệu ứng dây chuyền (hiệu ứng đôminô) đối với giá cả
các loại chứng khoán khác, làm cho giá chứng khoán trên thị trường nói chung bị
sụt giảm.
- Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động lãi suất trên thị trường. Giá cả
chứng khoán luôn biến động tỷ lệ nghịch với lãi suất thị trường, lãi suất thị trường
tăng sẽ làm cho giá thị trường của chứng khoán giảm và ngược lại. Vì thế biến động
lãi suất sẽ làm cho giá trị hiện tại của các khoản thu nhập nhận được từ đầu tư
chứng khoán ở các thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau, do đó ảnh hưởng đến
mức doanh lợi thu được của đầu tư chứng khoán.
- Rủi ro sức mua (còn gọi là rủi ro lạm phát) là loại rủi ro do sự giảm sút về
sức mua đồng tiền. Nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán mặc dù có khả năng thu được
lợi nhuận trong tương lai nhưng họ lại mất đi cơ hội mua sắm các loại hàng hoá,
dịch vụ trong thời hạn nắm giữ chứng khoán. Nếu trong
khoảng thời gian đó giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng lên do yêu tô lạm phát, họ sẽ mất
đi một phần sức mua từ số thu nhập sẽ có đuợc trong tuơng lai. Giá trị phần sức
mua bị giảm sút do lạm phát phản ánh mức rủi ro sức mua của nhà đầu tu chứng
khoán.
1.2.2.2. Rủi ro không hệ thống:
Là những rủi ro có nguyên nhân từ nội tại của một công ty hoặc một ngành kinh
doanh mà không gắn liền với toàn bộ thị truờng. Ảnh huởng của rủi ro không hệ
thống vì thế chỉ tác động trong phạm vi công ty, một ngành hay một số loại chứng
khoán nhất định.
Rủi ro không hệ thống thuờng bao gồm các loại nhu: rủi ro kinh doanh, rủi ro
tài chính, rủi ro quản lý., trong hoạt động của một công ty hoặc một ngành kinh
doanh nhất định.
Rủi ro kinh doanh là những rủi ro về sự không ổn định của thu nhập trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp do những thay đổi bất lợi của môi truờng kinh
doanh hoặc do cung cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị truờng.
Khác với rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính lại là những rủi ro về khả năng
thanh toán lợi tức chứng khoán hoặc hoàn vốn cho nguời sở hữu chứng khoán do
việc lựa chọn cơ cầu tài chính không hợp lý hoặc có sự mất cân đối giữa doanh thu
và chi phí của doanh nghiệp.
Rủi ro quản lý là rủi ro do tác động của các quyết định quản lý không hợp lý từ
các nhà quản trị doanh nghiệp.
1.3. Các biện pháp quản lý rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
Để thực hiện đầu tư chứng khoán có hiệu quả, hạn chế rủi ro, chúng ta cần thực
hiện việc đầu tư và quản lý đầu tư chứng khoán theo các bước sau:
- Phân tích và lựa chọn danh mục đầu tư chứng khoán: Việc đầu tư chứng
khoán thường bắt đầu bằng việc phân tích và lựa chọn danh mục đầu tư chứng
khoán tối ưu sao cho vừa có thể đem lại tỷ suất sinh lời cao, đồng thời hạn chế tối
đa các rủi ro đầu tư có thể gặp phải. Việc lựa chọn một danh mục đầu tư chứng
khoán cụ thể sẽ tuỳ thuộc vào chiến lược đầu tư chứng khoán của từng nhà đầu tư
riêng biệt.
- Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán: Hoạt động đầu tư chứng khoán không
chỉ dừng lại ở chỗ lựa chọn được danh mục đầu tư chứng khoan mà còn ở chỗ quản
lý, điều chỉnh danh mục đầu tư trong suốt thời gian nắm giữ chúng phù hợp với
những diễn biến cụ thể của thị trường.
1.3.1. Phân tích chứng khoán
1.3.1.1. Khải niệm và quy trình thực hiện
Phân tích chứng khoán là bước khởi đầu cho hoạt động đầu tư chứng khoán.
Mục tiêu của phân tích chứng khoán là giúp cho nhà đầu tư chứng khoán lựa chọn
được các quyết định đầu tư chứng khoán có hiệu quả nhất, mang lại lợi nhuận tối đa
và rủi ro tối thiểu.
Kết quả phân tích chứng khoán phải làm rõ được các căn cứ cho sự lựa chọn
quyết định đầu tư. Nó phải trả lời được các câu hỏi cơ bản: khi nào thì nên đầu tư,
nên đầu tư vào loại chứng khoán nào và với giá cả ra sao, khi nào thì nên rút khỏi
thị trường... Để đạt được kết quả đó, việc phân tích chứng khoán cần được tiến hành
theo một quy trình cụ thể, khoa học.
về lý thuyết phương pháp phân tích chứng khoán có thể theo quy trình từ trên
xuống hoặc từ dưới lên. Theo phương pháp phân tích từ trên xuống, người ta
thường bắt đầu từ những phân tích khái quát về tình hình kinh tế vĩ mô (phân tích vĩ
mô) cả trong nước và quốc tế, xem xet những ảnh hưởng, tác động của nó đến hoạt
động của các doanh nghiệp và thị trường chứng khoán,
sau đó mới đi đến phân tích tình hình hoạt động của ngành kinh doanh (phân tích
ngành) và cuối cùng là hoạt động của từng doanh nghiệp, công ty riêng biệt, ưu
điểm nổi bật của quy trình phân tích này là đảm bảo tính hệ thống, phù hợp với
logic nhận thức. Do mục tiêu cuối cùng của hoạt động phân tích đầu tu chứng
khoán là đi tới một quyết định đầu tu chứng khoán cụ thể, vì thể nó đuợc sử dụng
khá phổ biến trong phân tích đầu tu chứng khoán.
Nguợc lại với trình tự trên, phuơng pháp phân tích chứng khoán từ duới lên lại
bắt đầu từ phân tích, đánh giá hoạt động kinh doanh của một công ty cụ thể và đặt
nó trong mối liên hệ tuơng quan giữa hoạt động của công ty với môi truờng kinh
doanh bên ngoài là tình hình hoạt động của ngành hoặc nền kinh tế. Do đặc điểm
trên, phuơng pháp này tỏ ra thích hợp hơn đối với các tổ chức có vai trò tổ chức,
quản lý và giám sát hoạt động của thị truờng chứng khoán hơn là đối với nhà đầu tu
chứng khoán.
1.3.1.2. Phăn tích kinh tế vĩ mô
Môi truờng kinh tế vĩ mô có ảnh huởng rất lớn đến sự phát triển của thị truờng
chứng khoán và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Việc phân tích kinh tế vĩ mô
nhằm mục đích đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế- xã hội của đất nuớc và
tác động của nó đến sự phát triển của thị truờng chứng khoán. Phân tích kinh tế vĩ
mô bao gồm:
- Phân tích môi trường chính trị- xã hội của đất nước:
Môi trường chính trị, xã hội của mỗi quốc gia thể hiện ở hệ thống các yếu tố về
thể chế quản lý xã hội (như hiến pháp, luật pháp, các văn bản pháp quy của cơ quan
hành chính); cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành bộ máy quản lý hành chính nhà
nước các cấp, các tổ chức đoàn thể chính trị- xã hội, tôn giáo...
Sự ổn định của môi trường chính trị- xã hội của đất nước là yếu tố quan trọng
hang đầu đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế, doanh nghiệp và thị trường
chứng khoán. Bởi lẽ sự thay đổi về thể chế chính trị thường kéo theo sự thay đổi về
chính sách kinh tế, xã hội, chính sách chi tiêu ngân sách... ảnh hưởng to lớn đến đời
sống kinh tế của đất nước.
- Ảnh hưởng của môi trường pháp luật
Ngày nay, hầu hết các nước đều quản lý đất nước theo chế độ pháp quyền, vì
thế môi trường pháp luật cũng có tác động quan trọng đến hoạt động của doanh
nghiệp và thị trường chứng khoán. Nền kinh tế thị trường có đặc điểm cơ bản là thị
trường đóng vai trò chính trong sự phân bổ sử dụng các nguồn lực trong xã hội, còn
nhà nước chỉ là người tạo lập khung pháp lý và giám sát thực thi pháp luật của các
chủ thể tham gia thị trường. Do đó, việc ban hành các bộ luật, các chính sách của
Nhà nước, các ban ngành, đặc biệt là các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và thị trường chứng khoán. Việc phân tích
môi trường pháp lý cần được xem xét trên nhiều mặt như: tính hệ thống, đồng bộ,
ổn định, minh bạch, khả thi của hệ thống pháp luật chi phối đến hoạt động của các
doanh nghiệp và thị trường chứng khoán.
- Tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô khác như chu kỳ kinh tế, năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô:
Sự phát triển của nền kinh tế thường biến động theo nhiều chu kỳ kinh tế nhất
định. Thông thường một chu kỳ kinh tế thường bao gồm các giai đoạn tăng trưởng,
ổn định, suy thoái và hồi phục. Việc nghiên cứu, nắm bắt và dự đoán các chu kỳ
kinh tế là rất cần thiết trong đầu tư chứng khoán.
Việc mở cửa, hội nhập kinh tế cũng là một xu thế tất yếu trong phát triển kinh
tế của mỗi nước. Mở cửa, hội nhập vừa đem lại những thời cơ, song
đồng thời cũng đem lại những thách thức, nguy cơ đối với nền kinh tế mỗi nước.
Để đối phó với những nguy cơ trong quá trình hội nhập đòi hỏi kinh tế các nước
phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh,thích ứng dần với nền kinh tế thê
giới.
Khi phân tích các yếu tố kinh tế vĩ mô không thể không xem xét sự biến động
của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản như: tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP),tỷ lệ
thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát và lãi suất thị trường, tỷ giá hối đoái, thu nhập của dân
cư, kim ngạch xuất nhập khẩu, mức bội chi (bội thu) ngân sách, chỉ số giá chứng
khoán trên thị trường... Các yếu tố vĩ mô cơ bản trên đều tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp đến hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán.
1.3.1.3. Phăn tích ngành
Mục đích của phân tích ngành là giúp cho nhà đầu tư thấy rõ những lợi ích hoặc
rủi ro có thể gặp khi quyết định đầu tư vào chứng khoán của một doanh nghiệp hoạt
động trong một ngành kinh doanh cụ thể. Những nội dung cần thực hiện trong phân
tích ngành bao gồm: phân tích chu kỳ kinh doanh của ngành, xác định hệ số rủi ro
của ngành kinh doanh, mức doanh lợi kỳ vọng và các hệ số tài chính khác của
ngành kinh doanh
- Chu kỳ kinh doanh của ngành: Triển vọng và chu kỳ kinh doanh của ngành
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành. Nếu
một công ty hoạt động trong một ngành còn kém phát triển thì khó có triển vọng
đầu tư đem lại hiệu quả cao. Vào cùng một thời điểm nhất định, các doanh nghiệp
kinh doanh trong các ngành khác nhau sẽ có mức doanh lợi thu được khác nhau,
mức rủi ro khác nhau. Do đó cần có sự phân tích đánh giá ngành kinh doanh để
chọn ngành có mức doanh lợi cao, mức độ rủi ro thấp để đầu tư. Ngay trong một
ngành, mức doanh lợi thu được từ hoạt
động đầu tư cũng không ổn định. Vì thế, cũng cần có sự theo dõi phân tích ngành để
lựa chọn thời điểm quyết định đầu tư hay rút khỏi đầu tư phù hợp.
- Đánh giá mức độ rủi ro của ngành kỉnh doanh:
Mỗi ngành kinh doanh khác nhau cũng có mức độ rủi ro khác nhau. Việc xác
định mức độ rủi ro của ngành giúp cho nhà đầu tư lựa chọn được ngành đầu tư có
hiệu quả p với độ rủi ro tối thiểu hoặc có thể chấp nhận được.
Quy trình phân tích, đánh giá rủi ro của ngành kinh doanh thường được tiến
hành theo trình tự sau:
- Xác định hệ số rủi ro (P) của ngành, từ đó tính toán được mức lợi suất đòi
hỏi dựa theo mô hình định giá tài sản vốn (CAPM). Công thức xác định như sau:
E(R) = Rf + P( Rm- Rf)
Trong đó:
E(R) : Mức lợi suất đòi hỏi
Rf: Mức lợi suất phi rủi ro Rm: Mức sinh
lời bình quân thị trường P: Hệ số rủi ro
ngành
- Phân tích hệ số P/E của ngành: Hệ số P/E phản ánh thị trường trả giá cho một
đồng thu nhập sau thuế của cổ phiếu công ty như thế nào. Nếu hệ số P/E cao chứng
tỏ công ty làm ăn có hiệu quả nên được thị trường đánh giá cao và ngược lại. Việc
phân tích hệ số P/E thường được xem xét cả trên 2 góc độ:
- (i) xem xét mối quan hệ giữa hệ số P/E của ngành và hệ số P/E tổng thể của
thị trường để thấy được tính hiệu quả trong hoạt động của công ty so với các doanh
nghiệp trong cùng ngành như thế nào;
- (ii) Xem xét các nhân tố ngành tác động đến hệ số P/E ngành như: hệ số trả
cổ tức, mức doanh lợi đòi hỏi, tỷ lệ tăng trưởng lợi tức hàng năm..
- Uớc tính thu nhập trên một cổ phiếu (EPS hoặc E): thu nhập trên một cổ
phiếu đuợc xác định dựa vào các phuơng pháp chủ yếu nhu phân tích chu kỳ kinh
doanh, phân tích đầu vào- đầu ra, phân tích mối quan hệ giữa ngành và nền kinh tế.
- ước tính mức lợi suất đạt đuợc: Để uớc tính mức lợi suất đạt đuợc phải tiến
hành qua 2 buớc. Truớc hết cần xác định đuợc giá trị cuối kỳ của chỉ số ngành bằng
cách nhân hệ số P/E cuối kỳ tính toán đuợc với uớc tính thu nhập trên một cổ phiếu.
Sau đó so sánh giá trị chỉ số cuối kỳ với giá trị đầu kỳ để uớc tính lợi suất đạt đuợc
(r) theo công thức:
Giá trị chỉ số cuối kỳ - giá trị đầu kỳ + cổ tức nhận trong kỳ r =
Giá trị đầu kỳ
- Lựa chọn quyết định đầu tu hay không: So sánh lợi suất đạt đuợc r với mức
doanh lợi đòi hỏi E (R), nếu r > E(R) thì nên rút khỏi đầu tu vào ngành này.
1.3.1.4. Phân tích bảo cảo tài chỉnh công ty
Thông thuờng, ta phân tích báo cáo tài chính qua các tỷ số tài chính đặc trung,
để có thể phân tích rõ tình hình tài chính của công ty trong một thời kỳ nhất định
• Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
- Hệ số khả năng thanh toán tổng quát
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = Tổng tài sản/Nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Hệ số này cho biết mối quan hệ giữa tổng tài sản mà doanh nghiệp đang quản
lý, sử dụng với tổng số nợ phải trả (gồm cả nợ ngắn hạn và dài hạn), phản ánh một
đồng vay nợ có mấy đồng tài sản đảm bảo. Khi giá trị của hệ số này nhỏ hơn 1 có
nghĩa là tổng tài sản < tổng nợ, nhu vậy toàn bộ số tài sản
hện có của công ty không đủ để thanh toán các khoản nợ, chứng tỏ công ty mất khả
năng thanh toán, gặp khó khăn trong tài chính và có nguy cơ phá sản.
- Hệ số khả năng thanh toán tạm thòi
Hệ số khả năng thanh toán tạm thời = Tổng TSLĐ và đầu tư ngắn hạn/ Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn với các khoản nợ ngắn
- Xem thêm -