ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------
NGUYỄN VĂN THÀNH
QUAN NIỆM CỦA TRƯƠNG VĨNH KÝ
VỀ TỪ LOẠI TIẾNG VIỆT (QUA KHẢO SÁT
“GRAMMAIRE DE LA LANGUE ANNAMITE-1883”)
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ : 62.22.01.01
TÓM TẮT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2017
Công trình được hoàn thành tại:
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Bộ môn: Ngôn ngữ học
Người hướng dẫn khoa học:
1- TS. Huỳnh Bá Lân
2- PGS. TS. Trần Thị Ngọc Lang
Phản biện 1: ........................................................................
Phản biện 2: ........................................................................
Phản biện 3: .........................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở
đào tạo họp tại: ...................................................................
..........................................................................................
vào hồi …. giờ …. ngày ….. tháng …. năm…….
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
..........................................................................................
1
TÓM TẮT LUẬN ÁN
DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1.1. Lý do chọn đề tài
Khi khảo sát cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt, hầu hết giới nghiên
cứu Việt ngữ học đều cho rằng Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum, 1651) do Alexandre de Rhodes
biên soạn là ấn phẩm xuất hiện sớm nhất liên quan đến ngữ pháp tiếng
Việt. Đề cập đến công trình này, nhiều nhà Việt ngữ học nhận thấy
ngoài cách nhìn theo hướng “sao chép, mô phỏng ngữ pháp châu Âu”
(thường được xem là tiêu cực) để miêu tả (giải thích) ngữ pháp tiếng
Việt, tác phẩm kể trên của A. de Rhodes cũng có đóng góp tích cực cho
tiếng Việt vào thời điểm lúc bấy giờ. Chẳng hạn, về từ loại tác giả đã
phân định được bảy kiểu từ loại tiếng Việt: danh từ (bao gộp cả tính từ),
động từ, đại từ, giới từ, trạng từ, thán từ và liên từ. Các từ loại trên được
xác định dựa trên tiêu chí ngữ nghĩa và ngữ pháp tiếng La tinh và tiêu
chí này được xác định dựa vào sự chuyển dịch tiếng Việt sang tiếng La
tinh.
Đến cuối thế kỷ XIX, Trương Vĩnh Ký, một học giả uyên bác,
thông thạo nhiều thứ tiếng, đã biên soạn cuốn Grammaire de la langue
Annamite, 1883 1. Đây là một trong những sách nghiên cứu về ngữ pháp
tiếng Việt được biên soạn rất công phu bằng tiếng Pháp theo mô hình
ngữ pháp tiếng Pháp, một ngôn ngữ biến hình, cùng hệ ngôn ngữ Ấn-Âu
với tiếng La tinh. Khác với Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de
Rhodes, trong Grammaire de la langue Annamite-1883, Trương Vĩnh
1
Một số tác phẩm đươc ghi năm xuất bản là 1884.
2
Ký đã giới thiệu khá đầy đủ về từ loại tiếng Việt ( bao gồm 8 từ loại);
trong đó các từ loại danh từ, đại từ, tính từ và động từ được mô tả khá
chi tiết về đặc điểm cấu tạo, các tiểu loại, khả năng kết hợp, đặc điểm
ngữ pháp v.v.
Cho đến nay, đã có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu nhiều vấn đề
liên quan đến cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt như: những thuộc tính khu biệt
giữa tiếng Pháp (biến hình) và tiếng Việt (không biến hình), quan niệm
và tiêu chí xác định từ loại trong một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt,
khả năng kết hợp của một số từ loại tiếng Việt, chức năng cú pháp (vị
trí) của từ trong ngữ hay câu, vai trò của hư từ v.v.. Những kết quả đạt
được đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề nhưng đồng thời cũng phát sinh nhiều
ý kiến khác nhau về cách xác định một số từ loại tiếng Việt, việc phân
biệt thực từ và hư từ, khả năng kết hợp của một số từ loại, trong đó có
vai trò quan trọng của các hư từ và chức vụ cú pháp của chúng trong
câu.
Để minh định rõ hơn mức độ ảnh hưởng theo xu hướng “Dĩ Âu
vi trung” trong tác phẩm Grammaire de la langue Annamite-1883, cũng
như những đóng góp tích cực của Trương Vĩnh Ký cho ngữ pháp tiếng
Việt nói chung và từ loại tiếng Việt nói riêng, chúng tôi quyết định chọn
đề tài: “Quan niệm của Trương Vĩnh Ký về từ loại tiếng Việt (qua
khảo sát Grammaire de la langue Annamite-1883)” để thực hiện luận
án Tiến sĩ ngữ văn, chuyên ngành Lý luận ngôn ngữ.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là nhằm làm rõ quan niệm của Trương
Vĩnh Ký về cách thức xác định từ loại tiếng Việt khi tác giả dùng khuôn
mẫu của một ngôn ngữ biến hình như tiếng Pháp để mô tả tiếng Việt nói
chung hay ngữ pháp tiếng Việt nói riêng vốn là thứ tiếng không biến
3
hình. Trên cơ sở so sánh việc miêu tả từ loại tiếng Việt dựa vào mô hình
ngữ pháp tiếng Pháp mà Trương Vĩnh Ký sử dụng trong công trình, luận
án sẽ đánh giá khách quan những hạn chế tất yếu do xu hướng “Dĩ Âu vi
trung” gây ra, đồng thời cũng xác định những đóng góp tích cực của tác
giả.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát chủ yếu trong l`uận án này là một số từ loại
tiếng Việt như danh từ, tính từ, động từ v.v. được trình bày trong sách
Grammaire de la langue Annamite của Trương Vĩnh Ký. Việc khảo sát
các hạng mục từ loại này không nhằm mục đích dịch thuật mà thực ra là
để phát hiện những đặc điểm từ vựng và ngữ pháp quan trọng. Trong
mỗi hạng mục từ loại, luận án sẽ đi sâu tìm hiểu về cách định danh, hình
thức cấu tạo, cách phân loại thành những lớp con tức tiểu loại, khả năng
sử dụng riêng lẻ hay có kết hợp và dĩ nhiên không thể không khảo sát
phương diện ngữ nghĩa và cú pháp của chúng.
Có thể xem danh từ, tính từ và động từ là những từ loại quan
trọng của mọi ngôn ngữ nói chung trong đó có tiếng Việt. Về hạng mục
danh từ, trong Grammaire de la langue Annamite, những nội dung
chẳng hạn như: quán từ, danh từ chỉ chủng loại, danh từ đơn vị, khái
niệm giống và số của danh từ tiếng Việt, các cách của danh từ, danh từ
ghép, cách cấu tạo và quan hệ cú pháp của danh từ đều là những vấn đề
rất thú vị để tìm hiểu. Tương tự, ngoài việc tìm hiểu về việc phân loại
tính từ theo hình thức và chức năng ngữ pháp của Trương Vĩnh Ký, luận
án sẽ đi sâu tìm hiểu về các cấp độ của tính từ, nhất là tính từ cực cấp.
Bảng liệt kê chi tiết và phong phú các trường hợp so sánh mà Trương
Vĩnh Ký miêu tả cũng được xem là một nội dung rất đáng nghiên cứu.
4
Đối với động từ, bên cạnh khảo sát việc phân chia các tiểu loại động từ,
luận án sẽ khảo sát tỉ mỉ về khả năng kết hợp của động từ và các thành
tố bổ ngữ của chúng, vốn là đặc trưng của ngôn ngữ đơn lập như tiếng
Việt, mà Trương Vĩnh Ký đã miêu tả khá cặn kẽ.
Ngoài ra, trong Grammaire de la langue Annamite, những nội
dung liên quan đến khả năng kết hợp của một số từ loại tiếng Việt cũng
là một nội dung thú vị, đáng quan tâm nghiên cứu, trong đó có vai trò
quan yếu của các tiểu từ (particules). Nói là đáng quan tâm nghiên cứu
là do bởi nó liên quan đến vấn đề chức năng cú pháp của lớp thực từ
như danh từ, tính từ và động từ, một trong những tiêu chí để phân định
từ loại tiếng Việt
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong số các từ loại tiếng Việt được Trương Vĩnh Ký miêu tả
trong Grammaire de la langue Annamite-1883, luận án chỉ giới hạn
khảo sát bốn từ loại: danh từ, đại từ, tính từ và động từ. Đây là những từ
loại cơ bản được giới Việt ngữ học hiện đại xếp vào lớp thực từ. Việc
khảo sát khả năng kết hợp của từ loại danh từ, tính từ và động từ cho
phép luận án mở rộng phạm vi nghiên cứu vai trò quan trọng của các
tiểu từ (ngày nay được xem là hư từ) về mặt cú pháp cũng như ngữ
nghĩa. Do đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề
ngữ pháp tiếng Việt như: thực từ và hư từ, vấn đề “loại từ”, vai trò của
hư từ trong việc diễn đạt ý nghĩa cách của danh từ, ý nghĩa cực cấp của
tính từ hoặc làm bổ ngữ cho động từ v.v..
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Để khảo sát các từ loại danh từ, đại từ, tính từ và động từ trong
Grammaire de la langue Annamite, một công trình giới thiệu về ngữ
5
pháp tiếng Việt (không biến hình) nhưng được trình bày bằng tiếng
Pháp vốn là một ngôn ngữ biến hình, chúng tôi thiết nghĩ sử dụng
phương pháp miêu tả là khả dĩ nhất để có thể đáp ứng các tiêu chí của
đề tài. Trong quá trình miêu tả, luận án cũng sử dụng phương pháp phân
tích đối với các vấn đề như chức năng cú pháp, khả năng kết hợp của
từng từ loại như danh từ, tính từ và động từ để minh chứng cho quan
niệm của Trương Vĩnh Ký về từ loại tiếng Việt trong tác phẩm, làm rõ
ảnh hưởng tất yếu của xu hướng “Dĩ Âu vi trung”, và những hạn chế
nhất định của tác phẩm…
Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng phương pháp đối chiếu để
làm rõ quan niệm về từ loại của Trương Vĩnh Ký so với quan điểm của
các nhà Việt ngữ học hiện đại. Những nội dung cần đối chiếu bao gồm:
danh từ đơn vị với vai trò trung tâm của danh ngữ, vấn đề ‘loại từ’, cách
thức diễn đạt phạm trù ‘cách’ trong ngôn ngữ không biến hình như tiếng
Việt, vấn đề liên quan đến các phạm trù ‘thì’, ‘thể’ trong tiếng Việt, bổ
ngữ của tính từ (dạng tính từ cực cấp), bổ ngữ của động từ (động từ chỉ
đích), khả năng kết hợp của một số từ loại tiếng Việt v.v..
Đồng thời với phương pháp đối chiếu, trong quá trình khảo sát
đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp của các từ loại danh từ, tính từ và động
từ trong Grammaire de la langue Annamite-1883, luận án cũng vận
dụng phương pháp so sánh để làm rõ sự khác biệt trong cách vận hành
giũa hai loại hình ngôn ngữ: đơn lập (tiếng Việt) và không đơn lập
(tiếng Pháp). Đây cũng là cơ sở để luận án đưa ra những đánh giá khách
quan về mức độ ảnh hưởng của xu hướng “Dĩ Âu vi trung” cũng như
xác định những đóng góp tích cực của Trương Vĩnh Ký đối với Việt ngữ
học.
6
3.2. Nguồn ngữ liệu
Các tài liệu chính được khảo sát trong luận án này ngoài tác
phẩm Grammaire de la langue Annamite của Trương Vĩnh Ký xuất bản
năm 1883, còn có Từ điển Việt-Bồ-La (bản dịch : Nguyễn Khắc Xuyên)
do Alexandre de Rhodes biên soạn và xuất bản năm 1651, Nam Việt
Dương hiệp tự vị do Jean Louis Taberd biên soạn năm 1838, và tác
phẩm Grammaire Annamite do Louis Gabriel Galdéric Aubaret biên
soạn và xuất bản năm 1864.
Grammaire de la langue Annamite thuộc thể loại sách ngôn ngữ
mang đặc trưng của một tài liệu nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung và
ngữ pháp nói riêng. Trong phần mở đầu của tác phẩm, tác giả giới thiệu
sơ lược các đặc điểm chính của tiếng Việt, bộ ký tự tiếng Việt bao gồm
các nguyên âm và phụ âm, các dấu thanh. Nội dung chính gồm tám
chương, tương ứng với tám từ loại theo thứ tự: danh từ, đại từ, tính từ,
động từ, phó từ, giới từ, kết từ và thán từ. Do phải sử dụng tiếng Pháp
trong tiến trình mô tả tám từ loại tiếng Việt kể trên, Trương Vĩnh Ký ít
nhiều chịu ảnh hưởng của mô hình ngữ pháp tiếng Pháp vốn có nhiều
điểm khác biệt về loại hình so với tiếng Việt.
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
4.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án này lấy tác phẩm Grammaire de la langue Annamite1883 làm nguồn ngữ liệu khảo sát quan niệm của Trương Vĩnh Ký về từ
loại tiếng Việt nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về cách nhận diện
và miêu tả của tác giả đối với vấn đề từ loại tiếng Việt cách đây hơn 130
năm. Qua khảo sát việc lập ra danh sách các danh từ đơn vị có chung
thuộc tính ngữ pháp, xác định vị trí trung tâm của danh ngữ, làm rõ khả
năng kết hợp của động từ với tiểu từ để thể hiện ý nghĩa cách của danh
7
từ, hay chỉ ra ý nghĩa cực cấp của tính từ, luận án đã minh chứng những
đóng góp của Trương Vĩnh Ký trong việc miêu tả hệ thống danh từ,
động từ, tính từ tiếng Việt lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, luận án cũng chỉ ra
những hạn chế của tác giả khi ít nhiều chịu ảnh hưởng của lối miêu tả
ngữ pháp châu Âu, chẳng hạn việc miêu tả các ‘thì’ trong tiếng Việt
cũng như cách trình bày không rõ ràng khiến độc giả nhầm tưởng tiếng
Việt có phạm trù ‘số’ và ‘giống’. Đề tài do đó có ý nghĩa khoa học và lý
luận.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Ngoài ý nghĩa khoa học kể trên, những nội dung được khảo sát
trong luận án còn có ý nghĩa thực tiễn trong việc biên soạn các sách giáo
khoa tiếng Việt, giảng dạy tiếng Việt ở các bậc học, kể cả dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài các phần Dẫn nhập, Kết luận và Phụ lục, luận án bao
gồm ba chương:
CHƯƠNG MỘT: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Trong chương này, luận án trình bày ba nội dung lớn: tổng quan
tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, Trương Vĩnh Ký và tác phẩm
Grammaire de la langue Annamite – 1883. Trong phần Tổng quan tình
hình nghiên cứu, luận án khái quát tiến trình nghiên cứu từ loại tiếng
Việt và những vấn đề khác có liên quan đến từ loại. Phần Cơ sở lý
thuyết bao gồm các nội dung như: loại hình ngôn ngữ, phạm trù ngữ
pháp, phương thức ngữ pháp, đơn vị ngữ pháp v.v.. Bên cạnh đó, luận
án cũng giới thiệu sơ lược tiểu sử Trương Vĩnh Ký cùng với tác phẩm
Grammaire de la langue Annamite -1883 và giới thiệu tóm tắt hệ thống
8
từ loại tiếng Pháp để làm cơ sở đối chiếu và phân tích các đặc điểm của
từ loại tiếng Việt được miêu tả trong công trình tiêu biểu này.
CHƯƠNG HAI: ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TỪ LOẠI DANH
TỪ, ĐẠI TỪ, TÍNH TỪ, ĐỘNG TỪ TRONG TÁC PHẨM
GRAMMAIRE DE LA LANGUE ANNAMITE – 1883 CỦA TRƯƠNG
VĨNH KÝ
Trong chương hai , luận án khảo sát những đặc điểm nổi trội
của bốn từ loại tiếng Việt: danh từ, đại từ, tính từ và động từ trong tác
phẩm Grammaire de la langue Annamite-1883. Các đặc điểm này liên
quan đến cách cấu tạo từ, các tiểu loại, các đặc điểm ngữ âm, ngữ nghĩa
và ngữ pháp. Việc phân tích các đặc điểm kể trên nhằm làm rõ cách
thức Trương Vĩnh Ký miêu tả một số từ loại tiếng Việt cũng như xác
định những đóng góp có giá trị của tác phẩm so với các thành tựu của
ngôn ngữ học hiện đại ngày nay, đồng thời chỉ rõ những hạn chế nhất
định mà người đọc thường thấy trong các sách ngữ pháp xuất bản vào
thời đó.
CHƯƠNG BA: KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA CÁC TỪ LOẠI
DANH TỪ, TÍNH TỪ, ĐỘNG TỪ TRONG TÁC PHẨM GRAMMAIRE
DE LA LANGUE ANNAMITE – 1883 CỦA TRƯƠNG VĨNH KÝ
Trong chương ba, luận án khảo sát khả năng kết hợp của một số
từ loại tiếng Việt trong tác phẩm Grammaire de la langue Annamite. Sự
kết hợp này xảy ra ở các từ loại thuộc lớp từ thực như danh từ, tính từ và
động từ và liên quan đến cách cấu tạo danh từ, cách diễn đạt ý nghĩa
cách của danh từ, các thành phần bổ ngữ hay chức năng cú pháp của
từng từ loại trong đó có vai trò hết sức quan trọng của hư từ. Việc khảo
sát này nhằm xác định quan niệm của Trương Vĩnh Ký về việc phân
định từ loại tiếng Việt.
9
NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Trong chương một, luận án tổng hợp tình hình nghiên cứu về từ
loại tiếng Việt của một số tác giả tiêu biểu qua các thời kỳ. Đồng thời
luận án đã khảo sát một số vấn đề có tính chất lý thuyết làm nền tảng
cho việc nghiên cứu các nội dung liên quan đến đề tài, trong đó loại
hình ngôn ngữ và phạm trù ngữ pháp là hai lĩnh vực quan trọng nhất.
Xác định loại hình của ngôn ngữ cần khảo sát là điều quan yếu vì loại
hình ngôn ngữ bao gồm những đặc điểm hoặc thuộc tính về cấu trúc và
chức năng vốn có của nó trong cùng một nhóm, phân biệt nhóm đó với
các nhóm ngôn ngữ khác. Nói chi tiết hơn, đó là việc khảo sát các mặt
khác nhau về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Bằng cách so sánh loại hình
ngôn ngữ, người ta có thể xác định đâu là những thuộc tính phổ quát,
đâu là những thuộc tính riêng biệt và đâu là những thuộc tính loại hình.
Những vấn đề ngữ pháp được khảo sát trong chương một gồm
có: phạm trù ngữ pháp, phương thức ngữ pháp, đơn vị ngữ pháp...; trong
đó phạm trù ngữ pháp có nhiều nội dung quan trọng làm nền tảng lý
luận bao gồm phạm trù từ loại, phạm trù số, giống, cách, thì, thể... của
ngữ pháp học. Đặc biệt, luận án trình bày quan niệm của một số tác giả
về việc phân định từ loại tiếng Việt từ nửa sau thế kỷ XX cho tới nay, để
từ đó có cái nhìn tổng quan về ngữ pháp tiếng Việt nói chung và vấn đề
từ loại tiếng Việt nói riêng, đồng thời đó cũng là cơ sở để luận án miêu
tả, phân tích và đối chiếu với cách thức Trương Vĩnh Ký đã làm khi
miêu tả từ loại tiếng Việt trong tác phẩm Grammaire de la langue
Annamite-1883.
10
Ngoài ra, luận án cũng giới thiệu tóm tắt hệ thống từ loại tiếng
Pháp, một ngôn ngữ biến hình, vốn được Trương Vĩnh Ký dùng khi
miêu tả ngữ pháp tiếng Việt. Việc giới thiệu này nhằm giúp luận án làm
sáng tỏ hơn những vấn đề về xu hướng “Dĩ Âu vi trung”, về những hạn
chế nhất định mà các tác giả vào thời đó như Trương Vĩnh Ký mắc phải,
đồng thời phát hiện những đóng góp tích cực của ông trong việc miêu tả
từ loại tiếng Việt.
11
CHƯƠNG HAI: ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TỪ LOẠI DANH TỪ,
ĐẠI
TỪ, TÍNH
TỪ, ĐỘNG
TỪ TRONG TÁC PHẨM
GRAMMAIRE DE LA LANGUE ANNAMITE – 1883 CỦA
TRƯƠNG VĨNH KÝ
Qua khảo sát các đặc điểm nổi trội của một số từ loại tiếng Việt
trong quyển Grammaire de la langue Annamite do Trương Vĩnh Ký
biên soạn năm 1883, luận án đã nêu ra một số nhận xét sau đây:
Ở hạng mục từ loại danh từ, Trương Vĩnh Ký đã dày công lập ra
danh sách các danh từ đơn vị mà theo ông có chung những thuộc tính
ngữ pháp, tuy rằng ông không lý giải một cách hiển ngôn đó là những
thuộc tính nào.
Một đặc điểm ngữ pháp rất đáng lưu ý là Trương Vĩnh Ký đã
khảo sát ý nghĩa ngữ pháp của danh từ tiếng Việt theo tám cách với một
nội hàm khác với phạm trù cách của ngôn ngữ biến hình. Ngoài ra, việc
xác định vị trí trung tâm của một danh ngữ khi có hai danh từ đứng liền
nhau được là một khám phá có giá trị. Chẳng hạn: từ ‘áo’ trong ‘nút áo’
là danh từ phụ làm bổ ngữ cho danh từ chính ‘nút’ là danh từ trung tâm
đứng trước.
Đối với từ loại động từ, trong kết cấu [động từ + tiểu từ],
Trương Vĩnh Ký đề cập đến khả năng kết hợp của động từ mà ý nghĩa
cách của danh từ thể hiện rất rõ. Ngày nay, theo hướng tiếp cận ở góc độ
ý nghĩa ngữ pháp, nhiều tác giả đã xác nhận các tiểu từ kể trên có vai trò
chỉ đích cho vị từ di chuyển đứng trước chứ không phải là trạng ngữ chỉ
hướng như một số người lầm tưởng.
Trương Vĩnh ký cũng thấy được ý nghĩa cực cấp của tính từ
tiếng Việt trong kết cấu: [tính từ + định tố]: đỏ lòm, xanh lè, đen thui…
Ngày nay, nhiều tác giả đồng tình cho rằng trong những cụm từ chỉ tính
12
chất thì yếu tố phụ là một yếu tố có tính chất đặc biệt, nó biểu thị mức
độ cao nhất của một tính chất, đó là một nghĩa ngữ pháp, và nó gợi tả
hình tượng của tính chất đó.
Đại từ cũng là một từ loại quan trọng được Trương Vĩnh Ký
miêu tả khá chi tiết, nhất là đại từ xưng hô. Ngoài việc cẩn thận lập ra
bảng kê cho từng ngôi, tác giả còn miêu tả kỷ lưỡng cách dùng của từng
đại từ xưng hô, do bởi trong giao tiếp, người Việt luôn coi trọng địa vị
xã hội, thứ bậc trong quan hệ huyết thống.
Một từ loại khác trong tiếng Việt liên quan đến vấn đề thực từ
và hư từ được Trương Vĩnh Ký nhiều lần nhắc đến: đó là tiểu từ
(particules). Lớp từ này có tầm quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn về
mặt biểu đạt ý nghĩa ngữ pháp trong một ngữ hay một câu. Chẳng hạn
việc diễn đạt ý nghĩa cách của danh từ, các kết cấu nghi vấn, phủ định,
cách diễn đạt khái niệm thời gian trong tiếng Việt, cách biểu thị mức độ
so sánh của tính từ v.v..
Dĩ nhiên, quyển Grammaire de la langue Annamite của Trương
Vĩnh Ký cũng có những hạn chế nhất định. Việc sử dụng tiếng Pháp,
một ngôn ngữ biến hình, để miêu tả ngữ pháp tiếng Việt, thuộc ngôn
ngữ đơn lập, thì không thể tránh khỏi những khó khăn nhất định, thậm
chí gây ra ngộ nhận khi diễn đạt các phạm trù ngữ pháp. Chẳng hạn,
Trương Vĩnh Ký cho rằng tiếng Việt có phạm trù ‘thì’ và cố gắng giải
thích sự khác biệt giữa các thì đó bằng các tiểu từ hoặc các phụ tố
(affixes). Tương tự, cho dù ông khẳng định danh từ tiếng Việt không
biến đổi hình thái, nhưng do không phân tích những tác động của chúng
về mặt cú pháp trong phạm vi một ngữ hay câu khiến người đọc lầm
tưởng rằng ông đã quan niệm danh từ tiếng Việt có phạm trù ‘giống’ và
13
‘số’ như tiếng Pháp, tức là có tác động về mặt hình thái đến tính từ hoặc
động từ đi kèm.
Kết quả khảo sát các đặc điểm ngữ pháp của một số từ loại
trong tác phẩm Grammaire de la langue Annamite cho thấy Trương
Vĩnh Ký dựa vào tiêu chí ý nghĩa ngữ pháp để phân định từ loại, tức là
dựa vào chức năng cú pháp (trật tự) của từ nhằm diễn đạt nghĩa của một
ngữ hay câu. Chẳng hạn ý nghĩa ‘cách’ biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp của
danh từ trong một ngữ hay câu, ‘định tố’ dùng sau tính từ biểu thị mức
độ cao nhất của một tính chất (đỏ lòm, xanh lè…), hay ‘tiểu từ’ dùng
sau một số vị từ di chuyển có chức năng như một giới từ chỉ đích v.v..
Tuy phải mô phỏng theo khuôn mẫu của các sách ngữ pháp
châu Âu, nhưng Trương Vĩnh Ký đã cố gắng tránh khỏi ảnh hưởng của
phương thức “sao chép” hết sức có thể và trong một chừng mực nào đó,
ông còn thể hiện tính tiên phong trong nghiên cứu lý thuyết. Chẳng hạn
như khái niệm về ý nghĩa cách của ngôn ngữ không biến hình, tiền thân
của nền ngữ pháp cách (case grammar), là một trong những thành phần
chủ yếu của ngữ pháp chức năng hiện đại2.
Charles J. Fillmore (1968) đề cập vấn đề “cách” một cách hiển ngôn
trong The case for case.
2
14
CHƯƠNG BA: KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA CÁC TỪ LOẠI
DANH TỪ, TÍNH TỪ, ĐỘNG TỪ TRONG TÁC PHẨM
GRAMMAIRE DE LA LANGUE ANNAMITE – 1883 CỦA
TRƯƠNG VĨNH KÝ
Việc miêu tả khả năng kết hợp của ba từ loại quan trọng danh
từ, tính từ và động từ tiếng Việt trong Grammaire de la langue
Annamite - 1883 đã thể hiện những quan niệm của Trương Vĩnh Ký về
khả năng hoạt động của từ tiếng Việt ở cả ba lĩnh vực ngữ âm, ngữ pháp
và ngữ nghĩa.
1. Đối với danh từ, Trương Vĩnh Ký, thông qua việc miêu tả sự
tồn tại của các thành tố như: sự, việc, điều, lời, tiếng... trong một số kết
cấu từ vựng, có thể nói là người đã sớm đề cập đến khả năng chuyển di
từ loại của từ tiếng Việt. Mặt khác, khả năng kết hợp của danh từ cũng
giúp xác định vị trí thành tố trung tâm của danh ngữ tiếng Việt (nút áo,
cột nhà, mái ngói…). Ngoài ra, việc dùng các tiểu từ để tạo ra ý nghĩa
cách của danh từ tiếng Việt, một thứ tiếng không biến hình, được xem là
một quan niệm khá mới mẻ đối với giới nghiên cứu ngữ học.
2. Tương tự, theo Trương Vĩnh Ký, tính từ khi kết hợp với tiểu
từ có thể giúp xác định tiểu loại tính từ: tính từ chỉ định (này, kia, ấy…),
tính từ phủ định (vô, bất, không…), tính từ nghi vấn (khác nào, gì,
kia…), tính từ bất định (cả, cả thảy, hết…). Về cú pháp, tác giả cho rằng
vị trí của tính từ giúp xác định bổ ngữ của nó, đồng thời diễn đạt ý nghĩa
cần thiết của một ngữ hay câu trong ngữ cảnh cụ thể.
Đáng kể nhất là hiện tượng tính từ kết hợp với tiểu từ để tạo ra
các kết cấu so sánh, trong đó có dạng so sánh nhất (cực cấp) theo kết
cấu [tính từ + định tố]. Ngày nay, nhiều tác giả đã đồng tình với nhận
15
định ‘định tố’ trong kết cấu này là thành tố biểu thị ý nghĩa cực cấp của
tính từ tiếng Việt.
3. Đối với động từ, theo Trương Vĩnh Ký, một số tiểu từ tiếng
Việt khi kết hợp với các động từ có khả năng biểu thị ý nghĩa ngữ pháp
‘thức’ và ‘thì’ của tiếng Việt3. Tuy nhiên, giới Việt ngữ học ngày nay đã
chứng minh rằng tiếng Việt hoàn toàn không có thì với tính cách là một
hình thức biểu hiện thời gian ngữ pháp hóa. Đây chính là hạn chế rõ rệt
của tác giả khi ông dùng mô hình ngữ pháp tiếng Pháp (có phạm trù thì)
để miêu tả cách tri nhận thời gian trong tiếng Việt.
Ngoài vấn đề trên, khi miêu tả những vấn đề xung quanh từ loại
động từ tiếng Việt, Trương Vĩnh Ký đã có những quan niệm đáng lưu ý
sau:
- Sự kết hợp của động từ với các tiểu từ có thể giúp xác định các
cấu trúc phủ định, nghi vấn hoặc nghi vấn - phủ định. Về ngữ nghĩa, sự
kết hợp với tiểu từ có nét nghĩa khu biệt giúp xác định các tiểu loại của
động từ; chẳng hạn, cách phân biệt một mệnh lệnh khẳng định (hối, thúc
giục) hay phủ định (cấm, ngăn), động từ chủ động (được) và động từ bị
động (chịu, bị, mắc, phải), động từ phản thân (mình) và động từ hỗ
tương (nhau, lẫn nhau) v.v..
- Đáng lưu ý nhất là trường hợp động từ ghép có kết cấu [động
từ + tiểu từ], trong đó thành tố thứ nhất vốn là từ chỉ sự vận động như
bay, chạy, nhảy, bước... hoặc chỉ sự gây khiến vận động như kéo, đẩy,
dắt, treo, móc..., còn thành tố thứ hai là những từ cập vật chỉ sự di
chuyển như đến, về, lên, xuống, ra... (được Trương Vĩnh Ký gọi chung
là tiểu từ) có tác dụng như một giới từ chỉ đích do danh từ theo sau nó
Theo quan điểm của Claude Lancelot và Antoine Arnaut trong
Grammaire Générale et Raisonnée de Porte Royal, 1660.
3
16
thực hiện. Phát hiện này rất quan trọng vì nó liên quan ý nghĩa cách của
danh từ mà luận án đã đề cập.
Nói tóm lại, việc khảo sát khả năng kết hợp của một số từ loại
tiếng Việt trong Grammaire de la langue Annamite-1883 cho thấy
Trương Vĩnh Ký không dựa vào tiêu chí ý nghĩa khái quát một cách đơn
thuần để phân định từ loại mà còn kết hợp với tiêu chí khả năng kết hợp
và chức năng cú pháp của từ: Chẳng hạn như khái niệm ý nghĩa cách
của danh từ, hiện tượng chuyển loại (dựa vào vị trí và khả năng kết hợp
của từ), xác định vai trò trung tâm của danh ngữ dựa vào vị trí của từ
(chính – phụ), dựa vào khả năng kết hợp với tiểu từ để xác định các tiểu
loại tính từ, động từ, các cấu trúc nghi vấn, phủ định, các thể, thức, các
cấp độ so sánh (đặc biệt là ý nghĩa cực cấp) của tính từ v.v..
Tuy có những hạn chế nhất định khi miêu tả tiếng Việt theo mô
hình ngữ pháp tiếng Pháp (các phạm trù thì, số và giống), nhưng những
đóng góp của Trương Vĩnh Ký trong Grammaire de la langue
Annamite- 1883, qua kết quả khảo sát của luận án là rất đáng trân trọng
và vẫn còn nguyên giá trị cho đến nay.
17
KẾT LUẬN
Qua khảo sát các đặc điểm ngữ pháp trong Grammaire de le
langue Annamite -1883 của Trương Vĩnh Ký, luận án đã làm sáng tỏ
một số đóng góp quan trọng của tác giả liên quan đến các từ loại cơ bản
của tiếng Việt: danh từ, động từ, tính từ và đại từ. Kết quả của việc tìm
hiểu trên cũng làm nảy sinh những câu hỏi khác nhau về mục đích, hình
thức và nội dung được trình bày trong công trình nhằm làm rõ quan
niệm của Trương Vĩnh Ký về cách miêu tả một số từ loại tiếng Việt
bằng một ngôn ngữ biến hình như tiếng Pháp.
Cũng cần nói rõ thêm quyển Grammaire de la langue Annamite
được viết bằng tiếng Pháp, dành cho những người biết tiếng Pháp học
tiếng Việt; do đó, nhiều người đã từng nhận xét đây là một công trình
mô phỏng một cách rập khuôn theo tiếng Pháp, một trong những thứ
tiếng châu Âu sử dụng chữ cái La tinh. Mặt khác, vào thời điểm ấy lý
thuyết về ngôn ngữ học liên quan đến loại hình học ngôn ngữ chưa phổ
biến. Tác giả sử dụng tiếng Pháp để biên soạn sách ngữ pháp tiếng Việt
vì bản thân ông am hiểu khá tường tận ngữ pháp của các tiếng châu Âu
và hơn nữa, vào lúc bấy giờ ở nước ta, các tài liệu có tính chất học thuật
chủ yếu đều được biên soạn bằng tiếng Pháp.
Do đó, ảnh hưởng của tư tưởng ‘Dĩ Âu vi trung’ khi miêu tả
tiếng Việt trong Grammaire de la langue Annamite là điều không thể
tránh được. Tuy nhiên, sự ‘mô phỏng’ đó có ảnh hưởng gì đến kết quả
khảo sát của Trương Vĩnh Ký lại là một việc khác. Theo cách nhìn của
luận án này thì đó là sự mô phỏng thiên về hình thức, còn về phương
diện nội dung, những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt mà công trình này
miêu tả thường được Trương Vĩnh Ký xem xét dưới góc độ ‘không biến
hình’ (invariable), một đặc điểm đã được nhắc lại nhiều lần trong
18
Grammaire de la langue Annamite, chẳng hạn, khi đề cập đến những
vấn đề về giống và số của danh từ, về tính chất bất biến của tính từ và về
cách diễn đạt các dạng khác nhau về ‘thì’ hoặc ‘thức’ ở động từ tiếng
Việt.
I. Qua khảo sát Grammaire de la langue Annamite, luận án đã
nhận diện được những đóng góp quan trọng của Trương Vĩnh Ký cho
ngữ pháp tiếng Việt nói riêng và ngành Việt ngữ học nói chung như sau:
1. Việc xác định các danh từ đơn vị với thuộc tính ngữ pháp
quan trọng là giữ vai trò trung tâm của danh ngữ tiếng Việt được xem là
đóng góp có giá trị của Trương Vĩnh Ký khi miêu tả từ loại danh từ.
Theo ông, những từ đứng sau danh từ đơn vị là bổ ngữ của chúng chứ
không phải là trung tâm của danh ngữ như nhiều tác giả sau ông đã từng
lầm tưởng. Ông đề xuất một quy tắc đơn giản: Dựa vào trật tự ‘chính
trước- phụ sau’ là có thể xác định vị trí trung tâm của một danh ngữ:
“khi hai danh từ đứng liền nhau thì danh từ thứ nhất là chính, trung tâm;
còn danh từ thứ hai là phụ, làm bổ ngữ cho danh từ kia”. Rất nhiều
người về sau lầm tưởng gọi chúng là ‘loại từ’ (classificateurs) và xem
chúng như những hư từ. Chính từ bước đột phá đó, những nhà Việt ngữ
học ngày nay có thể tiến xa hơn trong việc phân biệt hai khái niệm gần
như đối lập nhau là danh từ đơn vị (đếm được) và danh từ khối (không
đếm được) trong tiếng Việt.
2. Trương Vĩnh Ký cũng là người tiên phong trong việc khảo sát
chức năng của danh từ theo các cách (cas) khác nhau. Đây là một khám
phá thú vị bởi vì ít có công trình tiếng Việt nào khảo sát về lĩnh vực này.
Thật ra, ý nghĩa cách là một ý nghĩa phổ quát trong ngôn ngữ nhân loại,
mà mọi thứ tiếng đều có phương thức diễn đạt và phân biệt, bất kể thứ
tiếng đó thuộc loại hình ngôn ngữ nào. Khi đưa ra định nghĩa về cách,
- Xem thêm -