Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản trị tài chính tại các trường đại học trực thuộc bộ công thương trong điều k...

Tài liệu Quản trị tài chính tại các trường đại học trực thuộc bộ công thương trong điều kiện tự chủ

.PDF
194
319
62

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGUYỄN THỊ MAI LAN QU¶N TRÞ TµI CHÝNH T¹I C¸C TR¦êNG §¹I HäC TRùC THUéC Bé C¤NG TH¦¥NG TRONG §IÒU KIÖN Tù CHñ LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGUYỄN THỊ MAI LAN QU¶N TRÞ TµI CHÝNH T¹I C¸C TR¦êNG §¹I HäC TRùC THUéC Bé C¤NG TH¦¥NG TRONG §IÒU KIÖN Tù CHñ Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số: 9 34 04 10 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Phí Mạnh Hồng 2. PGS.TS Hoàng Thị Thúy Nguyệt HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Thị Mai Lan MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1.1. 1.2. 1.3. Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU Tình hình nghiên cứu trên thế giới Tình hình nghiên cứu trong nước Khoảng trống nghiên cứu Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN TRỊ TÀI Trang 1 10 10 17 22 CHÍNH TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ 2.1. 2.2. 2.3. Giáo dục đại học công lập và vấn đề tự chủ đại học Tự chủ tài chính và quản trị tài chính trong các cơ sở giáo dục đại học công lập Kinh nghiệm quốc tế về tự chủ tài chính và quản trị tài chính trường đại học công lập Chương 3: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRỰC THUỘC BỘ CÔNG THƯƠNG 3.1. 3.2. 3.3. Quản trị đại học đối với các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương Thực tiễn quản trị tài chính tại các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương Đánh giá chung về quản trị tài chính tại các trường đại học tự chủ trực thuộc Bộ Công Thương Chương 4: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRỰC THUỘC BỘ CÔNG THƯƠNG 4.1. 4.2. 4.3. Bối cảnh, xu thế và định hướng phát triển giáo dục đại học Quan điểm hoàn thiện quản trị tài chính tại các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Công Thương Giải pháp hoàn thiện quản trị tài chính tại các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương KẾT LUẬN 24 24 37 57 69 69 76 105 114 114 119 121 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ Đà CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 151 152 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT GDĐH : Giáo dục đại học GD-ĐT : Giáo dục - đào tạo ĐHCL : Đại học công lập NCKH : Nghiên cứu khoa học NSNN : Ngân sách nhà nước QTTC : Quản trị tài chính DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Danh sách các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương 69 3.2 Danh sách các trường tự chủ theo Nghị quyết 77 79 3.3 Tổng hợp nội dung chi giai đoạn 2013 - 2017 81 3.4 Chi phí đào tạo 1 sinh viên của Đại học Công nghiệp Hà Nội 85 3.5 Nguồn thu từ NCKH và chuyển giao công nghệ 2017 96 3.6 Các dự án hợp tác quốc tế của các trường đại học thuộc Bộ 96 Công Thương 3.7 Nguồn tài trợ của Đại học Công nghiệp Hà Nội giai đoạn 97 2010 - 2017 3.8 Mức học phí hệ đại học đại trà một số trường thuộc Bộ Công Thương 100 4.1 Thay đổi trong quản trị chi phí 134 DANH MỤC CÁC HÌNH Số hiệu Tên hình Trang hình 1 Khung nghiên cứu luận án 5 2.1 Mức độ tự chủ trường đại học Mỹ 35 2.2 Các thành tố tự chủ đại học 35 2.3 Khung đánh giá quản trị tài chính trường đại học 53 3.1 Tỷ lệ sinh viên/giảng viên cơ hữu 76 3.2 Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ 76 3.3 Cơ cấu chi theo nội dung kinh tế năm 2017 81 3.4 Đánh giá về phương pháp quản lý chi tiêu đang áp dụng 86 3.5 Tổng nguồn thu của các trường năm 2017 90 3.6 Ngân sách nhà nước cấp chi thường xuyên và mức độ tự đảm 91 bảo chi thường xuyên 3.7 Cơ cấu nguồn ngân sách cấp cho các trường - so sánh 2013 và 2017 92 3.8 Nguồn thu từ học phí giai đoạn 2013 - 2017 93 3.9 Cơ cấu nguồn thu sự nghiệp giai đoạn 2013 - 2017 94 3.10 Nguồn thu từ hoạt động dịch vụ giai đoạn 2013 - 2017 95 3.11 Các yếu tố làm căn cứ xác định mức thu học phí 101 3.12 Khó khăn khi xác định giá dịch vụ đào tạo 102 3.13 Cơ chế kiểm soát nguồn thu 103 3.14 Đánh giá hoạt động quản trị nguồn thu 103 3.15 Thu nhập bình quân của cán bộ, viên chức và nguồn thu bình 104 quân đầu người năm 2016 4.1 Mô hình QTTC trường đại học công lập 122 4.2 Quy trình lập kế hoạch tài chính có sự tham gia 128 4.3 Mô hình quản trị nguồn thu từ đào tạo 129 4.4 Tư duy chiến lược trong xác định nhu cầu đầu tư 137 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế hiện đại, quá trình sản xuất của cải ngày càng phụ thuộc vào tri thức. Trong các nguồn lực, tri thức giờ đây đóng vai trò là nguồn lực số một, dẫn dắt sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Khả năng sáng tạo và ứng dụng tri thức được xem là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia, hay tổ chức. Trong điều kiện đó, sự phát triển của hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học (GDĐH) ngày càng trở nên quan trọng. Không đơn giản là nơi đào tạo nhân lực chung cho nhu cầu của nền kinh tế, các trường đại học là cái nôi sản sinh ra các tri thức khoa học, các phát minh sáng chế, là nơi đào tạo ra một lực lượng lao động đặc biệt: các nhà khoa học, những nhà sáng chế, các kỹ sư, chuyên gia hay đội ngũ lao động có trình độ và chất lượng cao, đóng vai trò dường cột trong việc sáng tạo, phổ biến, lan truyền và áp dụng tri thức trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Sức mạnh của hệ thống đại học chính là nền tảng sức mạnh của một quốc gia. Với tư cách là một cơ sở đào tạo, trường đại học trước hết là nơi tổ chức các quá trình dạy và học, giúp sinh viên hoàn thiện và trưởng thành cả về năng lực và nhân cách trước khi họ chính thức bước vào đời sống kinh tế, xã hội với tư cách là người lao động. Tuy nhiên, khác với các cơ sở giáo dục phổ thông, trường đại học về thực chất còn là một cơ sở nghiên cứu khoa học (NCKH) hùng mạnh, nơi mà người ta xem việc tạo ra tri thức cũng quan trọng như việc truyền thụ tri thức, do tri thức được giảng dạy luôn phải được cập nhật và đổi mới. Việc coi trọng các hoạt động NCKH, tổ chức hoạt động dạy, học trên nền tảng NCKH, việc xem các hoạt động sáng tạo, đổi mới là mang tính chất sống còn khiến cho sự vận hành của một trường đại học đúng nghĩa, đẳng cấp phải được đặt trên nền tảng tự chủ, trong đó sự sáng tạo và tự do học thuật luôn được đề cao, sự tự chủ về tổ chức, nhân sự và tài chính được xem là các điều kiện cần thiết bảo đảm cho tự chủ về học thuật. Nói cách khác, tính chất đặc thù của hoạt động GDĐH đòi hỏi các cơ sở đào tạo GDĐH, nếu muốn hoàn thành được sứ mệnh của mình, phải trở thành các tổ chức tự chủ. 1 Trước đổi mới, hệ thống đại học ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình đại học công, bao cấp, thiếu tính tự chủ, phù hợp với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường kéo theo nhiều sự thay đổi trong hệ thống giáo dục, trong đó có GDĐH. Song song với việc mở cửa (khá ồ ạt) cho việc hình thành các trường đại học tư, mạng lưới các trường đại học công cũng được mở rộng. Sự gia tăng khá nhanh về mặt số lượng các trường đại học chỉ đi kèm với một số ít thay đổi về mặt tổ chức, cơ chế quản lý áp dụng đối với các cơ sở giáo dục loại này theo xu hướng: các trường đại học được bộ chủ quản phân quyền ra quyết định nhiều hơn trong một số khâu hoạt động của mình, đặc biệt là các đại học quốc gia và đại học vùng. Xu hướng tự chủ đại học diễn ra khá chậm chạp song cũng đã được triển khai ở những bước đầu tiên và đang ngày càng thu hút sự chú ý của xã hội. Trong các nội dung của tự chủ đại học, xu hướng áp dụng cơ chế tự chủ tài chính được triển khai và có nhiều nội dung đi vào cuộc sống hơn cả. Sau những bước đi có tính chất thí điểm, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP đã được ban hành mở đầu cho việc trao quyền tự chủ tài chính cho các trường đại học, đặc biệt là đối với hoạt động chi ở các cơ sở có khả năng đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên. Quyền tự chủ này tiếp tục được mở rộng trong nội dung của Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, trong đó các trường được chủ động hơn trong việc khai thác các nguồn thu để đảm bảo cho hoạt động của mình. Một số trường được thí điểm áp dụng mô hình tự chủ tài chính cao theo nguyên tắc tự bảo đảm về thu, chi, kể cả các khoản chi đầu tư phát triển, đồng thời các trường này cũng được trao nhiều quyền tự chủ hơn trong các lĩnh vực hoạt động khác. Nhìn chung, cơ chế tự chủ tài chính đại học hiện hành cho phép các trường được tự quyết định nhiều hơn trong lĩnh vực tài chính, đồng thời nguồn tài chính được xem là "bao cấp" từ nhà nước được cắt giảm. Trong điều kiện được trao quyền tự chủ nhiều hơn, các trường đại học công lập (ĐHCL) đã từng bước thay đổi để thích ứng. Với yêu cầu của cơ chế tự chủ theo tinh thần Nghị định 16/2016/NĐ-CP, các cơ sở GDĐH đang chuyển dịch theo hướng tiếp cận với thị trường với tư cách một nhà cung cấp dịch vụ để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Các cơ sở GDĐH nói chung và các cơ sở giáo dục - đào tạo (GDĐT) 2 trực thuộc Bộ Công Thương nói riêng đang nỗ lực từng bước hoàn thiện cơ chế quản trị tài chính (QTTC) nội bộ theo hướng đa dạng hóa và tăng cường khai thác nguồn thu, quản lý chặt chẽ hơn, tiết kiệm hơn, hiệu quả hơn các khoản chi, quản lý và sử dụng hiệu quả hơn các tài sản, sử dụng tài chính như một đòn bẩy kích thích mọi mặt hoạt động của nhà trường. Tuy nhiên, cùng với những chuyển động theo hướng tích cực, trong thực tế, nhiều trường còn lúng túng trong việc đổi mới hoạt động QTTC nội bộ phù hợp với yêu cầu của cơ chế tự chủ. Nhiều bất cập vẫn tồn tại trong nhận thức, trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế huy động và quản trị nguồn thu, trong việc quản trị chi phí và kiểm soát chi tiêu cũng như trong lĩnh vực quản trị tài sản và phân phối các kết quả tài chính. Mặt khác, cơ chế tự chủ tài chính hiện hành đang được áp dụng cho các trường ĐHCL là một cơ chế chưa hoàn thiện. Nó chưa được xác lập đồng bộ với các nội dụng tự chủ khác trong hoạt động của các trường đại học. Nhà nước, thông qua bộ chủ quản vẫn can thiệp với những mức độ khác nhau vào các hoạt động của nhà trường. Kể cả trong lĩnh vực tài chính, nhiều ràng buộc đối với các cơ sở đào tạo chưa được tháo gỡ. Trong khi đó, nhân danh việc cắt giảm, hay xóa bỏ cơ chế tài chính bao cấp, nhà nước dường như có xu hướng thoái thác ở mức độ khác nhau đối với nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện chức năng ‘sửa chữa thất bại" thị trường trong lĩnh vực GDĐH. Trong điều kiện như vậy, hoạt động QTTC nội bộ của các trường ĐHCL, bao gồm cả các trường trực thuộc Bộ Công Thương càng trở nên khó khăn. Bất chấp những khó khăn như đã nói ở trên, xu hướng mở rộng tự chủ đại học nói chung và tự chủ chủ tài chính đại học nói riêng đã được khởi động trong những năm qua ở Việt Nam là không thể đảo ngược. Trong bối cảnh đó, với những đặc thù và yêu cầu cụ thể của mình, hệ thống các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương cần phải thay đổi và hoàn thiện cơ chế QTTC của mình để có thể đáp ứng yêu cầu tồn tại và phát triển nhằm hoàn thành tốt sứ mệnh được xã hội giao phó. Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: "Quản trị tài chính tại các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương trong điều kiện tự chủ" làm nội dung nghiên cứu của luận án. 3 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát: Trong điều kiện Nhà nước ban hành khuôn khổ pháp lý để thực hiện tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp, các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương cũng không nằm ngoài dòng chảy này. Nghiên cứu này nhằm phát hiện những điểm bất cập từ phía chính sách để hoàn thiện, sửa đổi và quan trọng hơn là giúp các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương nhận rõ những yêu cầu mới và điều chỉnh hoạt động quản trị tài chính cho phù hợp, tạo điều kiện thúc đẩy Nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo. Mục tiêu cụ thể: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn QTTC tại các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương trong bối cảnh cơ chế tự chủ tài chính hiện hành; phân tích kết quả đạt được, tồn tại, nguyên nhân và xu hướng phát triển; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QTTC tại các cơ sở đào tạo này. 3. Câu hỏi nghiên cứu Các câu hỏi nghiên cứu sau sẽ được giải quyết trong luận án: - Câu hỏi 1: Nội dung cốt lõi của QTTC ở các trường đại học trong điều kiện tự chủ là gì? - Câu hỏi 2: Thực trạng QTTC tại các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương như thế nào? - Câu hỏi 3: Trong bối cảnh tự chủ, mô hình và giải pháp QTTC tại các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương có thể áp dụng là gì? 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động QTTC tại các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương trong bối cảnh cơ chế tự chủ. - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: Luận án chỉ nghiên cứu vấn đề QTTC tại các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương. + Về thời gian: Nghiên cứu cơ chế tự chủ tài chính thời kỳ từ năm 2006 (năm thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP) đến nay (2017); thu thập số liệu về thực trạng QTTC tại 5 (năm) trường khảo sát từ năm 2013 đến năm 2017. 4 - Về nội dung, luận án chỉ tập trung vào những vấn đề cốt lõi nhất của QTTC trong trường đại học, đó là quản trị nguồn thu; quản trị chi phí; quản trị tài sản và quản trị kết quả tài chính; thực trạng, xu hướng phát triển và các giải pháp hoàn thiện QTTC tại các trường ĐHCL trong cơ chế tự chủ. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tiếp cận: Dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, đề tài sử dụng cách tiếp cận hệ thống khi nghiên cứu hoạt động QTTC. Theo đó, hoạt động QTTC của các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương được đặt trong hệ thống các trường ĐHCL của Việt Nam và trong bối cảnh Nhà nước giao tự chủ cho các trường. Hoạt động QTTC cũng được nghiên cứu trong mối quan hệ hữu cơ với quản trị các hoạt động khác của nhà trường như quản trị đào tạo, quản trị nhân sự… Đồng thời, QTTC được xem xét trong chu trình từ lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và theo dõi đánh giá. Tóm lại, trọng tâm của nghiên cứu này là công tác quản trị tài chính (bao gồm nội dung, quy trình, bộ máy quản trị). Các nội dung này được đặt trong bối cảnh tự chủ tài chính với khuôn khổ pháp lý mà Nhà nước đã đề ra và các nhà trường phải thay đổi, điều chỉnh hoạt động quản trị tài chính của mình nhằm thích nghi với bối cảnh mới. Cách tiếp cận đó giúp cho việc giải quyết vấn đề một cách thấu đáo, logic và có ý nghĩa thực tiễn cao với các trường. Hình 1: Khung nghiên cứu luận án 5 - Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu định tính, trong đó kết hợp cả nghiên cứu tại bàn và khảo sát tại hiện trường. Nghiên cứu tại bàn Nghiên cứu tại bàn nhằm giúp xác định những vấn đề chính về QTTC trường đại học đã được đề cập bởi các nghiên cứu liên quan và các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, các chính sách, văn bản liên quan của Chính phủ và Bộ GDĐT, Bộ Công Thương đến các nội dung tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và các cơ sở đào tạo đại học nói riêng cũng được tổng hợp. Đặc biệt, nghiên cứu tại bàn cũng phân tích, tổng hợp dữ liệu thứ cấp từ các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương để có bức tranh về tình hình QTTC tại các đơn vị này. Khảo sát tại hiện trường: Khảo sát được thực hiện đối với các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương thông qua 2 công cụ là Phiếu phỏng vấn (Phụ lục 1) và Phiếu khảo sát (Phụ lục 2). + Phiếu khảo sát được thiết kế dưới dạng câu hỏi nhiều lựa chọn dành cho các nhà quản lý và giáo viên. Phiếu khảo sát, ngoài các thông tin chung, gồm 5 phần: (i) đánh giá hệ thống văn bản, quy chế QTTC của trường; (ii) đánh giá việc lập kế hoạch tài chính; (iii) đánh giá cách thức quản trị và hiệu quả quản trị nguồn thu; (iv) đánh giá cách thức và hiệu quả quản trị chi phí; (v) đánh giá công tác đấu thầu và quản trị tài sản Mẫu khảo sát được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên phân tầng từ đối tượng là cán bộ lãnh đạo các trường, lãnh đạo các phòng ban chức năng của trường và một số giáo viên. Tổng số phiếu bao gồm 350 cán bộ là đại diện trong nhóm nói trên. Việc khảo sát được thực hiện qua kênh trực tiếp và qua internet. Tổng số phiếu thu về là 289 phiếu. Về mặt thống kê, số phiếu này đủ lớn để kết quả có ý nghĩa thống kê. Kết quả khảo sát được xử lý trên phần mềm SPSS, chủ yếu phục vụ thống kê mô tả. + Phiếu Phỏng vấn được sử dụng cho phỏng vấn bán cấu trúc, bao gồm các câu hỏi liên quan đến các nội dung sau: (i) công tác lập kế hoạch tài chính (ii) nguồn thu và cách thức quản trị nguồn thu; (iii) hoạt động chi tiêu, quản trị chi phí; (iv) quản trị tài sản và (v) quản trị kết quả tài chính. 6 Phỏng vấn bán cấu trúc được thực hiện tại một số trường. Đối tượng phỏng vấn là Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng phụ trách Tài chính, Trưởng/phó phòng Kế hoạch - Tài chính, kế toán trưởng (hoặc phụ trách kế toán). Bên cạnh phương pháp tổng hợp, so sánh, luận án còn áp dụng phương pháp điển cứu để thực hiện nghiên cứu chuyên sâu với một số nội dung tại một số trường điển hình trong số các trường trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương. - Nguồn dữ liệu: Luận án sẽ sử dụng cả nguồn dữ liệu thứ cấp và sơ cấp để phục vụ mục tiêu nghiên cứu. + Nguồn dữ liệu thứ cấp là số liệu của Vụ Kế hoạch - Tài chính, Bộ Công Thương; Vụ Hành chính - Sự nghiệp, Bộ Tài chính; các số liệu do các trường cung cấp; dữ liệu từ các công trình nghiên cứu đã công bố của các tác giả trong nước và trên thế giới về các vấn đề liên quan tới đề tài luận án. + Nguồn dữ liệu sơ cấp được thu thập qua khảo sát bằng Phiếu khảo sát và Phỏng vấn sâu tại các trường. 6. Tính mới và đóng góp của luận án 6.1. Tính mới của luận án - Về cách tiếp cận: Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện lên quan đến tự chủ trong lĩnh vực sự nghiệp nói chung và GDĐT nói riêng hầu hết tập trung nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm mở rộng tự chủ cho các cơ sở giáo dục đào tạo. Các nghiên cứu này chủ yếu tiếp cận từ góc nhìn của các nhà làm chính sách, các cơ quan quản lý. Với mục tiêu là vừa khuyến khích tự chủ của các đơn vị, vừa đáp ứng được yêu cầu quản lý của các cơ quan này, nên các giải pháp đều có góc nhìn từ bên ngoài đơn vị. Đề tài mà luận án lựa chọn có cách tiếp cận và góc nhìn ngược lại. Đó là, trong bối cảnh Nhà nước đã có các chính sách và cơ chế khuyến khích tự chủ như vậy, các cơ sở GDĐT, với tư cách là người cung cấp dịch vụ, cần phải thay đổi như thế nào, cần làm gì để vừa nắm bắt được cơ hội của cơ chế tự chủ của Nhà nước mang lại; đồng thời cũng vượt qua những thách thức mà chính cơ chế này tạo ra. Vì 7 vậy, bên cạnh xử lý các mối quan hệ giữa nhà trường với các cơ quan quản lý; luận án tập trung vào các giải pháp QTTC của các trường. - Về nội dung: Quản trị tài chính trong các trường ĐHCL không phải là vấn đề mới đối với các trường. Tuy nhiên, trong giai đoạn trước, do nguồn thu chủ yếu của các trường dựa vào nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) cấp phát, các trường thực hiện nhiệm vụ đào tạo theo chỉ tiêu Nhà nước giao. Vì vậy, mô hình quản trị tại các trường chủ yếu là quản trị theo đầu vào. Hoạt động QTTC bị xơ cứng, thụ động và không phát huy được năng lực của các trường. Mô hình quản trị theo đầu vào không còn phù hợp khi Nhà nước đã ban hành cơ chế tự chủ. Để tồn tại và phát triển trong bối cảnh này, các trường phải hoạt động giống như doanh nghiệp, muốn vậy phải "lột xác" và tìm kiếm phương thức quản trị mới. Điều đó khá lạ lẫm và khiến các trường lúng túng và gặp nhiều khó khăn. Các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương cũng không phải là ngoại lệ. Vì vậy, có thể khẳng định nội dung QTTC của các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương là vấn đề mới chưa được nghiên cứu trước đó. Đặc biệt là, mô hình Bộ chủ quản đã được áp dụng ở nước ta từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung nhưng đến nay đã lộ rõ nhiều bất cập. Nghiên cứu này có tính đột phá khi đề xuất lộ trình xóa bỏ bộ chủ quản đối với các trường ĐHCL như là một điều kiện cần thiết để các trường tự chủ. 6.2. Những đóng góp của luận án Luận án đã có những đóng góp sau: - Về mặt lý luận, luận án làm rõ bản chất và những nội dung chủ yếu của QTTC trong các trường ĐHCL, chỉ ra mục tiêu của QTTC các trường ĐHCL. Với mỗi nội dung QTTC, luận án đã chỉ ra những vấn đề cốt lõi nhất, làm cơ sở lý luận để soi chiếu vào thực tiễn, từ đó đánh giá thực tiễn. Mặt khác, các nội dung này cũng được xem là khung lý thuyết để các trường vận dụng và xây dựng cho riêng mình một mô hình QTTC nội bộ cụ thể, phù hợp với điều kiện riêng có của trường. - Về mặt thực tiễn, luận án tiến hành phân tích thực trạng các nội dung QTTC của các trường ĐHCL trực thuộc Bộ Công Thương, trong đó tập trung vào 8 các nội dung chính từ khâu lập kế hoạch tài chính, tổ chức thực hiện và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính. Qua phân tích, luận án đã đánh giá và chỉ rõ những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong công tác QTTC của các trường. Dựa vào đó, luận án đưa ra mô hình QTTC trong trường ĐHCL nói chung trong bối cảnh tự chủ và một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QTTC trong các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương nhằm đáp ứng yêu cầu của cơ chế tự chủ tài chính. Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo tốt không chỉ cho các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương mà còn cho các cơ sở GDĐH nói chung trên toàn quốc. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan nghiên cứu. Chương 2: Lý luận cơ bản về quản trị tài chính trong các cơ sở giáo dục đại học công lập. Chương 3: Thực trạng quản trị tài chính trong các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương. Chương 4: Giải pháp hoàn thiện quản trị tài chính trong các trường đại học trực thuộc Bộ Công Thương. 9 Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI Các nghiên cứu của nước ngoài về QTTC tại các cơ sở GDĐH trong điều kiện tự chủ được phân nhóm theo ba nội dung nghiên cứu tài chính và cơ chế quản lý tài chính đối với trường đại học; tự chủ tài chính và QTTC ĐHCL. 1.1.1. Nghiên cứu về tài chính giáo dục đại học và quản lý tài chính trường đại học Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tài chính GDĐH, quản lý tài chính trường đại học, tiêu biểu như: "Higher Education Finance: Trends and Issues" của Arthur M.Hauptman (2006), "Higher Education Financing Policy: Mechanisms and Effects" của Bryan Cheung (2008), "Financial Management and Planning in Higher Education institutions" của Tony Holloway (2006), "The Strategy-Focused Organization: How Balanced Scorecard Companies Thrive in The New Business Environment" của Kaplan, R. S. and Norton, D. P. (2000), "Financial Management in Education" của J. R. Hough (1994)… Nghiên cứu của Arthur M. Hauptman (2006) đã chỉ ra rằng, để có thêm nhiều tiền thì việc tăng học phí là cách tốt nhất để đáp ứng nhu cầu tài chính của các trường. Đồng thời, qua đó xem xét các nguồn hỗ trợ từ phía nhà nước cho các trường vào các lĩnh vực hoạt động nghiên cứu, hoạt động chi thường xuyên. Vấn đề quan trọng nhất trong quản lý tài chính là các trường phải minh bạch trong sử dụng nguồn tài chính để đảm bảo chất lượng GDĐH. Đồng thời, việc sử dụng ngân sách cần gắn chặt với vấn đề trách nhiệm, quyền chủ động trong sử dụng ngân sách [114, tr. 83-106]. Theo Bryan Cheung (2008), các trường đại học có thể tạo lập được các nguồn thu lớn từ các hợp đồng bên ngoài. Nguồn thu này được kiểm soát như mô hình công ty để tái khẳng định chi phí đơn vị và thiết lập một lợi nhuận công [117]. Tony Holloway (2006) cho rằng các cơ quan quản lý khi xem xét vấn đề quản lý tài chính trong các trường đại học không thể cứng nhắc, tuân thủ các thủ tục tài chính, quy trình truyền thống mà phải có sự mềm dẻo, được điều chỉnh liên tục phù hợp 10 với từng thời kỳ phát triển của mỗi quốc gia và đặc biệt coi trọng khía cạnh hành vi của chủ thể sử dụng nguồn lực tài chính đó. Tony Holloway đã nhấn mạnh vào các quyết định quản lý của người đứng đầu nhà trường trong việc sử dụng nguồn tài chính cho GDĐH. Trong việc kiểm nghiệm lý thuyết, Tony Holloway xem xét và so sánh hai lý thuyết của chủ nghĩa duy lý và sự gia tăng để rút ra kết luận về quản lý tài chính áp dụng trong trường đại học. Tác giả đã đưa dịch vụ y tế vào so sánh với dịch vụ GDĐH qua khía cạnh hành vi của con người có thể gây ảnh hưởng đến sự thành công trong quản lý tài chính, và ông khẳng định ở khía cạnh này GDĐH tư nhân có thể làm tốt hơn khu vực giáo dục công lập. Sự cần thiết cho thành công trong quản lý tài chính các trường ĐHCL là việc áp dụng một mô hình quản lý tài chính trong kinh doanh vì hoạt động tài chính trong khu vực này có kỷ luật rất nghiêm ngặt và minh bạch để hướng tới việc đạt được lợi nhuận [142]. Quản lý tài chính trong các trường ĐHCL phải theo kiểu doanh nghiệp, có sự kiểm soát của những đối tượng thụ hưởng đó là kết luận của Robert S. Kaplan (2000). Tác giả cho rằng phần lớn các trường đại học công được chính phủ cung cấp một phần kinh phí để hoạt động, đây chính là cơ chế quản lý được đặc trưng bởi một mức độ cao của tập trung và quan liêu. Trong những năm gần đây, xu hướng tăng quyền tự chủ của các trường đại học ngày càng lớn, ngân sách của các trường đại học dần được xem là "ngân sách tự chủ" do người học đóng góp. Trong giới hạn của ngân sách các trường học có thể tự quyết định việc phân phối các nguồn lực mà không cần phê duyệt của các bộ có liên quan nhưng cần có sự giám sát của các đối tượng thụ hưởng nó. Các trường đại học phải hiểu rằng đi đôi với quyền tự chủ là minh bạch, do vậy các trường đại học phải có các công cụ quản lý hiện đại thay thế công cụ quan liêu như hiện nay trong việc kiểm soát việc sử dụng các tài sản và tín dụng. Trong bối cảnh này có nhiều điều để học hỏi từ các công ty hoạt động trong môi trường kinh tế, vì họ thiết lập ngân sách dựa trên mục tiêu sản xuất và phối hợp phòng ban ở mức độ tự trị cao. Để việc giám sát sử dụng nguồn lực tài chính của các đối tượng thụ hưởng có hiệu quả, tác giả cho rằng các trường đại học phải phát triển hệ thống thông tin minh bạch trong việc tổng hợp và xác định chi phí trong hoạt động thường xuyên và hoạt động đầu tư phát triển. Tác giả tin rằng các trường 11 đại học hoạt động hiệu quả hơn nếu họ sử dụng các công cụ kinh tế này. Mặc dù các trường ĐHCL là tổ chức phi lợi nhuận nhưng họ có nhiều hoạt động kinh tế nên có thể áp dụng một phần mô hình quản lý tài chính của công ty. Ngoài ra, tác giả cũng khẳng định việc quản lý chi phí trong trường đại học cần một hệ thống kế toán minh bạch, có kỷ luật chặt chẽ và phải được thể hiện bằng dòng tiền, trong đó đặc biệt phải cho thấy dòng chảy của vốn mà trường nhận được từ nhà nước và các nguồn khác, đồng thời kết quả quản lý tài chính phải được thể hiện bằng những thay đổi trong giá trị tài sản ròng theo thời gian mặc dù những chi phí thường thấp không phải là đối tượng quan tâm đặc biệt. Tóm lại, theo tác giả để đảm bảo được việc kiểm soát tài chính trong các trường ĐHCL thì yêu cầu hệ thống kế toán của một trường đại học phải có ba loại thông tin kinh tế: báo cáo dòng tiền, bảng cân đối và một tuyên bố thay đổi giá trị tài sản. Hệ thống này là công cụ cơ bản được sử dụng bởi các kiểm toán viên và các nhà chức trách để kiểm tra tính minh bạch trong phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính [115]. J. R. Hough (1994) đưa ra đặc điểm đầy đủ của hệ thống quản lý tài chính giáo dục là cách thức lập ngân sách và kiểm soát các chi phí. Tác giả cũng đưa ra một số dự báo như: quản lý tài chính trong các trường ĐHCL phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng nhân viên quản lý chuyên trách, do vậy các trường ĐHCL cần khẩn trương có các chương trình đào tạo nhân viên tham gia vào việc này; các trường nếu muốn có chi phí thấp nhất mà tạo ra sản phẩm có chất lượng cao nhất thì đặc biệt phải coi trọng đến sử dụng các nguồn lực sao có hiệu quả nhất để các ngành nghề đào tạo có đầy đủ các máy móc thiết bị phục vụ giảng dạy hiện đại, tương đương với hoạt động sản xuất ngoài thị trường [135]. Bên cạnh đó, các công trình như: "The School Financial Management Tools" của Berkhout F., Berkhout S. (1992); "Financial School Management Explained" của Bisschoff T. (1997); "School business management" của Niemann G. S. (1997); "Theories of Educational Leadership and Management" của Bush T. (2004); "A strategic approach to finance and budgeting" của Davies B. (2003); "Financial accountability: The principal or school governing body" của Mestry R. (2004); "Efficient Financial Management" của Kruger A. G. (2005); "The 12 Handbook of School Management" của Clarke A. (2007); "The Evaluation of the Implementation of the Manual for Principals of High Schools Regarding To Financial Management In The Mafeteng District Of Lesotho" của Motsamai M. J. (2009); "A Programme to Facilitate Principals Financial Management of Public Schools" của Ntseto V. E. (2009)… các nghiên cứu này đã cho thấy mối liên hệ giữa các yếu tố quản lý tài chính với hiệu quả của tổ chức. Cụ thể, Bush (2004) đã phân loại 6 mô hình với các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng quản lý các tổ chức giáo dục với giả định các tổ chức được tổ chức theo mô hình cấp bậc [118]. Clarke (2007) tiếp tục phát triển các mô hình của Bush và xác định các nhân tố ảnh hưởng đến các nhiệm vụ quản lý của đơn vị là: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát [119]. Quản lý tài chính của trường là một phần quan trọng để quản lý hiệu quả trường học (Mestry, 2004 [138], ; và Ntseto, 2009 [141]). 1.1.2. Nghiên cứu về tự chủ đại học Có nhiều cách hiểu khác nhau về tự chủ đại học. Nội hàm của khái niệm tự chủ đại học xuất phát từ nhận thức khác nhau về vai trò của Nhà nước đối với giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng. Anderson and Jonhson, 1998 [122] cho rằng tự chủ đại học được định nghĩa là "sự tự do của một cơ sở giáo dục trong việc điều hành công việc của mình mà không có sự chỉ đạo hoặc tác động từ bất cứ cấp chính quyền nào". Theo Groof J. D,. Neave G,. Svee J. (1988) thì "Tự chủ đại học là điều kiện cho phép một trường đại học tự quản mà không có sự can thiệp từ bên ngoài" [133]. Theo Prof. Ulrike Felt, Michaela Glanz (2002), quyền tự chủ của các trường đại học là một giá trị cơ bản và cũng là một điều kiện cần thiết để đảm bảo thực hiện "tự do học thuật". Quyền tự chủ của các trường đại học bao hàm việc tự đưa ra các quyết định, tự thiết lập các hệ thống giá trị, các hình thức liên kết, lĩnh vực hoạt động trong xã hội nhằm ngày càng nâng cao giá trị khoa học. Trong đó, các trường cũng phải tự chịu trách nhiệm đối với những quyết định cũng như những ảnh hưởng đối với xã hội [140]. Fielden (2008) đã chỉ ra các mức độ khác nhau từ sự kiểm soát chặt chẽ các trường công cho đến sự tự chủ và độc lập đầy đủ mà các trường có được, đưa ra 4 mô 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan