Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Skkn một số biện pháp dạy học giúp học sinh học tốt dạng toán “ tìm hai số khi b...

Tài liệu Skkn một số biện pháp dạy học giúp học sinh học tốt dạng toán “ tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” (lớp 5)

.DOC
16
2112
90

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN KIM BẢNG TRƯỜNG TIỂU HỌC Xà KHẢ PHONG ***** MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT DẠNG TOÁN “ TÌM HAI SỐ KHI BIẾT TỔNG VÀ TỈ SỐ CỦA HAI SỐ ĐÓ” NĂM HỌC : 2016 – 2017 Lĩnh vực ( Môn ) : Toán Mã số : 02 Người thực hiện : Nguyễn Thị Nhung Chức vụ : Giáo Viên Kim Bảng, tháng 11 năm 2016 1 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1.1. Lí do chọn đề tài Xuất phát từ yêu cầu cơ bản cải tiến phương pháp dạy và học trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của chương trình toán lớp 4. Từ những hạn chế của của tâm lý của lứa tuổi. Từ tình hình thực tiễn trình độ nhận thức của học sinh trong lớp, tôi luôn luôn trăn trở, suy nghĩ tìm cách cải tiến phương pháp dạy bộ môn Toán. Trong khuôn khổ bài viết có hạn, sau đây tôi chỉ đề cập đến một vấn đề, đó là “Một số biện pháp dạy học giúp học sinh học tốt dạng toán: tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”. Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì đối với nhận thức của học sinh tiểu học nói chung, của lớp tôi nói riêng, các em đa số giải toán có lời văn còn yếu vì nhiều nguyên nhân, trong đó vẫn là: Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các cháu thường vội vàng, hấp tấp, đơn giản hoá vấn đề nên đôi khi chưa hiểu kỹ đề bài đã vội vàng làm bài, dẫn đến kết quả còn nhiều khi bị sai, thiếu hoặc đúng nhưng chưa đủ. Bên cạnh đó, cũng còn một nguyên nhân quan trọng nữa là tâm lý lứa tuổi. Các cháu thích giống bài của bạn, không tin tưởng vào bài của chính mình nên dẫn đến những sai sót giống nhau. Thậm chí có khi đã làm bài đúng rồi nhưng lại bỏ đi, chép lại sao cho giống bài của bạn. Đây là do các em thiếu cơ sở lý luận, không tin tưởng vào mình. Hơn nữa “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” là một dạng toán còn rất mới mẻ đối với các em. Do tính chất đặc thù của môn Toán và những thực tế nêu trên, việc dạy các dạng toán có lời văn ở trường tôi còn gặp nhiều khó khăn. Đã có nhiều buổi họp tổ, nhóm chuyên môn bàn và trao đổi về vấn đề dạy dạng toán có lời văn ở lớp 4, song những thắc mắc trong giáo viên chưa được giải quyết thoả đáng, triệt để. Họ muốn được tìm hiểu nguyên nhân trên cơ sở đó đưa ra được giải pháp hữu hiệu góp phần từng bước cải thiện vấn đề dạy - học toán theo xu hướng tích cực để chất lượng dạy học Toán trong trường được nâng cao thêm một bước. Cùng với giáo viên, tôi không những muốn được tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề một cách nghiêm túc, sâu sắc, thiết nghĩ đó cũng là một cơ hội để tự mình làm giầu cho vốn kiến thức của cá nhân tôi thêm phong phú và cùng anh chị em giáo viên tháo gỡ những khó khăn trong khi dạy môn Toán lớp 4 của trường. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm ở lớp 4 tôi thật sự băn khoăn suy nghĩ: làm thế nào để các em giải toán có lới văn được tốt hơn và mất ít thời gian nhất? Vì thế sau một thời gian giảng dạy, nghiên cứu, tìm tòi tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm dạy dạng bài: Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó và đã áp dụng vào thực tế đạt hiệu quả. Vì vậy trong bài viết này tôi mạnh dạn trình bày kinh nghiệm của 2 mình về: Một số biện pháp dạy học giúp học sinh học tốt dạng bài “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó”. 1.2. Mục đích nghiên cứu - Giáo viên hướng dẫn tốt dạng bài “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó” cho học sinh. - Giúp học sinh nắm được các bước giải và giải được bài toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó”. 1.3 Đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu nội dung và phương pháp giải các bài toán có lời văn dạng toán: “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”. 1.4 Phương pháp nghiên cứu 1. Phương pháp đàm thoại 2. Phương pháp trực quan 3. Phương pháp trắc nghiệm 4. Phương pháp kiểm tra, thống kê kết quả 1.5 Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Học sinh lớp 4C - Trường Tiểu học xã Khả Phong. - Khảo sát việc học và kết quả làm bài của học sinh với dạng bài trên. II -NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Ở bậc học Tiểu học toán là một môn độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học. Môn toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiên cứu có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người. Môn toán còn là môn học rất cần thiết để học các môn học khác, nhận thức thế giới xung quanh để hoạt động có hiệu quả trên thực tiễn. Môn toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện cho học sinh phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận lôgic, thao tác tư duy cần thiết để nhận thức thế giới hiện thực như: trừu tượng hóa, khái quát hóa, khả năng phân tích tổng hợp, so sánh, dự đoán, chứng minh…. Môn toán còn góp phần giáo dục lý trí và những đức tính tốt như: trung thực, siêng năng, cần cù, chịu khó, ý thức vượt khó khăn, tìm tòi sáng tạo và nhiều kỹ năng tính toán cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. Thông qua học Toán để đức tính đó được thường xuyên phát huy và ngày càng hoàn thiện. Phải đổi mới dạy toán một cách mạnh mẽ về phương pháp, về việc xét hoàn thành chương trình lớp học, về chấm chữa và nhận xét học sinh. Giáo dục toán học là một bộ phận của giáo dục tiểu học. Do đó, môn toán có nhiệm vụ góp phần vào thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của bậc học, đó là: Trang bị cho học sinh một hệ thống kiến thức và kĩ năng cơ bản, cần thiết cho việc học tập tiếp hoặc đi vào cuộc sống. Giúp học sinh biết vận dụng kiến thức vào hoạt động thiết thực trong đời 3 sống, từng bước hình thành, rèn luyện thói quen phương pháp và tác phong làm việc khoa học, phát triển hợp lí phù hợp với tâm lí của từng lứa tuổi. Tạo tiền đề cho học sinh học tốt các môn học còn lại. Toán có lời văn trong trương trình tiểu học giữ một vai trò quan trọng. Một phần lớn thời gian học toán của học sinh dành cho việc học giải các bài toán ấy. Kết quả học toán của học sinh cũng được đánh giá qua khả năng giải toán, cả kết quả kiểm tra cũng vậy. Biết giải thành thạo các bài toán là một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá trình độ toán học của mỗi học sinh. Vậy giáo viên phải có phương pháp dạy học như thế nào? Để truyền đạt kiến thức và khả năng học bộ môn này tới học sinh tiểu học. Theo tôi các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí mục đích và nhiệm vụ mục tiêu giáo dục của môn toán ở bài học nói chung và trong giờ dạy toán lớp 4 nói riêng. Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến toán học, rèn kĩ năng giải toán mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả cho học sinh tức là dạy cách học. Vì vậy giáo viên phải đổi mới phương pháp và các hình thức dạy học để nâng cao hiệu quả dạy - học. Từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng là dễ nhớ nhưng mau quên, sự tập trung chú ý trong giờ học toán chưa cao, trí nhớ chưa bền vững, thích học nhưng chóng chán. Vì vậy, giáo viên phải làm thế nào để khắc sâu kiến thức cho học sinh, tạo ra không khí sẵn sàng học tập và chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót. 2. Cơ sở thực tiễn Ở trong thực tiễn có nhiều điều khác với sách vở, có nhiều điều không sách vở nào nói hết. Toán học cũng vậy. Sách vở không nói hết mới cần đến vai trò của người thầy. Trong thực tiển sách học không lường hết những tình huống xảy ra trong quá trình dạy học. Bởi vậy sách dạy chúng ta phương pháp truyền thụ kiến thức. Song chúng ta cũng có thể giúp người viết sách hoàn thiện phương pháp giảng dạy một cách tốt hơn. Chưa nói đối tượng học sinh ở mỗi địa phương lại có sự khác nhau. Nhận thức của các em có sự chênh lệch, do đó người giáo viên tuỳ theo học sinh của lớp mình, của địa phương mình để có cách dạy thích hợp. Hiện nay toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh làm cho hoạt động dạy trên lớp "nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả". Để đạt được yêu cầu đó giáo viên phải có phương pháp và hình thức dạy học hợp lí để nâng cao hiệu quả cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi và trình độ nhận thức của học sinh. Hơn nữa, qua mét sè n¨m giảng dạy,bản thân tôi đã có tinh thần trách nhiệm, có ý thức về chuyên môn trong việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy toán 4. Tôi 4 nhận thấy về mức độ hình thành và phát triển năng lực học sinh không đồng đều. Phần nhiều học sinh chưa nắm chắc những kiến thức cơ bản về toán như: - Học sinh chưa biết xác định dạng toán. - Các em chưa có kĩ năng tìm hiểu mối quan hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm. - Chưa biết tóm tắt dữ liệu đã nêu ở đề bài bằng sơ đồ đoạn thẳng. - Chưa nắm được quy trình giải bài toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó”. Từ đó còn nhầm lẫn trong thực hiện các bước giải và lựa chọn sai phép tính. - Một số học sinh thực hiện đúng các bước nhưng tính sai kết quả. 3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Trong khuôn khổ của một đề tài sáng kiến kinh nghiệm tôi xin được trình bày những biện pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng dạy dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó” và nội dung lý giải các biện pháp cụ thể như sau: 3.1 Nắm vững vị trí, vai trò của dạng toán có lời văn trong chương trình Toán lớp 4. Toán có lời văn giữ một vị trí quan trọng trong chương trình toán 4; Góp phần hệ thống hoá về củng cố có kiến thức, kỹ năng về số tự nhiên, phân số, yếu tố hình học và 4 phép tính (cộng, trừ, nhân, chia) với các số đã học làm cơ sở để học tiếp ở lớp 5 và nó đặt nền móng cho quá trình đào tạo tiếp theo ở các cấp học cao hơn, nó hình thành kỹ năng tính toán, giúp học sinh nhận biết được những mối quan hệ về số lượng, hình dạng không gian của thế giới hiện thực, hình thành phát triển hứng thú học tập và năng lực phẩm chất trí tuệ của học sinh ngay từ góp phần phát triển trí thông minh, óc suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo. Kế thừa giải toán ở lớp 1, lớp 2, lớp 3, mở rộng, phát triển nội dung giải toán phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 4. 3.2 Nắm vững nội dung giải Toán có lời văn ở lớp 4. Toán có lời văn giữ một vị trí đặc biệt trong chương trình toán 4 bao gồm các dạng toán điển hình: - Tìm số trung bình cộng. - Tìm hai số khi biết tổng và hiếu của hai số. - Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số. - Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ của hai số. - Tìm chu vi và diện tích hình chữ nhật. - Tìm chu vi và diện tích hình vuông. Nội dung giải toán được sắp xếp hợp lý đan xen với nội dung hình học (diện tích, chu vi hình vuông, hình chữ nhật...) và các đơn vị đo lường, đo diện tích nhằm đáp ứng với mục tiêu của chương trình toán 4. Ngoài ra nội dung các bài toán ở lớp 4 đã chú ý đến tính cập nhật, gắn liền với tình huống trong đời sống, gần gũi với trẻ, tăng cường tính giáo dục cho học sinh. 5 Để dạy tốt môn Toán lớp 4 nói chung, Toán có lời văn đặc biệt là dạng toán điển hình “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó” nói riêng, ngoài việc giáo viên cần nắm chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa; người giáo viên cần nắm được những dạng bài tập sử dụng trong dạy học dạng Toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó” ở môn Toán lớp 4. Đó là các bài tập: - Dạng bài tỉ số của hai số là một số tự nhiên (có nghĩa là so sánh giá trị của số lớn với giá trị của số bé). - Dạng "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó". Với tỉ số là một phân số (tức là so sánh giá trị của số bé với giá trị của số lớn). 3.3 Tự học tập và nghiên cứu để nắm vững được tác dụng cũng như việc tiến hành thực hành đổi mới phương pháp trong giảng dạy. Tôi thấy đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy giải toán nói riêng là nhằm tìm ra được phương pháp logic cho từng nội dung của từng môn, từng bài để nhằm đạt được chất lượng cao nhất trong giảng dạy. Đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay chính là để phát hiện, lựa chọn phương pháp cụ thể phù hợp với quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm và phù hợp với nội dung giáo dục cụ thể. Vì vậy chúng tôi thường xuyên sinh hoạt tổ, thăm lớp, dự giờ của đồng nghiệp để học tập và xây dựng thống nhất cách thực hiện phương pháp đổi mới giảng dạy cho tất cả các môn học cho phù hợp để tìm ra con đường chuyển tải chính thức tới học sinh bằng con đường nhanh nhất, ngắn gọn nhất. Cần nghiên cứu, tìm hiểu để nắm được yêu câu của việc dạy toán nói chung và loại giải toán: "Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó" nói riêng. Đồng thời nắm được những thiếu sót của học sinh trong giải toán có lời văn. 3.4 Chuẩn bị cho giờ dạy giải toán theo phương pháp đổi mới đạt kết quả. Để có được giờ dạy giải toán theo phương pháp đổi mới đạt kết quả tốt, phát huy được tính tích cực của học sinh thì giáo viên phải có thiết kế cụ thể rõ ràng, nó sẽ quyết định lớn đến chất lượng giờ dạy và đồng thời giáo viên cũng là người tổ chức, hướng dẫn thiết kế cho từng học sinh. Mọi học sinh đều chủ động học tập và phát triển cao nhất, chính vì lẽ đó cả 2 đối tượng thầy và trò đều phải có sự chuẩn bị chu đáo. a) Sự chuẩn bị của giáo viên: Trước khi dạy bất cứ một dạng toán nào, trong tổ chúng tôi đều thống nhất là dành thời gian kĩ lưỡng về tất cả các bài tập của dạng toán đó, từ bài giảng đến bài luyện, từ bài trong sách giáo khoa đến bài trong vở bài tập để thấy được phương pháp giảng dạy phù hợp, ngắn gọn, học sinh dễ tiếp thu, giáo viên nói ít và chọn được những bài thêm để nâng cao kiến thức đối với đối tượng học sinh có năng lực học tập các môn học. Đồng thời cũng lường trước được chỗ học sinh hay vướng mắc trong khi thực hành giải loại toán đó mà giáo viên lưu ý trong giảng dạy. - Khi dạy dạng toán: "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó". Học sinh được học 2 tiết bài mới (đó là tiết 1: "Tỉ số ở dưới dạng số tự nhiên", có nghĩa là so sánh giữa giá trị của số lớn với giá trị của số bé. Tiết 2: "Tỉ số ở dưới dạng phân số", có nghĩa...). Thì học sinh thường mắc ở dạng tỉ số là phân số nên 6 giáo viên dạy cần lưu ý nhấn mạnh để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Từ mối quan hệ tỉ số là hai số trong bài giáo viên hướng dẫn học sinh tìm cách tóm tắt bài toán và biểu diễn các yếu tố đã cho, yếu tố cần tìm trên sơ đồ đoạn thẳng. Đây là loại toán giải khó đối với học sinh lớp 4 nên giáo viên phải giúp học sinh: + Xác định được tổng, tỉ số đã cho. + Xác định được hai số phải tìm là số nào? Từ đó hướng tới phương pháp giải chung là ( phương pháp giải bài toán): - Tìm tổng số phần bằng nhau - Tìm giá trị của một phân bằng lấy tổng của hai số chia cho tổng số phần bằng nhau, rồi dựa vào mối quan hệ giữa tỉ số của hai số của hai số mà tìm ra giá trị của mỗi số phải tìm. Trên cơ sở đó học sinh sẽ nắm cách giải đặc trưng của loại toán này. Để củng cố được kĩ năng và kiến thức của dạng toán này, tôi cho các em tự đặt đề toán theo loại toán đó đồng thời chọn các bài toán có dạng tương tự để luyện cho học sinh. Tất cả sự chuẩn bị trên của giáo viên đều được thể hiện cụ thể trên bài soạn đủ các bước, các yêu cầu và thể hiện được công việc của thầy và trò trong tiết học. b) Sự chuẩn bị của học sinh: Đối với học sinh đã đạt được giáo dục và bồi dưỡng ý thức thích học toán, có thú vị, hào hứng trong hoạt động học toán, có phương pháp học bộ môn toán, có thao tác về giải toán phải có đầy đủ các dụng cụ học toán và chuẩn bị đầy đủ cho phù hợp với từng tiết học. Song không thể thiếu được những kiến thức về toán học có hệ thống logic từ lớp dưới, từ bài học trước phải chắc chắn làm cơ sở, nền tảng giúp học sinh tự tin trong hoạt động thực hành, trong việc tiếp thu kiến thức. Ví dụ như khi học giải toán về "Bài toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó" thì các em đã được học bài trước là "Tỉ số"... Do có sự liên quan hệ thống giữa kiến thức đã học với kiến thức mới nên học sinh phải làm hết và đầy đủ các bài tập, học thuộc các quy tắc, công thức toán. Để học sinh có thói quen học bài, làm bài đầy đủ ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng “đôi bạn thân”; “đôi bạn cùng tiến” để các em có thể giúp đỡ nhau trong học tập; kiểm tra bài làm ở nhà của các bạn trong bàn vào giờ ôn bài, soát bài và chỉ ra chỗ đúng sai trong bài tập của bạn giúp bạn cùng tiến bộ. 3.5 Nắm vững quy trình thực hiện khi dạy giải toán có lời văn nói chung, giải dạng Toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó” nói riêng. - Giải toán đối với học sinh là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Việc hình thành kỹ năng giải toán hơn nhiều so với kĩ năng tính vì bài toán giải là sự kết hợp đa dạng hoá nhiều khái niệm quan hệ toán học, ...chính vì vậy đặc trưng đó mà giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh có được thao tác chung trong quá trình giải toán sau: Bước 1: Học sinh đọc kỹ đề bài: Có đọc kỹ đề bài học sinh mới tập trung suy nghĩ về ý nghĩa nội dung của bài toán và đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán. Chúng tôi có rèn cho học sinh thói quen chưa hiểu đề toán thì chưa tìm cách giải. Khi giải bài toán ít nhất đọc từ 2 đến 3 lần. 7 Bước 2: Học sinh phân tích tóm tắt đề toán. Để biết bài toán cho biết gì? Hỏi gì? (tức là yêu cầu gì?) Đây chính là trình bày lại một cách ngắn gọn, cô đọng phần đã cho và phần phải tìm của bài toán để làm rõ nổi bật trọng tâm, thể hiện bản chất toán học của bài toán, được thể hiện dưới dạng câu văn ngắn gọn hoặc dưới dạng các sơ đồ đoạn thẳng. Bước 3: Học sinh tìm cách giải bài toán: Thiết lập trình tự giải, lựa chọn phép tính thích hợp. Bước 4: Học sinh trình bày bài giải: Trình bày lời giải (nói - viết) phép tính tương ứng, đáp số, kiểm tra lời giải (giải xong bài toán cần thử xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? (trong một số trường hợp nên thử xem có cách giải khác gọn hơn, hay hơn không? 3.6 Giáo viên cần nắm vững phương pháp dạy dạng bài toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó” ở lớp 4. Muốn xác định được Tỉ số và mối quan hệ giữa các đại lượng liên quan đến Tỉ số, thì tôi rèn cho học sinh phải hiểu được ý nghĩa thực tiễn của Tỉ số rồi hướng dẫn học sinh kỹ năng giải bài toán có lời văn liên quan đến Tỉ số. Cụ thể: a) Tìm hiểu ý nghĩa thực tiễn của Tỉ số. Ví dụ 1: Tỉ số giữa số con trâu so với số con bò là hiểu ý nghĩa thực tiễn của tỉ số con trâu so với số con bò là 2 3 2 3 2 3 .Để giúp cho học sinh tôi sẽ hướng dẫn cho học sinh hiểu Tỉ số giữa số . Số con trâu bằng 2 3 số con bò có nghĩa là số con bò là 3 phần bằng nhau thì số con trâu chiếm 2 phần như thế. Tổng số con trâu và con bò là 5 phần. Tỉ số 2 3 chính là phân số 2 3 . Mẫu số là 3 tương ứng với số phần chỉ số con bò. Tử số là 2 tương ứng với số phần chỉ số con trâu. Ví dụ 2: Tỉ số giữa số con bò và số con trâu là 3 2 . Để giúp cho học sinh hiểu ý nghĩa thực tiễn của Tỉ số học sinh hiểu Tỉ số giữa số con bò so với số con trâu là 3 , tôi sẽ hướng dẫn cho 2 3 3 . Số con bò bằng số 2 2 con trâu có nghĩa là số con trâu là 2 phần bằng nhau thì số con bò là 3 phần bằng nhau như thế. Tỉ số 3 2 chính là phân số 3 2 . Mẫu số là 2 tương ứng với số phần chỉ số con trâu. Tử số là 3 tương ứng với số phần chỉ số con bò. Tổng số con bò và con trâu là 5 phần bằng nhau. *Như vậy: Tỉ số là một phân số biểu thị mối quan hệ giữa đại lượng này so với đại lượng kia. b) Rèn kỹ năng giải bài toán có lời văn “Tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó”. 8 Để giải được những bài toán ở dạng này, học sinh phải xác định được tổng của hai số và Tỉ số của hai số. Tỉ số của hai số có thể là phân số, cũng có khi ở dạng lời văn. * Trường hợp 1: Tỉ số dưới dạng phân số. Ví dụ 1: Tỉ số dưới dạng phân số có tử số nhỏ hơn mẫu số. Bài toán: Tổng của hai số là 363. Tỉ số của hai số đó là 3 8 . Tìm hai số đó? - Hướng dẫn học sinh: Đọc kỹ đề bài, xác định yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm. - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: + Bài toán cho biết gì ? ( Bài toán cho biết tổng của hai số là 363. Tỉ số của hai số đó là 3 8 . + Bài toán hỏi gì? ( Tìm hai số đó) + Bài toán này thuộc dạng toán nào? ( Bài toán thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó ). + Tổng của hai số phải tìm là bao nhiêu ? (Tổng của hai số là 363 ). + Tỉ số của hai số đó là bao nhiêu ? (Tỉ số giữa hai số là 3 8 ). + Hai số phải tìm là hai số nào? ( Hai số phải tìm là số lớn và số bé ) - Hướng dẫn học sinh hiểu mối quan hệ giữa Tỉ số với hai số phải tìm: Tỉ số của hai số là 3 8 cho biết số nào tương ứng với mẫu số, số nào tương ứng với tử số? ( Tỉ số của hai số là 3 8 cho biết mẫu số là 8 tương ứng với số lớn, tử số là 3 tương ứng với số bé.) - Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ: Khi vẽ sơ đồ lưu ý cho học sinh biểu thị các phần bằng nhau bằng những đoạn thẳng bằng nhau và biểu thị các dữ kiện của bài toán trên sơ đồ đoạn thẳng. Để vẽ sơ đồ đẹp cần vẽ biểu thị số bé trước số lớn sau. - Hướng dẫn học sinh trình bày bài giải: Khi trình bày bài giải, các câu trả lời phải tương ứng với các phép tính. Các chữ số, các dấu của phép tính, tên đơn vị phải viết rõ ràng, đầy đủ. Bài giải. Vẽ sơ đồ và giải. ? Số bé: ? 363 Số lớn Theo sơ đồ : Tổng số phần bằng nhau là: 8 + 3 = 11(phần). Số bé là: 363 : 11 x 3 = 99. Số lớn là: 363 - 99 = 264. 9 Đáp số: Số bé : 99; Số lớn :264 Nhận xét: Qua việc hướng dẫn học sinh giải bài toán ở ví dụ trên, tôi đã rèn cho học sinh những kỹ năng sau: - Đọc kỹ đầu bài . - Học sinh xác định yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm. - Học sinh xác định hai số cần tìm. - Học sinh xác định mối quan hệ giữa Tỉ số với hai số cần tìm. - Vẽ sơ đồ và trình bày bài giải. Ví dụ 2: Tỉ số dưới dạng phân số có tử số lớn hơn mẫu số. Bài toán: Một cửa hàng có 235m vải, trong đó số mét vải hoa bằng 3 2 số mét vải xanh . Hỏi cửa hàng đó có bao nhiêu mét vải hoa, bao nhiêu mét vải xanh? - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: + Bài toán cho biết gì? (Bài toán cho biết một cửa hàng có 235m vải) + Bài toán hỏi gì? (Bài toán hỏi có bao nhiêu mét vải hoa, bao nhiêu mét vải xanh) + Bài toán này thuộc dạng toán nào? (Bài toán này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó). + Hai số phải tìm là hai số nào? (Là số mét vải hoa và số mét vải xanh) - Hướng dẫn học sinh hiểu mối quan hệ giữa Tỉ số với số vải 2 loại. + Phân số 3 2 cho ta biết gì? ( Số mét vải hoa bằng 3 2 số mét vải xanh có nghĩa là: Số mét vải màu xanh là 2 phần bằng nhau thì số mét vải hoa là 3 phần bằng nhau như thế. Mẫu số là 2 tương ứng với số phần của số mét vải xanh. Tử số là 3 tương ứng với số phần của số mét vải hoa). - Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ và giải bài toán. Bài giải. ? Ta có sơ đồ :. Vải hoa: Vải xanh: 235m ? Theo sơ đồ : Tổng số phần bằng nhau là: 3 + 2 = 5 (phần). Số mét vải hoa là: 235 : 5 x 3 = 141 (m). Số thóc ở kho thứ hai là : 235 – 141 = 94 (m). Đáp số: Vải hoa : 141m. Vải xanh : 94m. 10 * Nhận xét: Với bài toán có Tỉ số dưới dạng phân số mà tử số lớn hơn mẫu số, tôi cũng rèn cho học sinh các kỹ năng giải như các bài toán có Tỉ số là phân số mà tử số bé hơn mẫu số. * Trường hợp 2 :Tỉ số dưới dạng lời văn. Khi hướng dẫn học sinh giải các bài toán ở dạng này, tôi cũng rèn cho học sinh những kỹ năng đọc kỹ đề bài và phân tích bài toán như những bài ở trường hợp 1, song tôi phải lưu ý cho học sinh kỹ năng xác định Tỉ số và mối quan hệ giữa Tỉ số với các đại lượng đã cho trong bài toán. Tỉ số dưới dạng lời văn được phát biểu dưới nhiều hình thức khác nhau: Ví dụ 1: Tổng của hai số bằng 3240. Tìm hai số đó, biết rằng số thứ nhất gấp 4 lần số thứ hai. Hướng dẫn học sinh xác định Tỉ số: số thứ nhất gấp 4 lần số thứ hai, tôi đã hướng dẫn học sinh hiểu là: Số thứ nhất gấp 4 lần số thứ hai, hay số thứ hai bằng 1 4 số thứ nhất. - Hai số cần tìm là số thứ nhất và số thứ hai. - Số thứ nhất tương ứng với 4 phần bằng nhau, số thứ hai tương ứng với 1 phần như thế. - Bài toán này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó. Tổng của hai số là 3240. Tỉ số giữa hai số là 1 . 4 Đến đây học sinh giải bài toán tương tự như cách giải bài toán ở trường hợp 1. * Lưu ý: Ở ví dụ trên, Tỉ số của hai số ẩn dưới dạng gấp một số lên nhiều lần. Ví dụ 2: Tổng hai số là 32. Tìm hai số đó, biết rằng nếu số lớn giảm đi 3 lần thì được số bé. Hướng dẫn học sinh xác định Tỉ số: Số lớn giảm đi 3 lần thì được số bé có nghĩa là số lớn gấp 3 lần số bé. Hay số bé bằng 1 3 số lớn. Hai số cần tìm ở đây là số lớn và số bé. Số lớn tương ứng với 3 phần bằng nhau thì số bé tương ứng với 1 phần như thế. Bài toán này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó.Tổng của hai số là 32. Tỉ số giữa hai số là 1 3 . Học sinh giải bài toán tương tự cách giải bài toán ở trường hợp 1. * Lưu ý: Ở ví dụ trên, Tỉ số của hai số ẩn dưới dạng giảm một số đi nhiều lần Ví dụ 3: Tổng của hai số là 93. Thương của hai số là 2. Tìm hai số đó. Hướng dẫn học sinh xác định Tỉ số: Thương của hai số chính là kết quả của phép chia số thứ nhất cho số thứ hai. Có nghĩa là số thứ nhất gấp 2 lần số thứ hai. Hay số thứ hai bằng 1 số thứ nhất. 2 Hai số cần tìm ở đây là số thứ nhất và số thứ hai. Số thứ nhất tương ứng với 2 phần bằng nhau, số thứ hai tương ứng với 1 phần như thế. 11 Bài này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó. Tổng hai số là 93. Tỉ số của hai số là 1 . Đến đây học sinh giải bài toán tương tự như cách 2 giải bài toán ở trường hợp 1. Lưu ý : Ở ví dụ trên, Tỉ số của hai số ẩn dưới dạng là thương của hai số. Ví dụ 4: Tổng của hai số là 77. Biết 1 4 của số thứ nhất thì bằng 1 3 của số thứ hai. Tìm hai số đó. Hướng dẫn học sinh xác định Tỉ số: 1 4 của số thứ nhất thì bằng 1 3 của số thứ hai. Có nghĩa là số thứ nhất là 4 phần bằng nhau, thì số thứ hai là 3 phần như thế. Hay số thứ nhất bằng 4 3 số thứ hai. Hai số cần tìm ở đây là số thứ nhất và số thứ hai Số thứ hai tương ứng với 3 phần bằng nhau, số thứ nhất tương ứng với 4 phần như thế. Bài này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số. Tổng của hai số là 77. Tỉ số giữa hai số là 4 3 . Đến đây học sinh giải bài toán tương tự như ví dụ trên. * Lưu ý: Ở ví dụ trên, Tỉ số của hai số ẩn dưới dạng mẫu số của 2 phân số. Ví dụ 5: Tổng số tuổi của Nam và mẹ Nam hiện nay là 56 tuổi. Biết tuổi của Nam được bao nhiêu ngày thì tuổi của mẹ được bấy nhiêu tuần. Tính tuổi của mỗi người. Hướng dẫn học sinh xác định Tỉ số: 1 tuần có 7 ngày nên tuổi mẹ Nam gấp 7 lần tuổi Nam. Hay tuổi của Nam bằng 1 7 tuổi của mẹ. Hai số cần tìm ở đây là tuổi của Nam và tuổi của mẹ. Tuổi của mẹ Nam tương ứng với 7 phần bằng nhau. Tuổi của Nam tương ứng với 1 phần như thế. Bài toán này thuộc dạng toán tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó. Tổng số tuổi của hai người là 56 tuổi. Tỉ số giữa số tuổi của hai người là 1 7 . Đến đây học sinh giải bài toán tương tự cách giải bài toán ở truờng hợp 1.  Lưu ý: Ở ví dụ trên Tỉ số ẩn dưới dạng mối quan hệ giữa ngày và tuần. Nhận xét: Khi giải các bài toán dạng: “Tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó” HS thường lúng túng trong việc xác định Tỉ số của hai số và mối quan hệ giữa các đại lượng liên quan đến Tỉ số. Chính vì thế viên cần rèn cho học sinh kỹ năng xác định Tỉ số nhất là những bài toán cho biết Tỉ số dưới dạng lời văn. Sau khi xác định được tổng và Tỉ số của hai số, học sinh vẽ sơ đồ đoạn thẳng rồi giải bài toán theo các bước sau: + Tìm tổng số phần bằng nhau của hai số. 12 + Tìm giá trị của mỗi phần. 4. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến vào thực tiễn * Kết quả khảo sát chất lượng của 18 học sinh lớp 4C đầu năm học 2015 – 2016 với dạng bài “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó” và kết quả như sau: Møc ®é SÜ sè HiÓu bµi tèt T¬ng ®èi hiÓu bµi Kh«ng hiÓu 18 10/18= 55,5% 5/18=27,7% 3/18= 16,8% KÕt qu¶ kh¶o s¸t nh vËy t«i ®· ngay lËp tøc lªn kÕ ho¹ch t×m hiÓu nguyªn nh©n vµ biện ph¸p kh¾c phôc .Vµ nhê vận dụng các giải pháp nêu trên mà trong năm học 2015-2016 lớp tôi đã đạt được một số thµnh tÝch sau * Cụ thể kÕt qu¶ kiểm tra lại của 18 học sinh như sau: Møc ®é SÜ sè HiÓu bµi tèt T¬ng ®èi hiÓu bµi Kh«ng hiÓu 18 15/18= 83,3% 3/18=16,7% 0 Tôi thấy học sinh lớp mình phụ trách có những chuyển biến rõ rệt về kết quả học tập, việc giải toán của học sinh lớp tôi đã đạt được một số tiến bộ, tiết học đạt hiệu quả hơn thể hiện qua một số điểm sau: - Mỗi tiết học, giáo viên và học sinh dễ phối hợp làm việc nhịp nhàng. Học sinh chăm chú say mê học toán, các em không ngại khi giải các bài toán có dạng “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”. Học sinh tích cực, chủ động tìm tòi, sáng tạo xây dựng kiến thức của bài học. Nhờ vậy mà học sinh nắm bài nhanh, nhớ kiến thức lâu hơn, chắc hơn và tự tin làm cho không khí tiết học sôi nổi, không gò bó, học sinh được thực sự bộc lộ hết khả năng của mình. Từ đó các em có hứng thú học Toán, tạo thành thói quen tự suy nghĩ, chủ động làm bài để tìm ra cách giải hay và nhanh nhất. - Nhiều học sinh có khả năng tự học tốt, tham gia thảo luận nhóm hăng hái, biết hỗ trợ nhau hoàn thành công việc chung. - Các em biết tóm tắt bài toán; chọn và thực hiện phép tính đúng và tôi thấy các em hoàn thành bài tốt, trình bày bài rõ ràng, sạch đẹp III- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Quá trình tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu vấn đề "Dạy giải toán - dạng điển hình: tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó” ở lớp 4C trường Tiểu học xã Khả Phong. Tôi rút ra những kết luận sau: Dạng toán điển hình nêu trên là dạng toán hay, học và tìm hiểu, chinh phục được là việc làm rất lý thú, nhưng lại rất mới mẻ, xa lạ đối với học sinh lớp 4. Xét về mặt kiến thức giáo viên cũng đánh giá là dạng toán khó dạy, học sinh khó tiếp thu. Song để đạt được yêu cầu về kiến thức kỹ năng cơ bản Bộ yêu cầu đối với học sinh lớp 4 cũng như để đáp ứng nhu cầu của người dạy, chúng ta cần phải xem xét, điều chỉnh một số "nét" trong khi dạy của giáo viên và cách học của học sinh về dạng toán trên mới mong có kết quả tốt 13 được. Hiện nay, các nhà trường đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc vận dụng, đổi mới phương pháp giảng dạy nói chung và đổi mới phương pháp giảng dạy môn Toán nói riêng và đã đạt được những thành tích cao. Việc sử dụng và tích cực đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học không những giúp cho chất lượng dạy học trong trường được nâng cao mà còn góp phần phát triển tư duy, khả năng nhận thức, khả năng giao tiếp… tốt hơn ở học sinh. Tuy nhiên, trong thực tế, còn có nơi xem nhẹ việc cải tiến, sử dụng phương pháp dạy học mới, giáo viên còn ngại khi dạy, khiến các tiết dạy - học trở nên hời hợt, không sâu, kém phần hấp dẫn đối với người học đã phần nào làm giảm sút, hạn chế chất lượng học toán của học sinh. Thông qua việc quản lý chung và đặc biệt là chuyên môn ở trường Tiểu học xã Khả Phong, qua việc thăm lớp dự giờ, trực tiếp tham gia giảng dạy ở khối lớp 4, qua trao đổi với các đồng chí giáo viên, tôi thấy: Khi dạy dạng toán nêu trên, giáo viên chưa có những biện pháp hữu hiệu để dạy học sinh tuân thủ theo trình tự các bước giải bài toán dạng "Tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó", đôi khi còn dạy theo kiểu riêng mang tính áp đặt, nên quá trình nhận thức của học sinh còn bị động, nhiều khi học sinh chưa kịp nhận dạng bài, chưa hiểu được bản chất của vấn đề đã phải bắt tay vào luyện tập một cách máy móc, dẫn đến bài làm sai. Mặt khác qua khảo sát thực tế và trong qúa trình tìm hiểu nghiên cứu, tôi thấy, nếu giáo viên dạy theo cách bình thường thì kết quả nhận thức đại trà trong học sinh sẽ thấp. Vì vậy, khi dạy dạng toán điển hình nêu trên, giáo viên cần được nghiên cứu trước, soạn kỹ bài giảng, vận dụng khoa học, hợp lý phương pháp dạy học mới nhằm đạt kết quả cao.Vì thời gian nghiên cứu xen kẽ quá trình dạy chính khoá nên việc nghiên cứu còn giới hạn trong phạm vi một lớp do tôi phụ trách. Khả năng bản thân giáo viên có hạn, tài liệu tham khảo ít nên phạm vi nghiên cứu còn hạn chế. Học sinh về nhà ít thời gian nghiên cứu thêm nên phần lớn chỉ phụ thuộc vào bài tập được giao trên lớp. Do vậy sáng kiến này cần sự hợp tác của các đồng nghiệp ở các trường bạn tiếp tục nghiên cứu để đưa ra một kết luận hoàn thiện hơn. Từ những kinh nghiệm thực tế vận dụng trong năm học này cùng với việc khắc phục những hạn chế, thiếu sót của giải pháp, tôi sẽ cố gắng khắc phục, sửa chữa cho giải pháp được hoàn thiện hơn, tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để tìm ra biện pháp tối ưu nhất giúp các em giải toán có liên quan đến “ tổng và Tỉ số của hai số” một cách dễ dàng hơn và đạt hiệu quả cao nhất. 2. Kiến nghị 2.1 Tôi đề nghị vận dụng toàn bộ những biện pháp, phương pháp dạy học đã được nêu trên và đã được áp dụng trong quá trình tôi thực hiện đề tài. Nhấn mạnh khâu chuẩn bị kỹ bài giảng trước khi giáo viên lên lớp. Đó là sự lựa chọn các phương pháp dạy học, chuẩn bị hệ thống câu hỏi chính xác, khoa học, ngắn gọn nhưng học sinh dễ hiểu, chuẩn bị giáo cụ trực quan, đồ dùng giảng dạy của giáo viên, đồ dùng học tập của học sinh … đầy đủ trước khi lên lớp. 2.2 Quá trình dạy giải dạng toán điển hình "Tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó", yêu cầu giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện nghiêm các bước đã 14 được khát quát hoá khi giải bài toán. Học sinh phải được nắm chắc khái niệm "tổng" và "Tỉ số của hai số đó", từ đó nhận được dạng bài toán và có lời giải thích hợp 2.3 Giúp học sinh nắm vững công thức chung khi giải bài toán dạng nêu trên, bằng cách luyện tập (kể cả tăng cường thời lượng luyện tập cho học sinh khi cần thiết). 2.4 Đối với các cấp quản lý giáo dục, nên mở các chuyên đề chuyên môn để bồi dưỡng, bổ túc cho giáo viên về phương pháp dạy các dạng toán điển hình như dạng toán "Tìm hai số khi biết tổng và Tỉ số của hai số đó". Trên đây là phần trình bày sáng kiến kinh nghiệm của tôi. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp từ các bạn đồng nghiệp, sự đánh giá nhận xét của Ban Giám hiệu nhà trường để sáng kiến kinh nghiệm của tôi đầy đủ và hoàn thiện hơn./. Tôi xin trân thành cảm ơn ! Kim Bảng, ngày 10 tháng 11 năm 2016 Người viết Nguyễn Thị Nhung * §¸nh gi¸ cña héi ®ång khoa häc nhµ trêng ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………. 15 ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… §¸nh gi¸ cña héi ®ång khoa häc pgd ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan