Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ...

Tài liệu Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh phú yên

.PDF
101
419
88

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO .............../ ............... BỘ NỘI VỤ ......../ ........ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ KIM LOAN QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM VỀ THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ - TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS – TS LÊ THỊ HƢƠNG THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, phản ánh khách quan quá trình nghiên cứu. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Học viên Nguyễn Thị Kim Loan Lời Câm Ơn Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời câm ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn Giâng viên PGS . TS. Lê Thị Hương đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc định hướng chọn đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu. Cô luôn động viên và täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này. Trån trọng! Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017 Học viên Nguyễn Thị Kim Loan MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ............... 6 1.1. Nhận thức chung về hoạt động điều tra các vụ án hình sự .............................. 6 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động điều tra các vụ án hình sự .................6 1.1.2. Vai trò của hoạt động điều tra các vụ án hình sự ..................................12 1.2. Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .........................................................................................................13 1.2.1. Khái niệm quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .............................................................................................. 13 1.2.2. Đặc điểm của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ........................................................................................18 1.2.3. Ý nghĩa của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ........................................................................................19 1.2.4. Nội dung của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ........................................................................................21 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .............................................26 1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ............................................................... 26 1.3.2. Các điều kiện bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .......................................................................30 Chƣơng 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TẠI TỈNH PHÚ YÊN ................................................................. 35 2.1. Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .....................................................................................35 2.1.1. Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) ..................................................................................35 2.1.2. Quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự theo Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật hiện hành ..................................................................................................................41 2.2. Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên ...................................57 2.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .......................................57 2.2.2. Đánh giá thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên ....................................................................................................................63 Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN........................................................................................... 69 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ...........................................................69 3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ......................69 3.1.2. Xuất phát từ yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và cải cách tư pháp ............................................................................................... 71 3.1.3. Xuất phát từ yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế ............................ 72 3.2. Giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .....................................................................................73 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .....................................................73 3.2.2. Quy định chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong việc bảo vệ các quyền con người trong điều tra vụ án hình sự ..............80 3.2.3. Bảo đảm thực hiện dân chủ, cơ chế giám sát trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự, hoàn thiện chế độ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng ...............83 3.2.4. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong hoạt động tố tụng.....85 3.2.5. Xử lý vi phạm quyền con người trong điều tra vụ án hình sự ................86 KẾT LUẬN............................................................................................................................. 89 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 91 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT - BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự - XHCN: Xã hội chủ nghĩa - TTHS: Tố tụng hình sự - VAHS: Vụ án hình sự - VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Quyền con người là một phạm trù chính trị - xã hội – lịch sử, phản ánh nhu cầu, năng lực vốn có, chỉ có ở con người dưới hình thức các chuẩn mực khách quan được xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng các quy định của pháp luật. Hiến pháp năm 2013, với rất nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng ở Chương II, thể hiện rõ sự thay đổi trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong các quyền cơ bản của con người, được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948 (Universal Declaration of Human Rights - UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) và được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự kiện gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24/9/1982. Nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định chung chung, đồng nhất quyền con người và quyền công dân thì Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo hướng: quyền bất khả xâm phạm về thân thể là quyền tự nhiên, quyền bẩm sinh của con người, đồng thời quy định rõ nội hàm và các yêu cầu của quyền này. Việc Hiến định rõ ràng, cụ thể nguyên tắc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm ngăn chặn mọi hành vi tùy tiện xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, có cơ chế để bảo vệ tốt hơn quyền con người nhất là trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Hoạt động điều tra là quá trình tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Hoạt động điều tra các 1 vụ án hình sự giúp tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân, cùng với các hoạt động tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. Bảo vệ quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự là một bộ phận của bảo đảm quyền con người nói chung được ghi nhận trong các đạo luật của hệ thống pháp luật Việt Nam. Bảo vệ quyền con người là Nhà nước bằng sức mạnh và ý chí của mình để các quyền con người không bị xâm phạm và được thực thi trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế - xã hội. Để quá trình điều tra vụ án hình sự thật sự khách quan, toàn diện, đầy đủ thì việc đảm bảo quyền con người nhất là quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một yêu cầu quan trọng, tất yếu. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật chuyên ngành Luật Hiến pháp Luật hành chính của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Trong khoa học pháp lý nước ta, vấn đề bảo đảm quyền con người được nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình với các góc độ khác nhau, chẳng hạn: Từ góc độ nghiên cứu về quyền con người nói chung có công trình sau: - Quyền con người trong thế giới hiện đại, Viện Thông tin khoa học xã hội của GS.TS Hoàng Văn Hảo và Phạm Khiêm Ích (1995). - Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội của PGS.TS Chu Hồng Thanh (1997). Từ góc độ nghiên cứu quyền con người trong lĩnh vực Tư pháp có một số công trình như: 2 - Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh (2010); - Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc Gia (2011); - Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Ngô Thị Thanh, (2013), Luận văn thạc sĩ Luật học Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội; - Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học của Lại Văn Trình (2011) Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Dưới góc độ nghiên cứu về Luật Hiến pháp có: - Nguyên tắc hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Luận văn thạc sĩ của Lưu Đức Quang (2016), Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; - Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân của tác giả Lưu Đức Quang (2016), Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội; - Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Nguyễn Văn Mạnh (1995), Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Đảm bảo quyền con người trong hoạt động của Quốc hội Việt Nam, Tường Duy Kiên (2004), Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh… Ngoài ra, vấn đề này còn được đề cập trong nhiều tạp chí pháp luật, tạp chí nhân quyền và các hội thảo khoa học trên toàn quốc. Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các vấn đề về bảo đảm quyền con người nói chung chứ chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể về bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt 3 động điều tra các vụ án hình sự. Vì vậy, đây là công trình mới nghiên cứu có tính hệ thống và đi vào chuyên sâu so sánh các biện pháp bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể qua các bản Hiến pháp Việt Nam các thời kỳ, các quy định về hoạt động điều tra các vụ án hình sự và đưa ra nhận định, đánh giá về các quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích tổng quát của luận văn là xây dựng luận cứ khoa học cho các giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự trên cơ sở là một quyền của con người. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực thi các quy định Hiến pháp và các quy định pháp luật có liên quan đến bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể theo Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật liên quan trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: nghiên cứu tại tỉnh Phú Yên. - Về thời gian: Từ năm 2011 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn lấy lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu đề tài có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sau: - Góp phần làm rõ hơn căn cứ lý luận và thực tiễn về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. - Đề xuất và đưa ra những quan điểm, giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. - Những kết luận và những giải pháp rút ra từ luận văn có thể làm tài liệu tham khảo về bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự Chương 2: Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự và thực trạng thực hiện tại tỉnh Phú Yên Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên 5 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Nhận thức chung về hoạt động điều tra các vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động điều tra các vụ án hình sự Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan phục vụ nhu cầu của con người. Trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, điều tra là hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm. Hoạt động điều tra được nhìn nhận và quy định khác nhau ở các quốc gia phụ thuộc vào quan điểm chính trị, chính sách hình sự, trình độ và cách thức tổ chức bộ máy phòng, chống tội phạm ở từng nước. Trong khoa học pháp lý Việt Nam tồn tại các quan điểm khác nhau về hoạt động điều tra: Từ điển Luật học giải thích rằng: “Điều tra là công tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”[ 36]. Trong cuốn Tìm hiểu Luật Tố tụng hình sự, một nhóm tác giả cùng thống nhất giải thích: “Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong đó cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án”[3]; hoặc, “Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người phạm tội”[7]; hoặc “Điều tra tội phạm là giai đoạn đầu, giữ vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự (TTHS). Giai đoạn này kéo dài, rất phức tạp và có ý nghĩa chi phối cả tiến trình tố tụng” [18]. 6 Cách hiểu phổ biến ở Việt Nam hiện nay cho rằng điều tra là hoạt động của cơ quan điều tra trong điều tra vụ án hình sự. Quan điểm này cho rằng điều tra là tổng hợp tất cả các hành vi thực hiện trong giai đoạn điều tra và do một cơ quan điều tra thực hiện. Cách hiểu này thể hiện ranh giới không rõ ràng giữa chức năng của cơ quan điều tra với hoạt động điều tra, đồng nhất giai đoạn điều tra với hoạt động điều tra, coi hoạt động điều tra gồm mọi hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra; nhìn nhận về hoạt động điều tra mang tính cục bộ, phiến diện, bó hẹp phạm vi hoạt động điều tra chỉ được tiến hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trên thực tế hoạt động điều tra được tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự với những mục đích khác nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án. Thực chất, các định nghĩa trên là định nghĩa về hoạt động điều tra của cơ quan điều tra nên nó thiếu tính toàn diện, chưa nói lên được tính bản chất và nội hàm của loại hoạt động này. Quan điểm này chỉ thừa nhận cơ quan điều tra là chủ thể duy nhất có thẩm quyền được phép thực hiện các hoạt động điều tra. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) về thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra. Khoản 1, Điều 65, BLTTHS năm 2003 quy định thẩm quyền thu thập chứng cứ là thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Ba cơ quan này được tiến hành tất cả các hoạt động điều tra đã được quy định trong BLTTHS. Theo Điều 88 BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền thu thập chứng cứ là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này. Theo tinh thần của điều luật nêu trên bình đẳng về thẩm quyền được tiến hành tất cả các hoạt 7 động điều tra. Thực hiện hoạt động điều tra chính vì vậy không phải là độc quyền của cơ quan điều tra. Cách hiểu thứ hai coi hoạt động điều tra là hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Điểm khác biệt lớn nhất của quan điểm này so với quan điểm thứ nhất là đã nhìn nhận chủ thể của hoạt động điều tra rộng hơn. Tuy nhiên cách hiểu thứ hai lại nhầm lẫn giữa các hoạt động của cơ quan điều tra với hoạt động điều tra; giữa chức năng của từng hoạt động điều tra với chức năng của các cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Về mặt luật thực định, ở Việt Nam hiện nay chưa có một khái niệm pháp lý về “hoạt động điều tra” và cũng chưa được giải thích chính thức bởi các cơ quan có thẩm quyền. Trong tất cả các BLTTHS, chưa có điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về hoạt động điều tra. Một số giải thích không chính thức như đã nói trên đây chưa đủ để có một nhận thức đúng về hoạt động điều tra. Mặc dù hoạt động điều tra đã được quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, hoạt động điều tra được các cơ quan tố tụng hình sự thực hiện thường xuyên trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng khoa học pháp lý và thực tiễn hiện nay có những quan điểm khác nhau, chưa thống nhất nhận thức về hoạt động điều tra, vẫn có sự nhầm lẫn giữa các khái niệm điều tra, thẩm quyền điều tra vụ án và hoạt động điều tra; giữa giai đoạn điều tra với hoạt động điều tra. Chính vì vậy mà vô tình đồng nhất hoạt động điều tra với các hoạt động khác của cơ quan điều tra, bó hẹp phạm vi chủ thể, phạm vi thời gian của hoạt động điều tra. Trong khoa học pháp lý Việt Nam hoạt động điều tra chưa được tập trung sự chú ý nghiên cứu sâu sắc, mà còn đang bỏ ngỏ nên có những cách hiểu, nhận thức khác nhau về hoạt động điều tra là không thể tránh khỏi. 8 Theo tác giả Nguyễn Viết Hoạt: “Từ giác độ bản chất nhận thức của hoạt động điều tra chúng ta có thể định nghĩa hoạt động điều tra là một sự kết hợp các thao tác có tính chất tìm kiếm, nhận thức, xác nhận phù hợp với đặc thù của các dấu vết tội phạm, phát hiện, thu giữ, củng cố một cách có hiệu quả các thông tin có giá trị chứng minh trong các dấu vết đó theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhằm mục đích thu thập, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ chứng minh sự kiện phạm tội” [11]. Theo Pháp lệnh số 23/2004/PL-UBNTQH11 về tổ chức điều tra hình sự ngày 20/08/2004 quy định một số cơ quan khác có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra bao gồm: Bộ đội biên phòng, Cơ quan hải quan, Cơ quan kiểm lâm, Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Cảnh sát nhân dân, An ninh nhân dân và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân. Như vậy chủ thể hoạt động điều tra ngoài điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán còn có các chủ thể khác thuộc các cơ quan nêu trên. Cách tiếp cận như vậy về hoạt động điều tra là cơ sở có thể cho phép chúng ta làm rõ cơ cấu bên trong của hệ thống cấu thành của hoạt động điều tra, phân loại hoạt động điều tra; phân biệt các hoạt động điều tra giống nhau nhưng có mục đích rất khác nhau ví dụ như khám nghiệm, khám xét, khám người; làm rõ hơn khả năng phục vụ hoạt động nhận thức của từng hoạt động điều tra, cụ thể trên cơ sở xác định vị trí của nó trong hệ thống các hoạt động điều tra và cho phép thực hiện việc lựa chọn đúng hoạt động điều tra cần thiết trong thực tiễn. Hoạt động điều tra là một công cụ, phương tiện khám phá tội phạm, có bản chất và nội hàm của hoạt động nhận thức. Để nâng cao hiệu quả thực tiễn của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi chủ thể phải nhận thức 9 đúng bản chất, tuân thủ những quy luật hoạt động nhận thức trong việc áp dụng các hoạt động điều tra trong thực tiễn. Theo quan điểm của tác giả, hoạt động điều tra các vụ án hình sự là các hoạt động trong tố tụng hình sự do các cơ quan có thẩm quyền điều tra, chứng minh tội phạm theo quy định của pháp luật thực hiện nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Từ khái niệm về hoạt động điều tra các vụ án hình sự nêu trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của hoạt động điều tra như sau: - Hoạt động điều tra các vụ án hình sự chỉ phát sinh khi có hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm được thực hiện. Khi một hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu của tội phạm thì vụ án phải được khởi tố để điều tra. Điều 13 BLTTHS năm 2003 quy định: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm”. - Hoạt động điều tra được tiến hành công khai theo các trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định. Khi tiến hành các biện pháp điều tra phải có mặt của những người theo luật định và họ phải ký vào biên bản hoạt động điều tra (như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại…). Tính công khai của hoạt động điều tra thể hiện ở biện pháp và các thủ tục tố tụng được tiến hành, còn nội dung, kết quả điều tra thì phải bí mật. Việc giữ bí mật điều tra là yêu cầu nghiệp vụ, một nguyên tắc được luật định có ý nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động điều tra, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan nhằm bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công 10 dân. Vì vậy, hoạt động điều tra gắn liền chặt chẽ với quyền con người. Hoạt động điều tra là một loại hoạt động đặc thù của Nhà nước, thực hiện quyền lực Nhà nước vì nó đụng chạm nhiều tới các quyền con người, quyền công dân. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là vừa đấu tranh chống tội phạm vừa bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Nhà nước ban hành nhiều quy định pháp luật nhằm hạn chế và loại trừ những tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình điều tra, truy tố tội phạm. Đồng thời, để đạt được mục đích của hoạt động điều tra, Nhà nước ban hành một số quy định hạn chế quyền con người trong đó có các biện pháp tác động đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người. Trong hoạt động điều tra các VAHS có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam và áp dụng các biện pháp cưỡng chế như khám xét chỗ ở, khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể. Do đó, thường tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền con người, quyền công dân. - Trong quá trình điều tra vụ án các cơ quan có thẩm quyền điều tra phải tuân thủ triệt để các quy định pháp luật, chỉ được áp dụng những biện pháp, những phương tiện theo quy định của pháp luật để làm rõ vụ án. Kết quả tiến hành các hoạt động điều tra được phản ánh trong các văn bản tố tụng có giá trị pháp lý. Tùy theo đặc điểm của VAHS mà Cơ quan điều tra áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, kịp thời các chiến thuật và phương tiện điều tra phù hợp với các tình huống cụ thể. Đồng thời, trong quá trình điều tra cán bộ điều tra trực tiếp áp dụng hoặc yêu cầu, đề nghị các lực lượng khác áp dụng các biện pháp và phương tiện nghiệp vụ để nhanh chóng khám phá tội phạm. Hoạt động điều tra là hoạt động chỉ được tiến hành bởi các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật với trình tự, thủ tục chặt chẽ, bảo đảm giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời, bảo vệ lợi ích của Nhà 11 nước, quyền lợi hợp pháp của người dân đồng thời tôn trọng và bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng. Ngoài ra, hoạt động điều tra có ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền quan trọng nhất của con người như quyền sống, quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về thân thể… Do đó, hoạt động điều tra chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của nhiều cơ chế kiểm tra giám sát khác nhau. Cơ chế giám sát việc thực hiện hoạt động điều tra ở nước ta được thể hiện rõ nét nhất ở vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo hoạt động điều tra được thực hiện đúng quy định pháp luật, bảo đảm các quyền con người trong quá trình điều tra. Sự chế ước và kiểm sát chặt chẽ của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra được thể hiện thông qua việc luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn cho Viện kiểm sát để đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp (xét phê chuẩn các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, yêu cầu điều tra, quyết định áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan điều tra…) 1.1.2. Vai trò của hoạt động điều tra các vụ án hình sự Hoạt động điều tra có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, phục vụ cho việc thực hiện mục đích chung của quá trình tố tụng đó là: “Phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.” Hoạt động điều tra có vai trò trong chứng minh sự thật vụ án theo yêu cầu pháp luật. Chỉ sau khi chứng minh sự thật của vụ án mới có đủ căn cứ để khẳng định một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội, là cơ sở để Tòa án quyết định áp dụng hình phạt. Tội phạm chỉ có thể được chứng minh làm rõ bằng con đường chứng minh, bởi vì tội phạm xảy ra trong quá khứ so với thời điểm tiến hành điều tra. Tội phạm là sự kiện vật chất, do đó 12 có thể được chứng minh bằng những tài liệu thực tế, đó là những chứng cứ pháp lý. Hoạt động điều tra có nhiệm vụ thu thập chứng cứ làm rõ sự thật khách quan của vụ án, kể cả chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội. Kết quả xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu là cơ sở để Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, quyết định việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định hạn chế quyền con người, quyền công dân đối với người phạm tội, thay đổi giai đoạn tố tụng hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng. Tác động của kết quả điều tra không chỉ giới hạn ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà còn là nhận định, đánh giá tội phạm, áp dụng pháp luật của cơ quan điều tra. Những sai lầm, thiếu sót trong hoạt động điều tra tất yếu sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc giải quyết vụ án hình sự, như truy tố, xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm [19]. Ngoài ra, hoạt động điều tra tội phạm còn phục vụ nhiều yêu cầu nghiệp vụ khác, tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân, góp phần có hiệu quả vào công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. 1.2. Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự 1.2.1. Khái niệm quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự Quyền con người là những giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm, hạnh phúc của mọi con người [14, tr. 19]. Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan